Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P7)
Bài báo trên tờ Trường An, xuất bản tại Huế trong dịp này càng tường thuật đầy đủ bao nhiêu, càng đánh bóng Đức Hòang Thượng bao nhiêu càng cho thấy nó dơ dáy, thối tha bấy nhiêu!
Tìm hiểu con người Bảo Đại qua cuốn Hồi ký của ông
Ngai vàng nhà Nguyễn sụp đổ: chấm dứt 400 năm triều Nguyễn
Vua Bảo Đại cũng như Hoàng hậu Nam Phương là những người thấm nhuần văn hóa Pháp nên không thể nào không so sánh cái hoàn cảnh bấp bênh của họ so với số phận cay nghiệt dành cho vua Louis XVI trong cuộc cách mạng Pháp? Bài học Varennes còn đó hẳn là phải nhắc nhở Bảo Đại điều gì? Thật vậy, vào ngày 20-25 tháng sáu 1791, giai đoạn sôi bỏng của cách mạng Pháp, vua Louis và cả hoàng gia đã quyết định tìm cách trốn ra ngoại quốc qua ngã Varennes. Sự tính toán hẳn là đã hết sức cẩn trọng và bí mật. Nhưng rồi cả hoàng gia đã bị bắt tại nơi đây và sau đó bị lên máy chém. Chỉ nghĩ lại thôi cũng đủ rùng mình cho các trò chơi chính trị.
Louis XVI nghỉ ở Vanrennes (1791). Nguồn: http://pages.uoregon.edu/
Bảo đại muốn tránh cái thảm cảnh đó nên quyết định không bỏ trốn tuy cũng có cơ hội. Theo Nguyễn Kỳ Nam ngày 12 tháng Tám, 1945 một viên đại tướng Nhật vào nội thành xin gặp Bộ trưởng bộ Tư Pháp Trịnh Đình Thảo nói là có việc khẩn và mật. Lúc đó có mặt nhà báo Nguyễn Kỳ Nam vì ông đang là Đổng lý văn phòng bộ Tư pháp trong nội các Trần Trọng Kim ở Huế.
“Viên đại tướng Nhật nói: “Tôi từ Sài Gòn vào đây để nhờ ông Bộ Trưởng vào yết kiến Hoàng đế đặng hỏi Ngài: có muốn trao cho quân đội Nhật gìn giữ trật tự trên toàn cõi lãnh thổ V.N. không? Nếu Hoàng đế muốn dẹp những đảng phái chính trị muốn lăm le đoạt chính quyền, thời quân đội Nhật sẵn sàng dẹp tất cả. Tướng Nhật nói thêm, Bộ tham mưu của chúng tôi phúc trình về nói rằng: Việt Minh đang huy động lực lượng trong bóng tối chờ ngày cướp chính quyền. Nghe trình bày xong, Bảo Đại từ chối nói không, vì không muốn đổ máu nữa.”
(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 190)
Chính vì thế, Bảo Đại quyết định ở lại Huế, chấp nhận đối đầu với một tình thế khó khăn và nguy hiểm. Cuối cùng ông hy vọng dân sẽ không bỏ rơi ông. Đây có phải là một hy vọng ảo tưởng không? Người ta sẽ có câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn lúc ông trịnh trọng tuyên bố thoái vị.
Cho nên, quyết định ở lại là một quyết định khôn ngoan. Có tính toán mà có thể chỉ mình Bảo Đại có thể làm được. Tôi vẫn nghĩ cần đánh giá thực chất con người Bảo Đại ở những lúc tình thế cực đoan như lúc này!
Một tình thế mà dòng cuốn của chính trị cứ thế như một dòng cuồng lũ khó bề giữ nổi. Nó tiếp nối nhau mỗi lúc mỗi căng thảng mà không gì ngăn cản được.
Daniel đã nhận thức ra điều ấy, ông viết:
“Tình thế đã không thể nào đảo ngược. Mặc dầu trước đó có tin một nhóm đột kích lấy tên là “Lambda” gồm 6 người do đại úy Pháp Castelnat đã nhảy dù cách Huế 28 kilô mét nhằm tìm cách ngăn chặn Bảo Đại đừng thoái vị. Họ đã bị Việt Minh bắt ngay khi chiếc dù của họ chạm mặt đất. Cho dù họ có không bị bắt thì tình thế xem ra cũng đã quá trễ. Họ không ngăn cản được việc từ chức của Bảo Đại!”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 161)
Bây giờ ngồi nhìn lại thời cuộc lúc đó nhiều người có thể chê trách Bảo Đại là hèn nhát. Nhưng người ngoài cuộc đâu biết rằng ngay sáng ngày 23, Bảo Đại đã nhận được một tối hậu thư của Việt Minh đòi phải từ chức trong vòng 12 tiếng đồng hồ, nếu không lực lượng cách mạng sẽ không bảo đảm tính mạng của hoàng gia. Bức điện tín ký tên rất vu vơ, rất không rõ ràng, chẳng biết cái ủy ban đó là ai? “Un comité de patriotes représentant tous les partis et toutes les couches de la population” (một ủy ban của những người ái quốc đại diện cho tất cả các đảng phái và các tầng lớp dân chúng.)
Hôm sau là ngày 23, Bảo Đại cho hay cung điện nhà vua như trống rỗng, vắng mặt Trần Trọng Kim cũng như các vị bộ trưởng, ngoài mấy người lính canh và người anh em họ Vĩnh Cẩn. Cũng theo Bảo Đại, trước đó ông có liên lạc với Tổng thống Truman, thống chế Tưởng Giới Thạch, vua nước Anh, tướng De Gaulle, nhưng đã không được ai trả lời.
Việt Minh hẳn đã tìm đủ cách để cô lập Bảo Đại bao trùm một sự sợ hãi vu vơ, đe dọa trực tiếp, gián tiếp buộc Bảo Đại phải đi đến chỗ từ chức. Mà mạng sống của chính mình và sự an toàn của hoàng gia đủ để Bảo Đại phải từ chức!
Chẳng hạn, đây là một bằng cớ, một thằng nhãi vốn chỉ là một anh kèm trẻ, giáp mặt hoàng thượng vốn đã khó, có thể trở thành một cố vấn!
“Nhưng vào một buổi chiếu, Bảo Đại cho biết có một thanh niên mà ông mới tuyển vào dạy học cho Bảo Long đã vào gặp và năn nỉ Bảo Đại phải rời Hoàng Cung đi trú ẩn ở chỗ lăng tẩm các vua nhà Nguyễn.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 117)
Bảo Đại không biết đây là một lời khuyên chân thành hay là một sự xúi dục nào khác. Và cho đến sau này, bảo Đại cũng không bao giờ biết rõ câu chuyện. Chỉ rất tiếc, Bảo Đại không cho biết tên người thanh niên này là ai?
Và đến khuya, lại thêm viên giám đốc bưu điện đem vào trình một công điện vào trình đánh đi từ Hà Nội.
“Thể theo ý nguyện của toàn dân Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập quốc gia, chúng tôi kính cẩn xin nhà vua làm một nghĩa cử lịch sử bằng cách từ nhiệm. Công điện do đại diện những người yêu nước đại diện cho tất cả các đảng phái và mọi tầng lớp đân chúng.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 118)
Nhưng ngay từ đầu bài viết này, tôi đã đánh giá Bảo Đại là người ham sống, sợ chết và bằng bất cứ giá nào, ông cũng chọn cho mình một con đường sống. Chọn sự hợp tác với Pháp, rồi bỏ rơi Pháp, chọn Nhật rồi sau chọn Việt Minh, và lại quay trở lại với Pháp — hưởng trọn vẹn mọi bổng lộc trong vai trò Vua và trong vai trò Quốc Trưởng.
Nếu nói ai là người thúc dục Bảo Đại thoái vị thì người thứ nhất có thể là Huỳnh Thúc Kháng. Bên cạnh đó là Phạm Khắc Hòe. Hòe cũng đưa ra cái gương của Louis XVI và gián tiếp dọa Bảo Đại là đừng để nước đến chân mới nhảy.
Chẳng biết Ủy ban lãnh đạo là ai ở Hà Nội để phúc đáp công điện. Bảo Đại đành gửi cho “Comité des Patriotes” (Ủy Ban những người yêu nước) lá thư phúc đáp như sau:
“Phúc đáp lời kêu gọi của quý ông, tôi sẵn sàng từ nhiệm. Trong cái giờ lịch sử quyết định của dân tộc, đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả cho sự đoàn kết được thực hiện và tôi mong mỏi các vị lãnh đạo ủy ban này đến Huế trong thời gian sớm nhất để chuyển giao quyền hành.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 119)
Ngày 25-8, đại diện của Hồ Chí Minh là Trần Huy Liệu, trưởng phái đoàn cùng với Cù Huy Cận đến gặp Bảo Đại.
Trần Huy Liệu. Nguồn: http://daidoanket.vn/
Trần Huy Liệu vốn là một nhà báo, bút hiệu Nam-Kiều, viết cho tờ Đông Pháp, ở trong Nam — vóc dáng tầm thường, mắc lác. Trần Huy Liệu nhân danh lãnh tụ Hồ Chí Minh trân trọng nhận chiếu thoái vị từ tay Bảo Đại và yêu cầu Bảo Đại đọc trước công chúng Huế.
Nguyên văn chiếu thoái vị của vua Bảo Đại, buổi chiều, ngày 25 tháng tám, 1945:
“Chiếu rằng:
Hạnh-Phúc của dân Việt-Nam
Độc-Lập của nước Việt-Nam
Muốn đạt mục-đích ấy, Trẫm đã tuyên bồ sẵn-sàng hy-sinh hết thảy, và muốn rằng sự hy-sinh của Trẫm phải lợi ích cho Tổ-quốc.
Xét tới sự đoàn-kết toàn-thể quốc-dân trong lúc này là điều tối cần thiết, Trẫm đã tuyên-bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi trong giờ nghiêm-trọng của Lịch-Sử Quốc-Gia: Đoàn-Kết là sống, Chia rẽ là chết.
Nay thấy nhiệt-vọng dân-chủ của quốc-dân Bắc-Bộ lên cao, nếu Trẫm cứ yên vị đợi một Quốc-Hội thì e rằng khó tránh được sự Nam-Bắc tương tàn, đã thống khổ cho quốc-dân lại thuận-lợi cho người ngoài lợi dụng.
Mặc dầu Trẫm đau đớn nghĩ đến công lao Liệt-Thánh đã vào sinh ra tử đã gần 400 năm để mở mang non-sông đất nước từ Thuận-Hoá tới Hà-Tiên. Mặc dầu Trẫm buồn rầu nghĩ tới 20 năm qua Trẫm ở trong cái cảnh không thể thi-hành được việc gì đáng kể cho nước nhà như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả-quyết thoái-vị nhường quyền điều-khiển quốc-dân cho Chính-phủ Dân-Chủ Cộng-Hoà.
Sau khi thoái-vị, Trẫm chỉ mong ước có 3 điều:
– Đối với Tôn-Miếu và Lăng-Tẩm của Liệt-Thánh Chính-phủ mới nên giữ-gìn cho có trọng thể.
– Đối với các đảng-phái đã từng tranh-đấu cho nền Độc-Lập Quốc-Gia nhưng không đi sát phong-trào dân-chúng, Trẫm mong Chính-phủ mới ôn-hoà mật-thiết xử-đối để những phần-tử ấy cũng có thể góp sức kiến-thiết quốc-gia và để tỏ ra rằng chính thể mới xây đắp trên sự đoàn-kết của toàn-thể quốc-dân.
– Trẫm mong tất cả các đảng phái, các giai-từng xã-hội, các người trong Hoàng Tộc nên hợp nhất ủng-hộ triệt-để Chính-phủ Dân-chủ để giữ vững nền Độc-Lập nước nhà.
Riêng Trẫm trong 20 năm Ngai vàng Bệ-ngọc, đã biết bao lần ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân một nước Độc-Lập, quyết không để ai lợi-dụng danh nghĩa của Trẫm hay danh nghĩa của Hoàng-Gia mà lung-lạc quốc-dân nữa.
Việt-Nam Độc-Lập muôn năm!
Dân-Chủ Cộng-Hoà muôn năm!
Khâm Thử: BẢO ĐẠI.”
(Nghiêm Kế Tố, Việt Nam Máu Lửa, Nhà xuất bản Mai Lĩnh 1954, trang 38, 39, 40.)
Đây là bài diễn văn đọc trước vài ngàn dân chúng trước cửa Ngọ Môn vào buổi chiều do đề nghị của Trần Huy Liệu. Bài chiếu thoái vị này do Hoàng Thân Vĩnh Cẩn viết; người khác cho là Trần Huy Liệu soạn sẵn, Bảo Đại chỉ có việc đọc. Trong lúc đọc, do xúc động cũng có, dù có micro, do đọc tiếng Việt không sõi, người nghe chữ được, chữ không. Chỉ biết đây là nội dung thoái vị.
Vua Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ ở Ngọ Môn, Huế vào chiều 30 tháng 8, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận. Nguồn: “バオ・ダイ帝 “ (Hoàng đế Bảo Đại) http://vietkon.blog73.fc2.com/blog-entry-454.html.
Khi đọc xong chiếu thoái vị, Bảo Đại quan sát những người đứng gần cho thấy họ đều ngạc nhiên đến sửng sốt. Cả đàn ông đàn bà như vừa nghe tiếng sét đánh, sững sờ.
Trong một bầu khí như câm lặng, Bảo Đại vội vàng trao ấn tín cho Trần Huy Liệu và dân chúng tản ra về trong sự im lặng! Theo Bảo Đại khi đọc xong chiếu thoái vị thì ở dưới im lặng như tờ. Dân chúng cảm thấy kinh hoàng khi nghe chiếu thoái vị.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn mong được đọc một nhân chứng sống đã có mặt trong buổi lễ thoái vị này. (Trách nhiệm treo và hạ cờ là do hai thanh niên Huế là Đặng Văn Việt và Nguyễn Thế Lương. Sau này Việt trở thành Trung Đoàn Trưởng và Lương là cục phó cục quân báo.)
Bảo Đại lập tức rời địa điểm tập họp bên cạnh có Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đi kèm, dân chúng cũng rút lui một cách thầm lặng. Trước khi họ chia tay, Trần Huy Liệu nhân danh Hồ Chí Minh mời Bảo Đại ra Hà Nội. Bảo Đại nhận lời.
Nhận xét của tác giả Daniel Grandclément có phần thiên lệch với giọng điệu chế diễu:
“Và lúc đó đám đông đã phá lên cười khi Huy Cận đứng trên bục, micro cầm trên tay, dơ lưỡi thanh kiếm và nói: “Huy Cận nói to: thanh kiếm đã rỉ rồi, biểu tượng của quyền hành của nhà vua đã mục rỉ rồi.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 171)
Tôi vẫn tin rằng, dù thế nào đi nữa, trong hoàn cảnh này, người dân Huế không thể cười nhạo Bảo Đại. Và có khó gì đối với Việt Minh, họ dàn cảnh một bọn người cầm cờ quạt, biểu ngữ và hô khẩu hiệu.
Ngày hôm sau, bà Từ Cung rời cung điện. Bà Nam Phương cũng rời khỏi cung 24 tiếng đồng hồ sau. Bảo Đại còn lại trong cung và đây là tâm trạng của ông:
“Tôi cảm thấy một sự an bình to lớn trong tôi., một sự bình tĩnh lớn và tôi không thấy có gì để hối tiếc. Tôi cảm thấy cần thiết phải viết như sau: Cuối cùng, tôi được tự do. Cảm thức này đến với ông một cách tự nhiên như thể ông vừa trút được một gánh nặng cho phép tôi cứu được xứ sở của tôi. Và hy vọng dân chúng xiết chặt hàng ngũ chung quanh một nhóm người mà cứ bề ngoài cho thấy, họ có đầy đủ khả năng hơn tôi để thực hiện được một nền độc lập.
Vì không có việc gì làm ở Huế, tôi chấp nhận lời mời của chủ tịch Hồ Chí Minh ra viếng thăm Hà Nội một chuyến. Nhiều người như hoàng hậu lo sợ cho tôi về chuyến đi này.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 122)
Chuyện thoái vị là biến cố lớn như thế, nhưng tình hình Huế lại êm ả. Từ trong nhà ra đến đường phố, không có bất cứ một dấu hiệu gì bất thường. Nếu có gì đặc biệt là có những đoàn người đi biểu tình, cầm biểu ngữ hô vang nhiều khẩu hiệu cộng với tiếng loa, tiếng trống ếch của các thiếu nhi và những tiếng hát.
Nhưng trong bóng tối thì có những vụ bắt bớ, tuyên án tử hình và xử ngay lập tức.
Hồ Chí Minh cũng cử ông Lê Văn Hiếu, bộ trưởng Lao động đại diện chính quyền để kiểm tra tài sản của triều đình.
Ngoài những diễn biến công khai chính trị như vừa kể, đã có nhiều dấu hiệu bất bình thường ở Huế. Đã có nhiều cuộc ám sát hoặc thủ tiêu bí mật mà phần đông là những người quốc gia. Chỉ hơn một tuần sau, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi và con trai Ngô Đinh Huân, thông dịch viên cho Nhật bị xử tử ngày 6-9.
Phạm Quỳnh bị xử bắn là một trong những trường hợp điển hình nhất ở Huế. Giết Phạm Quỳnh là giết cả một biểu tượng Huế, một trí thức Tây học, một người cộng tác với Pháp, một tay chân thân tín của Bảo Đại, một quan đại thần của triều đình Huế.
Giết Phạm Quỳnh không bao giờ là sự vô tình hay giết nhầm, giết oan cả. Nó nằm trong chính sách đường lối của Việt Minh. Cha con Ngô Đình Khôi là một cái giá khác phải trả.
Ngoài Bắc, Phan Kế Toại đã kịp thời phải từ chức và ngày 19 tháng 8, 1945 Việt Minh đã chiếm các cơ sở quan trọng như Dinh Toàn Quyền, Bộ tư Pháp cũng như bộ tài chánh, các cơ sở trường đại học cũng như trung học.
Trong Nam, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, lãnh đạo “phong trào thanh niên tiền phong”, nhường chỗ cho Trần Văn Giàu, cũng là người của Việt Minh.
Riêng ngoài Bắc xảy ra nhiều vụ ám sát người của đảng phái hoặc thành phần được coi là Việt gian.
Khi người Tàu rút lui, Võ Nguyên Giáp đã mở chiến dịch rộng rãi tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia. Đây là một thanh toán cho sạch mọi thành phần không theo Việt Minh.
David Marr ghi lại:
“Bình Sơn, một cán bộ Việt Minh trong “những tiếng súng diệt kẻ phản bội” (Shots that eliminate traitors) đã ghi lại việc Bình Sơn được cấp trên cho trừ khử một người tên Truyền. Bình Sơn mang một đội quân gần 100 người đến bao vây nhà của Truyền và hai phụ tá. Sau khi đọc bản án, Bình Sơn hạ lệnh bắn cả ba người.”
(David G. Mar, Vietnam 1945, The quest for power, University of California Press, trang 236)
Những vụ án giết người như thế thường không có đủ bằng cớ, đôi khi ám sát công khai ngay giữa đường phố. Nó có tác dụng ngăn chận và đe doạ và khủng bố người khác. Như ở Hải Phòng, cán bộ Việt Minh đã bắn người ngay trên đường phố vì những người này bị coi là “collaborator” (hợp tác với thực dân) hay thành phần “reactionary” (phản động) trong khi nạn nhân đợi ở bến phà đi Kiến An. Nhạc sĩ Văn Cao cũng nằm trong danh sách các tên sát thủ ấy ở Hải Phòng.
Theo Hoàng văn Hoan, tác giả “Giọt nước trong biển cả”, thành phần đảng phái như Đại Việt quốc gia liên minh là mục tiêu chính của Việt Minh tại nhiều thành phố. Vẫn theo Hoàng Văn Hoan, tổng số Việt Minh lúc bấy giờ vào khoảng trên dưới 5000 đảng viên mà nhiều người còn nằm trong nhà tù của Pháp.
Ngay tại Huế, truyền đơn rải khắp nơi và nhiều nhóm tuần hành trong thành phố ngay sát với hoàng cung.
(Còn tiếp)
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline