Voi dưới mắt các nhà sử học và trong đời sống thiên nhiên (II)
Trường hợp Trương Vĩnh Ký trong Cours d’histoire d’Annam.
Trương Vĩnh Ký là người xác nhận có voi trong các trận chiến. Xin tóm tắt trong ít dòng phần tài liệu của Trương Vĩnh Ký. Chỉ trong nửa trang giấy, ông viết:
“…về chuyện Quang Trung đem quân ra Thăng Long với quân số khoảng 80 chục ngàn người. Ông dừng quân tại Thọ Bạc, thuộc tỉnh Thanh Hóa trong vài ngày. Lê Chiêu Thông biết tin này hoảng sợ nên yêu cầu tướng Trung Hoa chuẩn bị ứng phó. Nhưng tướng Trung Hoa, tự tin cho rằng không có cái gì phải sợ hãi.
Quân Tây Sơn đến trấn Sơn Nam (Thuộc tỉnh Hưng Yên và Nam Định). Quân đội Trung Hoa cho vài đơn vị ra ứng chiến. Phần Tây Sơn, đoàn quân đi đầu của Tây Sơn là 100 voi trận. (Éléphants de guerre).
Quân lính Trung Hoa trông thấy những con vật khổng lồ này thì sợ hãi vào núp trong thành. Quân của Tây Sơn đuổi theo và cứ thế đánh bại quân địch.”
(Trương Vĩnh Ký, Cours d’Histoire d’Annamite, tome 3, trang, 204, in năm 1875)
Cũng như nhiều tài liệu sau này, Trương Vĩnh Ký không cho biết voi “xuất trận” từ đâu? Đây là câu hỏi thiết yêu quan trọng nhất mà người viết bài này không bao giờ tìm được câu trả lời thỏa đáng.
Phần quân Trung Hoa chỉ trông thấy voi đã bỏ chạy? Phần kết luận thế nào, xin để người đọc tự thẩm định!
Charles B.– Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820)
Tài liệu này chỉ là chép lại một nguồn tài liệu thu thập được mà cũng đã không cung cấp rõ ràng cho biết nguồn tư liệu lấy ở đâu. Xin tóm lược:
“Ông (chỉ Huệ) đã có mặt ở Nghệ An ngày 26-12. Ông tổ chức đội quân của ông thành 4 binh đội, đằng trước, đằng sau, trái phải. Ông cũng tổ chức một binh đội trung ương mà phần lớn là tân binh bằng cách cứ ba người đàn ông thì lấy một người.. Và quân của Quang Trung lúc bấy giờ là trên 100.000 người, được hỗ trợ bởi vài trăm voi trận. Ở Thanh Hóa, ông phối hợp với binh đội của Ngô Văn Sở mà không hỏi tội về việc lui quân của Ngô Văn Sở. Đến ngày đầu năm ta, tức 26 tháng giêng, năm 1789. Ông mở lễ khao quân, sau đó kéo quân ra Thăng Long. Và chúng ta sẽ có mặt ở Thăng Long ngày thứ bảy.”
(Charles B.– Maybon. Histoire moderne du pays d’Annam 1592-1820, Tập II, trang 298)
Về con số binh lính Tây Sơn, Charles Maybon đã đưa ra con số trên 100.000 người mà không dẫn chứng. Ít lắm sự chênh lệch giữa Trương Vĩnh Ký và Ch. Maybon là 30.000 ngàn người. Con số voi trận nay đã tăng lên vài trăm con thay vì 100 con.
Sự chênh lệch về những con số như trên có cho phép người đọc chấp nhận có voi trận hay không?
Ngoài một vài tác giả có đề cập đến vấn đề “tượng binh” ở trên, nay cho thấy, có một số tài liệu đầu nguồn khác, cũng rất khả tín, được các tác giả quan sát tại chỗ, như nhân chứng cho thấy: voi hoàn toàn không có vai trò “voi trận”. Voi chỉ là một con vật có thể thuần phục và có thể đảm đương các công việc như chuyên trở, kéo gỗ.
Nếu có vai trò “lịch sử” nào khác thì voi chỉ đóng vai trò đi diến tập, đi diễn hành trong các dịp xuất cung của các Chúa Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài.
Vì thế, các tài liệu hầu như không đả động gì đến “vai trò tuợng binh” của voi, chỉ vì một lẽ đơn giản, voi, tự nó không có những tư chất cần thiết tối thiểu để trở thành voi trận như người ta tưởng.
Cố đạo A. De Rhodes và vai trò của voi
Câu trả lời gián tiếp của cố đạo Alexandre De Rhodes và một số các người ngoại quốc có mặt ở Việt Nam bắt buộc chúng ta phải đặt lại nhiều vấn đề.
Ở đây là vai trò của loài thú hoang dã: Con voi.
Thứ đến, các tài liệu của các nhà nghiên cứu về các thú vật hoang dã ngày nay đã cho thấy, voi có thể chưa bao giờ có khả năng ra trận như người ta đã cố tô vẽ cho chúng.
Nếu so sánh voi và ngựa trong chiến trận thì ngựa trở thành một thứ vũ khí quyết định trong nhiều trận đánh của các người Tây Phương cũng như của quân Mông Cổ. Về sự ưu thế của ngựa, đó là sức mạnh của ngựa có thể chạy nhanh, có thể tham dự các trận đánh xáp lá cà và tất cả tùy thuộc vào tài năng của người cưỡi ngựa.
Trong khi đó, voi hoàn toàn không có những khả năng đó.
Linh mục Alexandre De Rhodes sang truyền giáo ở Việt Nam, ở Đàng Ngoài, vào các năm từ 1626-1651.
Trong cuốn sách của ông nhan đề Histoire du royaume de Tunquin, et des grands progrez que la prédication de l’Évangile y a faits en la conversion des infidelles (Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài (Bản Việt ngữ của Hồng Nhuệ). Bản chính được ấn hành bằng ba thứ tiếng: tiếng Ý năm 1650, tiếng Pháp năm 1651 và tiếng La Tinh năm 1652.
Trong chương 15, ông đã dành để viết về: Các súc vật thường thấy ở nước Annam như sau:
Histoire du royaume de Tunquin, et des grands progrez que la prédication de l’Évangile y a faits en la conversion des infidelles . Depuis l’année 1627 jusques à l’année 1646. Composée en latin par le R. P. Alexandre de Rhodes,… et traduite en français par le R. P. Henry Albi,… Auteur : Rhodes, Alexandre de (1591-1660) Éditeur : J.-B. Devenet (Lyon) Date d’édition : 1651 Contributeur : Albi, Henri (1590-1658). Traducteur Type : monographie imprimée
“Về voi thì cả nước Annam có những con to lớn và khỏe mạnh thường đưa từ nước Lào ở ngay kế cận. Họ bán cho người ngoại quốc với giá rất đắt, mua được rồi còn phải nuôi, cũng rất tốn kém, vì một con voi phải đủ lương thực bằng nuôi mười người. Chúa Đàng Ngoài nuôi chừng 300 trăm con, thỉnh thoảng mới dùng tới và một phần để thêm lộng lẫy khi Chúa ngự ra khỏi Kinh thành.
Nhưng khi thao luyện một đạo bộ binh thì cho tất cả voi đi diễu. Vì thế rất tốn kém để bảo dưỡng quản tượng làm huấn luyện viên.
Thật lạ lùng khi thấy chúng rất ngoan, và dễ dàng để tập nói chuyện với người thường, thường đi rảo khắp kinh thành mà không làm hại ai hay phá phách gì.
Chúng còn giúp rất nhiều cho dân trong thành khi có hỏa tai, thường hay xả ra, bởi vì nhà làm bằng gỗ. Thế là người ta dẫn mấy con voi tới để dỡ những nhà ở cạnh ngôi nhà đang cháy không cho lửa bén sang có thể làm thiêu rụi cả thành phố, nếu không dùng cách này để dập tắt.
Chúng thi hành rất chính xác, rất khéo léo. Chúng vâng theo hiệu lệnh của quản tượng, lấy vòi dỡ nóc nhà, rồi lấy chân lật đổ tường mà không làm quá lệnh người ta ra cho chúng.
(…) Người ta kể về những con voi đó, về tính dễ bảo và về nhiều sự rất lạ lùng mà tôi chưa thấy, nên tôi không nói gì thêm ở đây, tôi chỉ kể điều tôi chứng kiến mà thôi.”
(Alexandre De Rhodes. Lịch sử vương Quốc Đàng Ngoài. Bản dịch của Hông Nhuệ, trang 33-34)
Ở trang 21, cố đạo viết rõ và chi tiết hơn như sau:
“Mỗi lần Chúa về miền quê như đã nói, không những có đoàn quân binh hùng mạnh đi theo mà còn có một số kỵ binh chọn lọc để làm hàng danh dự và hơn 100 cỗ voi với thảm quí, đưa cung phi và hoàng gia với đoàn phục dịch, ngồi an toàn trong những lầu thấp rất vững chắc trên lưng voi. Con vật này rất khỏe có thể trở trong bành tới 6 người, không kể người quản tượng cưỡi trên cổ. Khi Chúa ra khỏi Kinh thành để dự cuộc thao diễn trận chiến hay cuộc đô vật do các quân binh thi hành thì đây là một nguyên nhân khích lệ rất mạnh để làm cho giỏi, cho tốt, để ngoài Chúa ra còn có một đoàn khách bàng quan sang trọng chứng kiến..”
(A. De Rhodes, Ibid, trang 21)
Theo như nhận xét của A. De Rhodes thì voi ở xứ ta vốn không có, mà đưa vào từ Lào. Giá đắt nên người dân giả không có tiền để nuôi trong nhà. Chỉ có nhà Chúa mới có tiền nuôi đến 300 con. Số voi như thế thường chỉ tập trung ở Kinh đô, tức Kẻ Chợ.
Chú thích. Xứ Đàng Ngoài thời xưa vốn được người Trung Hoa coi như một tỉnh lớn nội thuộc Trung Quốc được gọi là Annam. Annam có nghĩa là nghỉ yên ở phía Nam. Annam như thế được gọi chung cho cả hai Xứ Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Mục đích việc nuôi voi là để diễn hành, chở người của Phủ Chúa trong những dịp ra khỏi kinh thành. Nó tỏ ra được cái uy quyền, cái oai của nhà Chúa khi ra ngoài. Hoặc dùng voi trong các buổi lễ lạc, đi diễn hành mà thôi. Cố đạo đã không hề đả động đến voi trận vì một lẽ giản dị voi di chuyển quá chậm chạp, sợ tiếng súng nổ khác hẳn loài ngựa chiến. Có người chép sử nghĩ đến chuyện chọc thủng lỗ tai voi để chúng điếc mà xông vào trận! Thêm một nhận xét rất lý thú của A. De Rhodes là người ta dùng voi trong vai trò của người lính cứu hỏa, rất công hiệu nhờ voi mà các đám cháy được dập tắt. Nếu không thì cả khu vực bị làm mồi cho lửa.
Trong phần kết luận, A. De Rhodes đã kết luận là trong dân chúng có nói nhiều đến sự lạ mà voi đã làm, nhưng vì không trông thấy nên không nói ra ở đây. Vì thế, sự lạ đó là gì, ông không đề cập tới. Nhưng vai trò voi ra trận như một “tượng binh” là hoàn toàn không thấy cố đạo đề cập tới ở đây chỉ vì một lẽ đơn giản là không có chuyện đó. Nếu có, vị cố đạo chắc hẳn đã đề cập đến.
(Còn tiếp)Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline