Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Thich Nữ Hằng Như - Sơ Lược Thân Thế và Sự Nghiệp hoằng pháp của Đức Phật Thích Ca

30 Tháng Chín 201811:35 CH(Xem: 9272)
Thich Nữ Hằng Như - Sơ Lược Thân Thế và Sự Nghiệp hoằng pháp của Đức Phật Thích Ca

Sơ Lược Thân Thế và Sự Nghiệp hoằng pháp
của Đức Phật Thích Ca

-------------------------------------------

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ


cuoc-doi-duc-phat

 

          Thái tử Siddhãrtha Gautama (Pãli) hay Siddhattha Gotama (Sanskrist) hoặc Sĩ-Đạt-Ta (Tất-Đạt-Đa) Cồ-Đàm, sau khi thành đạo được các Phật tử tôn kính xem Ngài là một bậc đạo sư vĩ đại, vì Ngài là người đã giác ngộ viên mãn, là người tự biết mình thực sự thoát khỏi vòng quay luân hồi sinh tử, là người hiểu rõ được nguyên tắc vận hành khách quan của hiện tượng thế gian. Sau đó truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người hữu duyên không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dạy họ phương pháp tu tập chấm dứt khổ đau phiền não trong cuộc sống thế gian, hầu kinh nghiệm được hạnh phúc tối thượng.

          Chi tiết về cuộc đời, lúc còn là Thái Tử, cũng như tiến trình tu chứng và thành đạo cùng những lời dạy của Ngài trong 45 năm hoằng pháp đã được chúng đệ tử ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi Ngài nhập diệt.

 

TIỂU SỬ

          - Đản sanh: Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch. Theo Phật Giáo Bắc Tông, Đức Phật sanh ngày mồng Tám tháng Tư. Ngài ra đời tại ven rừng ở Lâm-Tỳ-Ni, một địa danh nằm giữa hai tiểu quốc Sakyã và Koliya thuở bấy giờ. Đây là khu vực nằm giữa dãy Hi-mã-lạp-sơn và sông Hằng.

          Ngài tên Sĩ-Đạt-Ta (Tất-Đạt-Đa), họ Cồ Đàm (Gautama/Gotama), thuộc dòng tộc Thích Ca (Sakya). Gốc dân da trắng Árya. Ngài là Thái tử nước Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Độ. Phụ hoàng là Tịnh Phạn Vương-Đầu-Đà-Na (Suddhodana), Mẫu hoàng là Maya. Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường. Tuy Ngài được sống trong thời kỳ thịnh trị của triều đại Sakya, nhưng khi lớn lên nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, sinh, già, bệnh, chết, nên Ngài cương quyết xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và cho người, với ước mong đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác ngộ.

          - Thân phụ của Thái tử là Đức vua Tịnh Phạn (Suddhodana).

          - Thân mẫu: Là Hoàng hậu Ma-ha-ma-da [Mãyãdevĩ (Skt), Mahãmãyãdevi (P)] băng hà sau khi hạ sinh Thái tử Sĩ-Đạt-Đa 7 ngày vào năm 624 trước Công nguyên.

          - Di Mẫu: Vương phi Maha-Ba-xa-ba-đề (Mahã Pajapati Gotami) là dì ruột đã trực tiếp nuôi nấng dạy dỗ Thái tử kể từ khi Hoàng hậu Maya băng hà cho đến khi Thái tử Sĩ-Đạt-Ta trưởng thành. Vương phi có con trai với vua Tịnh Phạn là  Hoàng tử Nanda, nhưng để toàn tâm toàn ý lo cho Thái tử Sĩ-Đạt-Ta, lệnh bà đã giao Hoàng tử Nanda cho các bảo mẫu trong cung nuôi dưỡng.

          - 16 tuổi Thái tử Sĩ-Đạt-Ta thành hôn với Công chúa Da-Du-Đà-La [Yashodhara (P)] cùng tuổi với Thái tử vào năm 608 trước Tây lịch.

          - 29 tuổi: Công chúa Da-Du-Đà-La hạ sanh một hoàng nam cho Thái tử Sĩ-Đạt-Ta. Đức Vua Tịnh Phạn đặt tên cho cháu nội là La-Hầu-La (Rahula).

 

XUẤT GIA CẦU ĐẠO

          - Xuất gia: Cũng vào năm 29 tuổi, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta quyết định rời cung điện bắt đầu cuộc sống lang thang khất sĩ, du phương cầu đạo để giải quyết bốn vấn đề lớn là sanh, già, bệnh, chết.

          Ban đầu Ngài học thiền yoga với đạo sĩ Àlàra Kàlama đạt tới Vô Sở Hữu Xứ định, tuy được Thầy ấn chứng đạt đạo và mời cùng hướng dẫn đồ chúng, nhưng Ngài từ chối vì muốn tu học thêm. Sau đó Bồ-tát theo tu học với đạo sĩ Uddaka Ramàputta, trong thời gian ngắn Bồ-tát đạt tới tầng định thứ Tư, là tầng định cao nhất của thiền Yoga là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định. Ngài được đạo sĩ Uddaka ấn chứng và ngõ ý muốn giao đồ chúng cho Ngài trông coi. Vì nhận thấy các pháp này đã không đưa đến thượng trí và Niết Bàn nên Bồ-tát từ chối, xin phép ra đi.

          Trên đường đi tìm pháp Ngài gặp năm anh em tu sĩ Kiều Trần Như, và đã cùng các vị này tu pháp môn khổ hạnh. Thời đó người ta tin rằng nếu hành hạ thân xác càng nhiều thì càng mau đắc quả.  Qua 6 năm dài cả hai pháp tu thiền Yoga và khổ hạnh cũng không đáp ứng nhu cầu thoát khỏi luân hồi sinh tử của Bồ-tát.

          Bồ-tát lại rời bỏ pháp tu đì thân đì xác đã khiến Ngài suýt chết, nếu không được cô gái chăn cừu Sujata tình cờ đi ngang qua thấy Ngài ngất xỉu bên lề đường cúng dường bát sữa. Khi tỉnh dậy, Bồ-tát ngộ ra rằng sự hành hạ thân xác quá độ như Ngài đang làm là một sai lầm lớn. Ngài nghĩ đi tu là để giác ngộ tìm ra phương án giải thoát khỏi khổ đau, mà cái gì giác ngộ nếu không nói là cái Tâm? Tâm gá vào thân để tu tập, để quán chiếu, để kiến giải. Nếu cứ hành hạ thân xác đưa đến thân hoại mạng chung thì Tâm gá vào đâu để đạt được mục tiêu giác ngộ đây? Lúc bấy giờ ngài quyết định chọn đường trung đạo sống để nuôi thân. Đó là không quá lợi dưỡng cũng không quá khổ hạnh. Nhưng về pháp hành trì thì Ngài chưa biết phải tu pháp gì? Trong một buổi toạ thiền Bồ-tát nhớ lại khi còn nhỏ đã có lần theo phụ vương tham dự Lễ Hạ Điền. Lúc ấy Thái tử đã ngồi duới gốc cây hồng táo nhập định sâu, đạt sự phấn chấn hỷ lạc qua pháp Thở nhẹ nhàng tự nhiên. Sau khi thử tập lại, Bồ-tát thấy có kết quả như lúc còn nhỏ nên Ngài quyết định chọn pháp này để hành trì.

 

THÀNH  ĐẠO

          Sau 4 tuần lễ ngồi dưới cội Pipphala bên bờ sông Neranjara (Ni-Liên-Thiền) gần làng Uruvelã. Cây Pipphala là một loại cây cổ thụ to lớn có tàng cây toả rộng lá hình trái tim, ngày nay người ta gọi là cây Bồ-đề tức cây Giác ngộ vì Đức Phật đã giác ngộ dưới cội cây này.

          Vào cuối canh ba, tháng Vesãkha, khi trăng vừa lặn và sao mai ló dạng, Bồ-tát Cồ Đàm chứng quả vị đại A-la-hán, chánh đẳng giác. Năm ấy Ngài vừa tròn 35 tuổi. Kinh kể lại rằng:

          - Sau đêm chứng ngộ, 7 ngày đầu tiên, Đức Phật ngồi tại cây Giác ngộ để chứng nghiệm và thọ hưởng hạnh phúc giải thoát siêu thế, đồng thời quan sát lại pháp duyên khởi.

          - 7 ngày thứ hai, Đức Phật đứng nhìn cội cây Giác ngộ, biểu hiện hạnh tri ân tàng cây xanh kia đã che sương đỡ nắng cho Ngài trong thời gian qua.

          - 7 ngày thứ ba, do suốt nửa tháng thấy Đức Phật cứ ở mãi bên cội cây Bồ-đề, chư thiên hoài nghi không biết Ngài đã chứng ngộ chưa. Biết sự thắc mắc của chư thiên, nên Ngài vận dụng thần thông tạo một con đường bằng ngọc giữa hư không, rồi đi kinh hành qua lại trên đó.

          - 7 ngày thứ tư, Đức Phật kiến tạo một ngôi nhà lầu bằng ngọc. Ngài ngồi trong ấy để chiêm nghiệm lại tất cả nội dung và chi tiết của sự chứng ngộ.

          - 7 ngày thứ năm, Đức Phật đi qua hướng Đông của cội Bồ-đề, tọa thiền dưới cội cây đại thụ bên cạnh, hưởng hạnh phúc vô vi giải thoát.

          - 7 ngày thứ sáu, Đức Phật đi qua hướng Đông của cội cây đại thụ, ngồi phía bên phải của cội cây khác tên là Muccalinda, thì bất chợt mưa đổ tầm tả. Có con rồng 7 đầu (sách khác ghi là con Mãng xà vương) thấy vậy, bò đến, nhẹ nhàng quấn quanh mình Đức Phật bảy vòng, rồi dùng 7 cái đầu của nó ráp lại thành một tàng lọng vĩ đại che mưa cho Đức Phật.

          - 7 ngày thứ bảy, Đức Phật dời chân qua bên phải cội cây Muccalinda, ngồi dưới tàng cây Rãjãyatana, nhập "diệt thọ tưởng định", thọ tưởng biết mà tâm hoàn toàn yên lặng, để hưởng hạnh phúc siêu thế.

          Sau 7 ngày, Đức Phật xả định. Bấy giờ có hai thương buôn người Miến Điện là Tapussa và Bhallika đến dâng Đức Phật bánh bột rang và mật ong (sattu và madhu). Thấy Đức Phật không có gì để thọ nhận. Tứ đại thiên vương tức khắc xuất hiện và dâng Ngài bốn chiếc bình bát bằng đá. Đức Phật thọ nhận, dùng thần thông nhập bốn bát thành một, rồi thọ nhận bánh cúng dường của hai thương buôn. Họ là hai cư sĩ đầu tiên quy y Nhị Bảo, và nhận 8 sợi tóc của Đức Phật, sau này còn thờ tại Đại Bảo tháp Shwedagoon, ở Rangoon, Myanmar.

          Trong 49 ngày, sau khi thành đạo, Đức Phật chỉ thiền định không ăn uống. Ngài vừa thọ hưởng hạnh phúc siêu thế vừa quán chiếu lại pháp đã chứng ngộ. Ngài nhận thấy kinh nghiệm giác ngộ của Ngài là chỗ tĩnh lặng ngoài lời (atakkàvacara), nó rỗng rang mà sâu sắc, nên không thể dùng ngôn từ để truyền đạt. Ngài cũng nhận thấy con người thế gian nhiều tham dục, khát ái, sân si, nên họ khó chấp nhận con đường trầm mặc ngược chiều, để sớm thoát khỏi vòng kềm toả của vô minh, nên Ngài tiếp tục yên lặng toạ thiền, quán chiếu tâm chúng sinh dưới gốc cây Bồ-đề.

          Cuối cùng, được sự thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati, với lòng thương yêu chúng sinh, Ngài chấm dứt sự yên lặng và quyết định chuyển Pháp luân, dựa vào căn cơ của chúng sinh thuyết pháp cứu độ. Từ đó Ngài có danh hiệu Thích Ca Mâu Ni, với thập hiệu:

          1) Như Lai / Tathàgata (Skt): Là bậc nương vào Chân Như (Như vậy) mà đến (Lai). "Người đến từ chỗ Như vậy". Khi nói về mình, Phật Thích Ca xưng là Như Lai.

          2) Ứng Cúng / Arahant (Skt): Bậc xứng đáng thọ nhận sự cúng dường. Ứng cúng còn là một đức hiệu của bậc thánh A-La-Hán.

          3) Chính Biến Tri: Bậc có khả năng hiểu biết (Tri) đúng đắn (Chánh) và cùng khắp (Biến) tất cả các Pháp.    

          4) Minh Hạnh Túc: Bậc trí tuệ và phước đức vẹn toàn. Minh là trí tuệ (Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh). Hạnh là phước đức, tức các hạnh nghiệp đều toàn thiện, viên mãn. Túc nghĩa là đầy đủ vẹn toàn.

          5) Thiện Thệ : Bậc "khéo léo vượt qua mọi chướng ngại và đi (hoằng pháp) một cách tốt đẹp", nghĩa là sau khi chứng đạo dùng Nhất thiết trí hoá độ chúng sanh, thực hành Bát chánh đạo, rồi an trú Niết Bàn.

          6) Thế Gian Giải: Là bậc thấu hiểu và rõ biết (Giải) tất cả từ quá khứ, hiện tại đến vị lai (Thế) ở trong mười phương thế giới (Gian).

          7) Vô Thượng Sĩ: Là bậc tối tôn tối thượng, không ai có thể hơn được.

          8) Điều Ngự Trượng Phu: Là bậc có khả năng dùng các phương tiện thiện xảo để điều phục nhiếp hoá, dẫn đắt (Điều Ngự) người tu hành (Trượng Phu) khiến họ thành tựu giải thoát, chứng đắc Niết Bàn.

          9) Thiên Nhân Sư:"bậc thầy của cõi người và cõi trời"

          10) Phật Thế Tôn: Bậc giác ngộ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, thế gian tôn kính.

          Từ thời điểm đó, Bồ-tát Cồ Đàm biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh một lần nào nữa.

 

HOẰNG  PHÁP

          Khi quyết định Chuyển Pháp Luân, hai người đầu tiên Đức Phật muốn độ là hai vị đạo sĩ Àlàra Kàlama và Uddaka Ràmaputta. Nhưng rất tiếc hai vị này đã qua đời. Những người kết tiếp Đức Phật muốn độ là năm anh em Kiều Trần Như, họ là những người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia. Bài kinh đầu tiên Ngài giảng là bài kinh Tứ Diệu Đế, sau đó là kinh Vô Ngã Tướng. Cả năm vị đều đắc quả A-La-Hán sau hai tuần lễ nghe Pháp.

          Về mặt lý thuyết, ngoài Giáo lý Tứ Diệu Đế, Vô Ngã Tướng, nhận ra Tam Pháp Ấn của hiện tượng thế gian là Vô thường, Khổ (Xung đột), Vô ngã (không thực chất tánh). Đức Phật còn giảng dạy giáo lý Duyên Khởi Pháp Duyên Sinh, quy luật Nhân Quả. Tuỳ theo căn cơ của chúng sanh mà Ngài giảng những bài Pháp thuộc Tục đế Bát Nhã hay trừu tượng siêu vượt thuộc Chân đế Bát Nhã như Ba cửa giải thoát là Không môn, Vô nguyện môn, Vô tác môn hay Chân như, Huyễn v.v...

          Những pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng đệ tử thực hành gọi chung là Đạo đế. Đạo đế gồm có 37 phẩm, trong kinh gọi là 37 phẩm trợ đạo gồm:

          - Tứ niệm xứ: 1) Thân niệm trụ. 2) Thọ niệm trụ. 3) Tâm niệm trụ. 4) Pháp niệm trụ.

          - Tứ chánh cần: 1) Việc ác đã làm, phải chấm dứt ngay. 2) Việc ác chưa làm, nhất định không làm. 3) Điều thiện chưa làm hãy nên làm. 4) Đã làm việc thiện, tiếp tục tăng trưởng.

          - Tứ thần túc hay Tứ Như Ý túc:

          1) Dục thần túc: Dục ở đây có nghĩa là mong muốn hướng thượng. Thiền định phát khởi là nhờ vào sức mạnh của ý muốn mà đạt được thần thông. Muốn thành tựu pháp thiền định đang tu, trước hết phải thiết lập dục nguyện và nỗ lực thực hành mong đạt đến cứu cánh mà mình chọn như đạt các Thánh quả.

          2) Tinh tấn thần túc: Thiền định phát khởi là nhờ vào sức tinh tấn nỗ lực tu tập. Nếu đã mong cầu ước muốn rồi, mà không có sự tinh tấn nỗ lực để hành trì tu tập thì ước muốn đó trở thành vô dụng, chỉ có trên lý thuyết. Tinh tấn ở đây không phải là sự hăng hái bồng bột nhất thời như ngọn lửa rơm bùng cháy rồi tắt, mà sự tinh tấn phải miên mật, lúc nào cũng thực tập không gián đoạn.

          3) Tâm thần túc:  Thiền định phát sinh nhờ sức mạnh của tâm. Tâm định tĩnh thì vọng tâm không khởi lên.

          4) Quán thần túc:  Nhờ nương vào sức mạnh của quán giúp định phát khởi.

          - Ngũ Căn: Là nền tảng căn bản để phát sanh ra tất cả thiện pháp nên gọi là Ngũ Căn. Ngũ Căn gồm:

          1) Tín Căn: Lòng tin tưởng thật vững chắc nhưng không mù quáng.

          2) Tấn Căn: Một khi đã thực sự tin tưởng vào Pháp Phật thì dũng mãnh tinh tấn trên con đường tu tập bằng không sẽ chẳng đạt được gì, chỉ phí thời giờ mà thôi.

          3) Niệm Căn: Niệm là ghi nhớ. Ghi nhớ điều gì? Đó là trì giới. Trì giới là một điều tối quan trọng cho việc thành công hay thất bại trên con đường tu đạo.

          4) Định Căn: Tâm yên lặng vững chắc để chuyên chú vào chánh pháp mà dụng tâm tu tập.

          5) Huệ Căn: Trí tuệ sáng suốt hiểu biết sự vật như thật.

          - Ngũ Lực: Chính là năm thần lực của Ngũ Căn. Ngũ Căn ví như là năm ngón tay, còn Ngũ Lực là sức mạnh của năm ngón tay đó. Nếu không có sức mạnh thì năm ngón tay không thể làm được gì. Tóm lại, nhờ năm căn mà có năm sức mạnh duy trì sự liên tục đưa đến giải thoát. Ngũ lực gồm:

          1) Tín Lực: Thần lực của đức tin hay là sức mạnh do lòng tin tưởng phát sinh.     

          2) Tấn Lực: Sức mạnh kiên cố để có thể san bằng mọi trở ngại. Sức mạnh này do Tấn Căn phát sinh.

           3) Niệm Lực: Là thần lực của ghi nhớ, là sức mạnh bền vững của Niệm Căn.

          4) Định Lực: Thần lực của sự tập trung tư tưởng, là sức mạnh vô song của Định Căn.

           5) Huệ Lực: Thần lực của trí tuệ, là sức mạnh vô biên của Huệ Căn.

          - Thất giác chi còn gọi là Thất Bồ Đề Phần:

          1) Niệm giác chi: Nghĩa là niệm giải thoát còn gọi là niệm Bồ-đề. Niệm giải thoát có nghĩa là Chánh niệm trong Bát chánh đạo.

          2) Trạch pháp giác chi: Chọn lựa pháp giải thoát.

          3) Tinh tấn giác chi: Siêng năng tu tập Niệm Giác Chi và Trạch Pháp Giác Chi. Người siêng năng tu tập Tinh Tấn Giác Chi là người sống trong thiện pháp, ly dục ly ác pháp.

          4) Hỷ giác chi: Nghĩa là sự vui trong giải thoát. Hỷ Giác Chi thuộc về tâm. Muốn tu tập Hỷ Giác Chi hành giả nhập vào Định Bất động.

          5) Khinh an giác chi: Thuộc về thân, là trạng thái an lạc giải thoát của thân. Khi thể nhập Tâm Bất Động sanh ra Hỷ giác chi và Khinh An giác chi. Vậy Hỷ giác chi và Khinh An giác chi là kết quả của Định Bất động.

          6) Định giác chi: Gồm bốn thánh định là: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Khi tâm nhập vào bốn loại thiền định này là nhờ pháp hướng tâm có hiệu quả tịnh chỉ các hành trong tâm (ngôn hành, ý hành và thân hành). Lúc bấy giờ thân tâm thể nhập thành một (nhất như) có nghĩa là tâm định trên thân, thân định trên tâm tạo thành một định lực vững mạnh khiến cho tâm nhu nhuyến, thuần tịnh, định tỉnh, không cấu nhiễm, dễ sai khiến. Trong kinh gọi đó là trạng thái Tâm Tathà hay Tâm Như.

          7) Xả giác chi: Tâm thanh thản không dính mắc, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, nghĩa là tịnh chỉ hơi thở hoàn toàn. Khi Xả giác chi được sung mãn thì tâm hành giả biết mình đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử một cách rõ ràng.

          - Bát chánh đạo: 1) Chánh kiến. 2) Chánh tư duy. 3) Chánh ngữ. 4) Chánh nghiệp. 5) Chánh mạng. 6) Chánh tinh tấn. 7) Chánh niệm. 8) Chánh định. Tất cả 8 nhánh phát triển cùng lúc với nhau.

          Tất cả các Pháp thực hành để đi tới thoát khổ giác ngộ giải thoát đều phải theo đúng con đường Phật dạy là: Giới-Định-Huệ. Trong Giới-Định-Huệ thì Giới là phần căn bản quan trọng. Nhờ Giới, tâm mới định. Tâm có định, huệ mới phát sanh. Huệ có phát sanh, thì mới trừ được vô minh phiền não. Vô minh phiền não có dứt, thì mới "minh tâm kiến tánh" và thành Phật. Giới có nhiều thứ: Có thứ cao, thứ thấp, có giới áp dụng cho hàng xuất gia, có giới áp dụng cho hàng tại gia.

          Trong suốt thời gian 45 năm hoằng pháp. Có sách ghi là 49 năm. Đức Thế Tôn đã giảng dạy và độ rất nhiều đệ tử chứng quả A-La-Hán, nhưng sau cùng Ngài lại tuyên bố "Như Lai chưa từng nói lời nào". Ý nghĩa câu này có thể hiểu là: "Những gì Đức Phật giác ngộ vốn đã là Chân lý muôn thuở, tồn tại vĩnh cửu, không thể dùng lời nói để diễn tả mà phải tự mình tu tập hành trì và chứng đắc. Những lời dạy của Như Lai chỉ là phương tiện để giúp người tu hành đạt tới Chân lý đó mà thôi, cho nên đừng chấp lời nói của Như Lai là Chân lý. Khi đạt được Chân lý rồi phải buông bỏ phương tiện". Đã buông bỏ phương tiện (lời giảng) thì xem như Đức Phật chưa nói lời nào vậy!

         

NHẬP "NIẾT-BÀN"

          Sống đến năm 80 tuổi, Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn. Lời dạy cuối cùng của Đức Phật là: "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, biến hoại, hãy tinh tấn tu học (để giải thoát)."

          Theo kinh Đại Bát-Niết Bàn thì Đức Phật nhập diệt tại thành phố Câu-Thi-Na (Kusinagara, Ấn Độ) thuộc bộ tộc Malla vào năm 544 trước Công nguyên. Trước đó sức khoẻ của Ngài đã trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà thí chủ Thuần-Đà (Cunda). Trong kinh kể lại rằng trong bữa ăn đó, thí chủ Thuần-Đà cúng dường lên Ngài một bát cháo nấm Chiên-đàn, thường gọi là nấm heo rừng, vì loại nấm này rất được giống heo rừng ưa thích. Đây là loại nấm độc mà chính thí chủ Thuần-Đà không biết. Riêng Đức Phật biết nhưng Ngài vẫn thọ dụng và ngăn cản không cho người khác dùng mà bảo hãy đem chôn nó đi. Tuy nhiên, không muốn về sau Tăng đoàn đổ lỗi và khiển trách Thuần-Đà cho nên Ngài đã nói với tôn giả Ananda rằng người thợ rèn này có tâm ý tối thượng, có phước báu rất lớn vì đã cúng dường bữa ăn cuối cùng cho Như Lai.

          Trong thời gian trước khi nhập diệt, Đức Phật ân cần hỏi các Tỳ kheo có ai còn những điểm nào chưa sáng tỏ về giáo pháp của Ngài, nhất là những thắc mắc có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau thì nên hỏi, Ngài sẽ giải đáp. Mọi người đều lặng thinh, không có những câu hỏi hay thắc mắc nào nêu lên lúc đó.

          Bấy giờ nơi khu rừng Sãla cạnh phía Nam thành phố Câu-thi-na, nước Malla, màn đêm từ từ buông xuống, khung cảnh tĩnh mịch vây quanh. Ánh sáng từ vầng trăng mát lạnh soi rõ hình dáng Đức Thế Tôn nằm nghiêng phía bên phải, đầu hướng về phía Bắc, mặt hướng về phía Tây và từ từ nhập Niết Bàn, thông qua các mức thiền định. Các vị Tỳ Kheo trưởng lão cùng toạ thiền nhập định theo dõi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn. Những vị chưa làm chủ được tâm xúc cảm trong đó có Ngài Anan, nghẹn ngào khóc thương đấng Từ Phụ trong giây phút tử biệt sinh ly.

          Theo truyền thuyết Pàli, Đức Phật diệt độ vào ngày Rằm tháng Tư, còn văn bản Phạn ngữ cho rằng ngày Rằm tháng Mười Một.

          Đức Phật nhập Niết Bàn vào năm 544 trước Tây Lịch. Năm này được lấy làm lịch Phật Giáo (tức ngày giỗ của Đức Thế Tôn). Thí dụ như Tây lịch năm nay là 2018 thì Phật lịch là 2562 (544+2018=2562)

          Tương truyền rằng trong buổi lễ trà tỳ kim thân Đức Phật có nhiều hiện tượng lạ xảy ra như: Hoa Mạn-Đà-La bay đầy trời do các chư thiên cúng dường, và người ta không thể thắp ngọn lửa thiêu kim thân Đức Phật, cho tới khi Ngài Ma-ha-Ca-Diếp là một trong mười vị đại đệ tử của Phật từ phương xa về kịp đãnh lễ Ngài lần cuối.

 

"XÁ-LỢI" PHẬT

          Sau khi viên tịch, xá-lợi của Đức Phật được chia thành 8 phần cho đại diện các xứ sau đây:

          - Xứ Magadha xây tháp thờ xá lợi Phật ở Rajagriha. - Xứ Vajji xây tháp thờ ở Vasali. - Xứ Sakya xây tháp thờ ở Vethadipa. - Xứ Malla nhận 2 phần xá-lợi, xây một tháp thờ ở thủ đô Pava và một tháp khác thờ ở Kusinaga. - Riêng vị Bà-la-môn Dona xin thỉnh cái chậu vàng dùng để chia xá-lợi, đem về khu vườn nhà mình xây tháp thờ. - Sứ giả xứ Moriya đến trễ, xin thỉnh phần tro còn lại về xây tháp thờ tại thủ đô Pipphalivana. Nhiều thế kỷ sau đó, vua Asoka đã tập hợp các xá-lợi, cho xây cất và tôn thờ trong 84,000 tháp.

          Trước đây nhiều người không phải tín đồ Phật giáo đã không tin là có xá-lợi Phật, họ cho đó chỉ là huyền thoại. Mãi đến năm 1898, ông W.C. Peppé, người Pháp, tiến hành khảo cổ tại vùng Pĩprãvã, phía Nam nước Nepal, đã tìm thấy một cái hộp bằng đá, trong đó có chứa hai chiếc bình một lớn, một nhỏ có chứa những viên xá-lợi. Bình đá nhỏ dạng hình cầu, chia thành hai phần thượng và hạ. Nửa phần trên có hình tay cầm, khắc niên đại của vua Asoka và nội dung của nó như sau: "Đây là xá-lợi của Đức Phật. Phần xá-lợi này do bộ tộc Sãkya, nước Srãvastĩ phụng thờ". Chiếc bình đã chứng minh nội dung trong kinh Trường A-Hàm và rải rác ở những kinh khác về việc phân chia xá-lợi của Đức Phật thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ tại Ấn Độ sau khi Ngài  nhập Niết Bàn hoàn toàn là sự thật.

         

           CÁC THÁNH TÍCH LIÊN HỆ ĐẾN CUỘC ĐỜI CỦA ĐỨC PHẬT

          Có 4 thánh tích liên quan đến cuộc đời của Đức Phật Thích Ca.  

          1) Bodh Gaya tiếng Việt là Bồ-Đề Đạo Tràng: Nơi Đức Phật thành đạo. Tại Bodh Gaya hiện nay vẫn còn cội Bồ-đề. Cội Bồ-đề đã là bóng mát che cho Đức Phật khi Ngài ngồi thiền cho tới khi thành đạo.

          Một cành chiết từ cây Bồ-đề nguyên thuỷ, đã được vua Asoka gởi tặng cho vua Devanampiya Tissa (Thiên-Ái-Đế-Tu) tại Sri Lanka vào năm 247 trước Công nguyên. Công chúa con vua Asoka là Tỳ-kheo-ni Sanghamitta đã phụng mệnh Phụ Hoàng mang nhánh Bồ-đề này sang Sri Lanka, trồng ở Anuradhapura. Tại đây nó lớn mạnh thành một cây to. Sau này người Sri Lanka đã gọi cây Bồ đề này là "Sri-Maha Bohdi" nghĩa là "Cây Bồ-đề cát tường vĩ đại". Cho tới nay trải qua gần 2,300 năm, cây Bồ-đề vĩ đại này vẫn sống tươi tốt và được người Sri Lanka xem như Quốc bảo. Rất nhiều nhánh từ cây này được chiết và gởi trồng ở chùa chiền khắp nơi trên thế giới.

          Riêng cây Bồ-đề nguyên thuỷ ở Bodh Gaya đã cùng chịu chung với số phận thăng trầm của lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ. Nhiều lần nó bị chặt đốt, thiêu huỷ, một phần do thiên tai vô thường tác động và phần khác do những người thù ghét đạo Phật muốn xoá tan sự hiện hữu của nó. Thế nhưng trải qua bao nguy khốn, dòng dõi hậu duệ của cây Bồ-đề vẫn không bị diệt mầm sống, nó vẫn tiếp tục bám trụ và đâm chồi nẩy lộc, đời sau nối tiếp đời trước gợi nhớ hình bóng Đức Thế Tôn đã từng ngồi dưới gốc cây toạ thiền cho đến khi thành đạo.

          Cây Bồ-đề hiện nay ít nhất đã là đời thứ sáu của cây Bồ-đề nguyên thuỷ che mát cho Đức Phật. Mặc dù trải qua nhiều lần sinh diệt, nhưng vị trí cây Bồ-đề ngày nay so với gốc cây ban đầu vẫn không có sự thay đổi chuyển dịch, vẫn định vị như gốc cây Bồ-đề nguyên thuỷ.

          Với lịch sử hiển hách này, có thể nói cây Bồ-đề như một biểu tượng cao cả cho những tín đồ Phật giáo đã truyền đời nhau suốt 2,600 năm bảo tồn Chánh pháp mà Phật Thích Ca đã để lại cho thế gian.

          2) Kushinaga: Nơi Đức Phật nhập Niết Bàn. Qua các khai quật, người ta đã tìm thấy được nhiều mảnh vỡ của các tượng Phật và các cột trụ mà vua Asoka đã xây dựng. Nơi này ngày nay là Kasia, thuộc về Deoria của bang Utta Pradesh.

          3) Lumbini (Lâm-Tỳ-Ni): Nơi Phật đản sanh. Trước đây người ta không xác định được địa danh này, nhiều người cho đây chỉ là huyền thoại. Mãi đến ngày 01-12-1886, nhà khảo cổ người Đức là ông Alois A. Fuhrer mới tìm thấy cột tháp của vua Asoka xác nhận đây là nơi ra đời của Phật Thích Ca Mâu Ni.

          4) Sarnath (Lộc Uyển): Gần Ba-la-nại, nơi Đức Phật giảng bài kinh đầu tiên là "Tứ Thánh Đế" và "Vô Ngã Tướng" để độ cho 5 anh em nhóm Kiều Trần Như, là bạn đồng tu khổ hạnh lúc trước với Ngài. Năm vị này đắc được quả A-la-hán sau hai tuần lễ nghe pháp. Giáo hội đã được thành lập với 5 vị Tỳ Kheo đầu tiên này. Kế đó Đức Phật thuyết giảng liên tục ba tháng cho 55 người Bà-La-Môn khác. Người đứng đầu là Da-Xá. 55 người này xin quy y theo Phật. Lúc bấy giờ Đức Phật có 60 đệ tử. 60 vị này đều đạt quả Thánh, được Đức Phật thọ ký cho đi truyền đạo khắp nơi. Hiện nay, di tích còn sót lại ở Vườn Lộc Uyển là tháp Dhamekh (nghĩa là chánh pháp) được xây vào triều đại Gupta thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên.

          Chia tay với các đệ tử, Đức Phật rời vườn Lộc Uyển đi về phía Nam, đến xứ Ưu-lầu-tần-loa và hàng phục một vị tổ sư rất có uy tín của đạo Thờ Lửa là Ngài Ma-Ha-Ca-Diếp cùng hai người em của ông. Ngài Ca-Diếp mang tất cả đồ đệ của mình là 1,250 vị xin quy y theo Phật.

KẾT TẬP KINH ĐIỂN

          Những bài thuyết pháp của Đức Phật giảng dạy trong suốt 45 năm hoằng hoá đã không ghi lại bằng văn tự từ lúc Đức Phật đương thời cho đến mấy trăm năm sau khi Ngài nhập diệt. Không phải lúc đó Ấn Độ không có chữ viết, thật ra kinh Vệ Đà của Bà-La-Môn đã được ghi chép bằng Phạn ngữ từ trước thời Đức Phật.

          Các đại đệ tử của Đức Phật như Ngài Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, Đại-Ca -Diếp vốn thuộc dòng dõi Bà-La-Môn, người nào cũng văn hay chữ tốt. Còn những vương tử khác thuộc dòng dõi Sát-Đế-Lợi như Anada, A-Na-Luật, Nan-Đà, Ma-Ha-Nam v.v... đương nhiên những vị này làu thông chữ nghĩa Sanskrist, nhưng kinh điển đạo Phật chỉ truyền miệng chứ không ghi chép thành văn, đó là do ý của Đức Thế Tôn. Có một sự kiện trong Tạng Luật của nhiều bộ phái ghi lại như sau: "Bấy giờ có hai anh em Bà-La-Môn xin xuất gia theo Phật. Họ yêu cầu Ngài cho phép họ tụng, đọc những lời Ngài dạy theo kiểu tụng đọc kinh điển Vệ Đà mà họ đã quen đọc, họ cũng yêu cầu sử dụng tiếng Sanskrist và sắp xếp câu văn thế nào cho hoa mỹ như cách hành văn của Sankrist trong kinh điển ấy". Về lời yêu cầu này Đức Phật dạy rằng trong đạo, Ngài không cần văn chương hoa mỹ, chỉ cần nghĩa lý rõ ràng, lập luận chặt chẻ, lời văn giọng nói cần phải đơn giản thế nào cho người nghe hiểu được mình muốn nói gì. Nghĩa là Đức Phật không chấp thuận lời yêu cầu này. Có thể sự kiện trên đây là câu giải đáp vì sao kinh điển không được ghi chép trong thời gian Đức Phật còn hiện tiền.

          - Kết tập kinh điển lần thứ nhất: Sau khi Đức Phật nhập diệt 3 tháng, Ngài Đại-Ca-Diếp triệu tập 500 vị A-La-Hán kết tập những lời Đức Phật dạy. Mục đích củng cố lại Kinh Tạng và Luật Tạng thành hệ thống dựa trên Phật ngôn, bảo tồn sự trong sạch Chánh pháp. Phần lớn do ngài Ca-Diếp nêu lên câu hỏi. Ngài Ananda trả lời những câu hỏi về Kinh, ngài Upãli trả lời những câu hỏi về Luật. Tất cả đều dùng tiếng Pãli, là ngôn ngữ phổ thông được xử dụng tại miền Tây Bắc Ấn trong giới cầm quyền, giới trí thức và giới bình dân thời bấy giờ. Kỳ kết tập lần thứ nhất chỉ họp tụng Luật tạng và Kinh tạng dưới hình thức vấn đáp hoặc thuật lại các nơi Đức Phật giảng Pháp chứ chưa ghi lại thành sách.

          - Kết tập kinh điển lần thứ hai: Sau khi Đức Phật nhập diệt 100 năm, vào năm 383 (hoặc 382) trước Công nguyên, Trưởng lão Da-Xá (Yasas) triệu tập kết tập kinh điển lần thứ hai. Có 700 vị Trưởng lão thông suốt Kinh tạng và Luật tạng tham dự. Tưởng cũng xin nhắc lại, suốt thời gian 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, các đại đệ tử của Đức Phật hầu hết đều lần lượt qua đời, duy chỉ còn ngài Da Xá lúc bấy giờ đã được 165 tuổi.

          Lý do đại hội là vì Ngài Da-Xá không chấp nhận chư tăng gốc dân Bạt-Kỳ (Vajji) thu nhận vàng bạc cúng dường của tín thí và cho rằng việc này là phạm tội, không thi hành đúng theo luật nghi do Phật thiết lập. Tỳ kheo gốc dân Bạt-Kỳ không chấp nhận sự buộc tội này, ngược lại kết tội Trưởng lão Da-Xá là phạm tội vu khống Tỳ kheo trước tín thí và trục xuất Trưởng lão Da-Xá ra khỏi Giáo Hội. Để cứu vãn tình hình Giới Luật bị vi phạm nghiêm trọng, Ngài Da-Xá đi khắp nơi vận động triệu tập đại hội Kết tập kỳ hai để chỉnh đốn Giới Luật. Kết quả Giới luật được củng cố trong nhóm Trưởng lão, nhưng lại đưa đến việc Giáo đoàn bị chia thành 2 bộ phái: Trưởng Lão Bộ quyết tâm bảo vệ truyền thống, đưa đến tinh thần bảo thủ và cổ hũ. Còn Đại Chúng Bộ quyết tâm canh tân, đưa đến tinh thần phóng khoáng và cấp tiến.

          Hình thức đại hội là hỏi đáp về 10 điều phi pháp của nhóm Tăng Bạt-Kỳ vi phạm và họp tụng lại Kinh, Luật bằng tiếng Pãli, không có ghi lại thành văn.

          - Kết tập lần thứ ba:  236 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, vào năm 250 trước Công nguyên, đại hội kéo dài 9 tháng dưới sự bảo trợ của vua A-Dục (Asoka). Thành phần tham dự 1,000 vị Trưởng lão thông suốt Tam Tạng. Chủ toạ theo Bắc Tông là Ngài U-Ba-Cúc-Đa (Upagipta), Chủ tọa theo Nam Tông là Ngài Mục Kiền Liên Đế Tu (Moggaliputta Tissa). Đại hội bầu Ngài Mục Kiền Liên Đế Tu làm Thượng thủ.

          Lý do họp đại hội là nhằm thanh lọc tăng giả (false monks) ra khỏi hàng ngũ Giáo Hội, dẹp tan tà giáo, xây dựng chánh tín và thống nhất Kinh, Luật, Luận. Ngôn ngữ xử dụng là tiếng Pãli. Hình thức tụng đọc Kinh, Luật, Luận và được ghi chép thành sách phổ biến khắp nơi trên toàn Ấn Độ và các nước ngoài Ấn Độ, đặc biệt là Tích Lan (Sri-Lanka).

          - Kết tập lần thứ tư:  Sau khi Phật nhập diệt 500 năm, khoảng giữa và cuối thế kỷ thứ nhất, vua Ca-Nị-Sắc (Kaniska) vị vua theo Nhất Thiết Hữu Bộ bảo trợ. Có 500 vị Thánh tăng tham dự, đại biểu cho 18 bộ phái. Ngài Thế Hữu (trùng tên với Ngài Thế Hữu tác giả "Dị Bộ Tôn Luân Luận") trong vai trò Thượng thủ, Ngài Mã Minh trong vai trò Phó Thượng thủ với nhiệm vụ nhuận sắc văn chương các bộ Sớ giải. Ngoài ra còn có các bậc cao tăng, thông hiểu Tam Tạng như: Hiếp Tôn Giả, Pháp Cứu, Giác Thiên, Diệu Âm.

          Nguyên do đại hội là để thống nhất giáo lý của Phật giáo. Nội dung ghi lại 100 ngàn câu kệ chú thích Kinh Tạng; 100 ngàn câu kệ giải thích Luật Tạng và 100 ngàn câu kệ giải thích Luận Tạng (A-Tỳ-Đạt-Ma/Abhidharma). Kết quả: Tam Tạng được ghi lại thành văn bằng tiếng Sanskrist. Trong kỳ kết tập này tất cả các Kinh, Luật, Luận đều được khắc vào bảng đồng, mất 12 năm mới hoàn thành.

          Phật giáo Tích Lan không thừa nhận kỳ Kết Tập lần thứ tư này, bởi lẽ Trưởng Lão Bộ Tích Lan cũng tổ chức Kết Tập lần thứ tư ở Tích Lan vào khoảng năm 83 trước Công nguyên. Cuộc kết tập ở đây có 500 vị Tỳ Kheo tham dự dưới sự bảo trợ của quan Đại thần thuộc triều vua Vatta Gamani Abhaya. Tam Tạng Pãli (Nam Phạn) được ghi chép trên lá buông.

          Khái quát về lịch sử truyền đạo của Đức Phật, chúng ta thấy rằng những bài pháp Đức Phật giảng dạy đã không được ghi chép lại trên văn bản mà chỉ truyền bằng miệng cho đến thời kỳ kết tập kinh điển lần thứ ba sau khi Đức Phật nhập diệt 236 năm và lần thứ tư sau khi Đức Phật nhập diệt 500 năm.

 

TAM TẠNG KINH ĐIỂN

          Gồm 3 tạng: Luật tạng, Kinh tạng và Luận tạng. Tạng có nghĩa là cái giỏ. Giỏ đựng Luật, giỏ đựng Kinh và giỏ đựng Luận.

          1) Tạng Luật (Vynaya Pitaka): Là những giới luật mà Đức Phật chế ra cho các đệ tử để giúp họ răn chừa làm những điều dữ, tu tập các hạnh lành, trau dồi thân tâm thanh tịnh. Luật được xem là cái neo vững chắc để bảo tồn con thuyền Giáo Hội trong những cơn phong ba bão táp của lịch sử.

          Phần lớn Tạng luật đề cập đến giới Luật và nghi lễ trong đời sống xuất gia của các vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Gần 20 năm sau khi thành đạo, Đức Phật không có ban hành giới luật nhất định nào để gọi là kiểm soát và ép buộc chư tăng ni khép mình vào kỹ cương. Về sau, mỗi khi có trường hợp lầm lỗi xảy ra trong Tăng chúng thì Ngài mới đặt ra những điều răn thích hợp. Tạng Luật gồm 5 quyển:

 

          1) Parajika Pali (Tội nặng)

          2) Pacittiya Pali (Tội nhẹ)

          3) Mahavagga Pali (Phần lớn)

          4) Cullavagga (Phần nhỏ)

          5) Parivara Pali (Giới toát yếu)

          2) Tạng kinh (Sutta Pitaka): Gồm những bài Pháp, những lời dạy của Đức Phật khi còn tại thế cho các bậc xuất gia và hàng cư sĩ, hướng dẫn họ cách hành trì  chấm dứt phiền não và đạt đến quả Niết Bàn. Tạng kinh ghi lại nhiều quy tắc để chúng đệ tử theo đó mà thực hành. Những bài Pháp này, Đức Phật thuyết giảng ở nhiều trường hợp khác nhau cho nhiều người, căn cơ, trình độ và hoàn cảnh khác nhau (đối cơ thuyết pháp). Ngoài ra có một vài bài giảng của các vị đại đệ tử xuất sắc của Đức Phật được Ngài chấp nhận, cũng được ghi vào Tạng kinh. Đó là bài giảng của Ngài Xá-Lợi-Phất (Sariputta), Mục-Kiền-Liên (Moggallana) và Anan (Ananda). Tạng Kinh gồm 5 bộ:

          1) Digha Nikaya, Trường A Hàm : Ghi lại những bài pháp dài.

          2) Majjhima Nikaya, Trung A Hàm: Những bài pháp dài bậc trung.

          3) Samyutta Nikaya: Những câu kinh tương tự nhau

          4) Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm: Những bài pháp sắp xếp theo con số.

          5) Khuddaka Nikaya, Tiểu A Hàm: Những câu kệ ngắn.

          Riêng bộ Tiểu A Hàm chia làm 15 tập: 1) Những bài ngắn. 2) Kinh Pháp Cú, Con Đường Chân Lý. 3) Khúc ca hoan hỷ. 4) Những bài kinh bắt đầu bằng cụm từ "Phật dạy như thế này". 5) Những bài kinh sưu tập. 6) Câu chuyện những cảnh trời. 7) Câu chuyện cảnh giới ngạ quỷ. 8) Trưởng Lão Tàng Kệ. 9) Trưởng Lão Ni kệ. 10) Những câu chuyện tái sinh của Bồ tát, Túc Sanh Truyện hay Kinh Bổn Sanh. 11) Những bài trần thuật, Nghĩa thích. 12) Quyển sách đề cập đến kiến thức, Phân giải. 13) Đời sống của chư vị A-La-Hán. 14) Tiểu sử của Đức Phật. 15) Những phẩm hạnh.

          3) Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka - Vi Diệu Pháp Tạng): Phần nhiều do các đệ tử Đức Phật làm ra để trình bày giảng giải rõ ràng nghĩa lý mầu nhiệm trong Kinh và Luật. Tạng luận hay Vi Diệu Pháp là tinh hoa của Phật Giáo, so với Tạng Kinh thì giản dị hơn. Tạng Luận gồm 7 bộ:

          1) Dhammasanghani, Pháp Tụ, phân loại các Pháp.

          2) Vibhanga, Phân Biệt,  những tiết mục

          3) Dhatukatha, Giới Thuyết, luận giải về các nguyên tố hay giới.

          4) Puggala Pannatti, Nhơn Thi Thuyết: chỉ danh những cá tính.

          5) Kathavathu, Thuyết Sự, những điểm tranh luận.

          6) Yamaka, Song Đối, quyển sách về những cặp đôi.

          7) Patthana, Phát Thú: quyển sách đề cập đến tương quan nhân quả.

 

TẠM KẾT

          Từ hơn 2,600 năm trước, tại nước Ca-Tỳ-La-Vệ cổ xưa Ấn Độ, có một vị Thái tử ra đời. Vị Thái tử thông minh tài giỏi đó đã sống và lớn lên trong cung điện hưởng một đời vinh hoa phú quý, nhưng sớm tỉnh ngộ, từ chối chiếc ngai vàng đang chờ đợi, hy sinh rời xa gia đình vợ đẹp con thơ, đi tìm chân lý giác ngộ để tự cứu bản thân mình và chúng sanh thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Bằng vào lòng từ bi, bằng vào ý chí, Ngài vượt qua mọi trở ngại, tu hành trở thành một bậc đại giác ngộ.

          Tính đến nay, Đức Phật đã nhập diệt 2,562 năm, nhưng Giáo Lý cao siêu mà Ngài đã dày công hoằng dương trong 45 năm dài vẫn còn lưu lại cho nhân thế. Ngài đã để lại cho thế gian một đại kho tàng văn hoá Phật giáo đồ sộ qua ba tạng: Kinh, Luật và Luận. Có thể nói đây là một kho tàng văn hoá vô giá, không phải nó chỉ có giá trị về mặt nội dung đa dạng, hấp dẫn với những hình ảnh được vẽ ra về Đức Phật và các môn đệ của Ngài qua năm tháng, mà nó còn mang tính nhân bản, triết học, đạo đức, chuyên môn, những sự kiện liên quan đến lịch sử, những lời giảng dạy hướng dẫn con người cách sống để thoát ra khỏi khổ đau, cách tu tập để trong sạch hoá thân tâm, nhằm đạt được sự giác ngộ giải thoát như Ngài.

          Khi đọc hay nghe giảng lại những lời dạy của Ngài hoặc những câu chuyện kể lại trong Kinh nhằm mục đích giáo hoá cảnh tỉnh, hầu hết mọi người đều vô cùng cảm kích và tri ân một đấng toàn giác đã mang ánh sáng giác ngộ soi đường dẫn lối giúp cho chúng sanh thấy biết đường đi để thoát ra khỏi vùng vô minh tăm tối.  

          Trước khi tạm ngưng bài biên khảo nơi đây. Chúng con kính quy ngưỡng Đức Thích Ca, một đại sư tâm linh từ bi và trí tuệ. Chúng con kính tri ân và nguyện học hỏi hành trì theo hạnh từ bi và trí tuệ nơi Ngài. Nguyện cho tất cả mọi người khi tưởng nhớ đến Ngài đều phát tâm Bồ-đề, giữ vững chí tu học đi trên con đường Ngài đã đi để sớm đạt được mục tiêu tối thượng./.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẦNG NHƯ

(September 26-2018)

 

Tài liệu:

- "Xin góp Ý Một số chi tiết về Đức Phật lịch sử nơi trang Wikipedia Tiếng Việt" của Hoà Thượng Viên Minh (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) đăng trên https://thuvienhoasen.org/images/file../si-dat-ta.pdf

- Dựa theo giáo trình của HT Thích Thông Triệt giảng dạy các lớp Bát Nhã và Tâm Lý Học Phật Giáo (Thiền Tánh Không).

- "Phật học Phổ Thông", Cố Hoà Thượng Thích Thiện Hoa.

-  Bản dịch Việt ngữ (1999): "Đức Phật và Phật Pháp", tác giả Phạm Kim Khánh.

 

 

 

13 Tháng Ba 20211:01 SA(Xem: 11604)
Xin bấm vào link tên bài hát bên dưới để xem youtube: MÙA THU VÀ CÔ GÁI MIỀN NAM - Thơ: Võ Đình Tuyết - Nhạc: Nguyễn Thiện Lý - Hòa âm: Quang Đạt - ca sỹ: Diệu Hiền
12 Tháng Ba 202110:21 CH(Xem: 7787)
Xin đừng "ngủ quên trên chiến thắng" của thuốc chủng ngừa. Vì trong đại dịch, ngoài vaccine, khẩu trang, và khoảng cách xã hội vẫn là đồng minh hữu hiệu nhất của mỗi người.
12 Tháng Ba 20213:43 CH(Xem: 12092)
Hãy nhìn đối phương suốt một quá trình chung sống để yêu thương và thông cảm. Bất cứ khi nào có thể, hãy nắm lấy bàn tay "Năm ngón em hết kiêu sa" mà chân thành tuyên bố: " Cám ơn em! bà xã của anh."
09 Tháng Ba 20219:27 CH(Xem: 9805)
Vinh Danh Phụ Nữ Việt Nam Cháu con Trưng Triệu sẵn sàng đứng lên Tam ty pháp, trống vang rền Khả Gia Liệt Phụ xứng tên Chợ Đồn
05 Tháng Ba 202110:49 CH(Xem: 11381)
Tinh thần chung của nền học vấn miền nam lúc bấy giờ là phải học lễ trước rồi mới học văn, tức coi việc rèn luyện đức – trí là quan trọng như nhau, nhưng đức phải ưu tiên đi trước một bước.
05 Tháng Ba 20215:24 CH(Xem: 14950)
Xuân qua én lượn qua mau Phương hồng hè đến nhuốm màu thời gian Thu sang rồi đến đông tàn Nhớ ngày xưa ấy mênh mang sợi buồn.
04 Tháng Ba 202111:56 CH(Xem: 7884)
Bất cứ lúc nào, hễ nghe ai nhắc Thái Thanh và Ngày Xưa Hoàng Thị thì trong tôi lại xốn xang những đoạn đời dấu yêu của “Ngày Xưa Nguyễn Thị… Tôi”,
03 Tháng Ba 202111:02 CH(Xem: 9185)
Dù đã được chích ngừa hay không, tất cả mọi người đều nên mang khẩu trang ở nơi công cộng. Đó là cách tự bảo vệ mình tốt nhất, và cũng là bổn phận với của mỗi cá nhân với xã hội.
03 Tháng Ba 202110:42 CH(Xem: 12523)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: CHỈ LÀ – Thơ: Hà Thu Thủy - Nhạc: Phạm Chinh Đông Hòa Âm: Tuấn Ngọc Ca sĩ: Hương Giang
02 Tháng Ba 20219:49 CH(Xem: 9646)
Những dòng cuối của bài này tôi xin gửi lời cám ơn đến tất cả bạn bè, thân hữu và người thân đã gọi điện thoại hoặc gửi email để thăm hỏi trong những ngày tuyết rơi và giá lạnh.
01 Tháng Ba 202110:20 CH(Xem: 13093)
Xuân chào đón Tết rực vườn hoa Cảnh sắc xinh tươi đẹp ngọc ngà Dâng ngập ý lời gieo vận đối Trải tuôn tình nghĩa kết thơ hoà
28 Tháng Hai 20214:21 CH(Xem: 10546)
Đây là cái Tết đầu tiên mà tôi đón nhận với tất cả niềm vui hạnh phúc và hy vọng. Đêm nay tôi sẽ ngủ thật ngon với nhiều mộng đẹp tương lai. Mùa Xuân nơi đây, trong căn cứ này sẽ là mùa Xuân thần thoại của riêng tôi.
28 Tháng Hai 20214:15 CH(Xem: 14753)
Mỗi tháng ngày rằm chị ăn chay Trăng treo đỉnh núi bài thơ này Xa quá chị không đọc lại được Chắp vá từng câu phận rủi may.
23 Tháng Hai 202111:00 CH(Xem: 12611)
Thiên tai là chuyện của đất trời Con người - hạt cát giữa trùng khơi Rủi may, may rủi nào ai biết Sống để làm sao đẹp với đời...
23 Tháng Hai 202110:36 CH(Xem: 5974)
chương trình được phát sóng 2 tháng một lần và tham khảo những thông tin về sức khoẻ, làm cách nào để phòng chống ung thư, có một cuộc sống khoẻ mạnh.
23 Tháng Hai 20219:53 CH(Xem: 9275)
Ôi, những chiếc áo mùa xuân ngày nọ tôi lục lọi đem phơi vì mỗi năm tôi mặc chỉ có một lần, tôi giũ lòng ra phơi áo lên để đón xuân về, để thấy mình vẫn còn loanh quanh đâu đó một nơi rất gần
23 Tháng Hai 20219:00 CH(Xem: 12104)
Đón hương xuân giao thoa trời đất Mùi nhang trầm quyên khắp từ đường Cha mặc áo dài kính vái tứ phương Mẹ lạy Phật mõ chuông đón Tết.
23 Tháng Hai 20214:38 CH(Xem: 9529)
. Nếu dịch cúm qua đi, sinh hoạt đời sống sẽ hồi sinh. Rồi đây chị sẽ được đi thăm con, thăm cháu. Mong rằng kinh tế sẽ được phục hồi để mọi người có việc làm và nước Mỹ sẽ trở lại như xưa. CHÚC MỪNG NĂM MỚI .
21 Tháng Hai 202111:34 CH(Xem: 9107)
Tôi dỗi hờn Texas những khi nắng nóng muốn chảy mỡ, những lúc bão lụt tan nhà nát cửa hay bão tuyết gây nhiều thiệt hại như năm nay nhưng tôi vẫn yêu Texas và chẳng bao giờ muốn rời xa.
21 Tháng Hai 202111:11 CH(Xem: 8155)
Đúng là xứ Mỹ và người Mỹ! Chỉ có ba ngày không điện-sưởi-nước, lạnh thì lạnh thật, nhưng cũng có đủ quần áo ấm để bao bọc giữ ấm, những người homeless cũng đã được chính phủ đưa vào nhà tạm trú từ hôm trước bão tuyết
18 Tháng Hai 202110:19 CH(Xem: 11876)
Nghe trong tiếng cười trong bão loạn Ai oán ngàn năm cả kiếp người Hận đời kiêu bạc người kiêu bạc Ngạo với nhân gian một tiếng cười
18 Tháng Hai 202110:10 CH(Xem: 8514)
Xin mời thưởng lãm tác phẩm mùa Xuân mới nhất của Duyên
18 Tháng Hai 202112:35 SA(Xem: 11233)
Cùng nhau, nhân loại sẽ lần lượt ra khỏi đường hầm tối đen thăm thẳm. Nhưng khi ra khỏi đường hầm, người ta sẽ có một "bình thường mới" (a new normalcy), không giống cái bình thường đã có trước đại dịch.
18 Tháng Hai 202112:31 SA(Xem: 11234)
Mùng năm nhớ Tết Quang Trung Anh minh hoàng đế lẩy lừng chiến công Máu thù nhuộm đỏ sông Hồng Đánh tan lũ giặc cuồng ngông bạo tàn.
13 Tháng Hai 202111:33 CH(Xem: 9463)
Truyện “Lục Súc Tranh Công” nói về sáu con vật nuôi trong nhà tranh nhau để giành công trạng về mình. Đó là những con Trâu (Ngưu), Chó (Khuyển), Ngựa (Mã), Dê (Dương), Gà (Kê), Lợn (Thỉ). Mỗi con vật đều cho mình là có công trạng nhất trong nhà.
13 Tháng Hai 20217:31 CH(Xem: 10598)
Nguyện thế giới Hòa bình, chúng sinh An lạc. Kính chúc mọi người, mọi nhà một năm Tân Sửu Bình an Hạnh phúc.
13 Tháng Hai 202111:33 SA(Xem: 12985)
Xá chi thế sự vơi đầy, Lợi danh, khanh tướng... bèo mây một đời. Tửu phùng tri kỷ thiên bôi...(1) Lương bằng mỹ tửu... đời vui ngập tràn. Phúc hồng, lộc biếc, tâm an...
13 Tháng Hai 202111:21 SA(Xem: 12495)
Ngũ quả mâm đầy...khơi ý đẹp Đôi bình rượu cạn...xóa tình cay Xuân về...xin chúc mừng thi hữu Bĩ cực qua rồi đón thái lai!
12 Tháng Hai 202111:58 CH(Xem: 5631)
Chủ đích của bài là ghi lại một số ca dao, tục ngữ Việt, Anh, Pháp ít nhiều liên hệ đến con trâu trong văn hóa “dĩ nông vi bản” mà Việt Nam là một trong những nước một thời được gọi là vựa lúa ở Đông Nam Á
12 Tháng Hai 202111:57 CH(Xem: 10147)
Xin cám ơn quý Thầy Cô cùng chị em đã nhín thì giờ quý báu đọc các bài Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật mà Kim Phú đủ duyên may cẩn họa cùng quý thi sĩ và các bậc tiền bối.
12 Tháng Hai 20218:23 SA(Xem: 7513)
Thôi thì đừng hỏi lòng mình thêm nửa, ngoài kia Xuân vẫn đang về, vẫn dịu dàng thay mới đất trời, và tôi vẫn vậy, vẫn quẩn quanh chăm chút cho riêng mình một khoảng trời riêng.
11 Tháng Hai 202112:13 SA(Xem: 8888)
Thế giới sẽ đẹp hơn rất nhiều nếu ta biết cảm ơn và trân trọng những thành quả mà người khác đã làm cho ta. Chính lời cảm ơn giúp chúng ta sống hạnh phúc, nắm bắt được giá trị cuộc sống là gì
11 Tháng Hai 202112:10 SA(Xem: 8953)
Tuy đã chuẩn bị đầy đủ nhưng chuyến đi nầy phải nói là thất bại, nhưng thôi tạm xem như “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” vậy.
10 Tháng Hai 202111:59 CH(Xem: 10756)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: XUÂN MỘNG - Nhạc Lam Phương - Thái Thanh trình bày Kiều Oanh thực hiện youtube
04 Tháng Hai 202111:53 SA(Xem: 14070)
Muôn tâu Thượng Đế Vợ chồng Táo Thần Ở dưới dương trần Qua Zoom trình tấu. Dạ dạ Chuyện của thế gian Quả thật gian nan Hai không hai chục. Một năm lục đục Tang tóc thê lương. Thiên hạ nhiễu nhương Chết thôi như rạ
03 Tháng Hai 202110:57 CH(Xem: 11063)
Nó đã nghĩ ra một điều khá lý thú. Hãy sống bình dị như con trâu, con vật biểu tượng cho năm Tân Sửu. Làm hết sức mình, kiểm điểm lại những gì mình đã hành động để sửa sai. Như con trâu lặng lẻ nằm nhai lại cỏ.
03 Tháng Hai 20218:39 CH(Xem: 11131)
Sự kiện thể thao này cũng là một thử nghiệm để đời sống từng bước trở về với một bình thường mới (new normalcy). Mong vô cùng, thử nghiệm này thành công
03 Tháng Hai 20218:32 CH(Xem: 10002)
.Hai ba tháng chạp tới rồi Táo công hia mão chầu trời cuối năm Cờ bay ngựa chạy rần rần Hóa long cá chép tiễn thần bay nhanh.
03 Tháng Hai 20216:26 CH(Xem: 14466)
Nhớ xưa áo trắng một thời Sân trường yêu dấu sống đời học sinh Cuộc đời đẹp tựa bình minh. Yêu thương, tha thứ chúng mình bên nhau.
03 Tháng Hai 20214:17 CH(Xem: 13662)
Một ngày hạnh phúc ngất ngây? Ta cùng con cháu vui vầy hôm nay. Tuyết đang phủ lấp đắng cay. Giúp quên mười tháng cuồng quay xó nhà. Tân sửu chúc bạn gần xa. Thân tâm an lạc thiết tha yêu đời. Nhớ ngày thân ái tuyệt vời. Chúng ta vui khoẻ như thời xuân xưa.
02 Tháng Hai 202111:17 CH(Xem: 8467)
Riêng Kim Tuấn, mùa xuân được ông nhắc tới nhiều nhất dù thi sĩ sinh ra trong bối cảnh lịch sử đen tối và cũng như tất cả các thanh niên thuở ấy ông luôn mang nặng nỗi đau thân phận là người con của “nước Việt buồn”
02 Tháng Hai 202110:23 CH(Xem: 8147)
Giữa bầu trời xám xịt của mùa đông, và bệnh hoạn, cũng có một chút màu xanh hy vọng , để người ta có nghị lực chiến đấu không những với đại dịch mà còn với những hậu quả về mọi mặt do cúm Tàu để lại.
02 Tháng Hai 202110:16 CH(Xem: 9204)
Thời gian không chờ ai. Cuộc đời vẫn bước dững dưng. Chớp mắt thôi đã thấy muôn trùng! Công dưỡng dục suốt một đời lận đận Nghĩa sinh thành vương vấn cả trăm năm”
02 Tháng Hai 202110:10 CH(Xem: 11695)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: TÌNH SỬ VIẾT LẠI – Nhạc & Lời: Phạm Chinh Đông Hòa Âm: Đỗ Hải Ca sĩ: Kim My
25 Tháng Giêng 202110:01 CH(Xem: 14492)
Tôi ra đời ở một làng nhỏ, làng Trình Phố thuộc tỉnh Thái Bình. Tôi sinh ra và lớn lên theo chiến tranh giữa Việt Minh và quân Pháp. Dù còn nhỏ nhưng tôi sợ cả hai.
24 Tháng Giêng 202111:06 CH(Xem: 11396)
Thư này là lá thư thứ 49 nhưng lại là lá thư đầu tiên của năm 2021. Đáng lẽ là một thư vui, lạc quan, tràn đầy hy vọng và niềm tin.
24 Tháng Giêng 202110:40 CH(Xem: 12965)
Áo em tươi cúc hoa vàng Đôi môi đỏ thắm bông trang diễm tình Trắng mai chiếu thủy tươi xinh Mùa Xuân Hoa Nở lung linh sắc màu.
22 Tháng Giêng 202110:52 CH(Xem: 13320)
Phù du say ánh lửa hồng Sơ sinh hạt nắng giữa vòng tai ương. Chia nhau từng mảnh khốn cùng Che đời rách rưới trầm hương đâu rồi.
22 Tháng Giêng 202110:34 CH(Xem: 15912)
Má ơi! cây trái giờ già cỗi Xơ xác tiêu điều như tóc con Kìa ai vừa nhắc cơm kho quẹt Nhớ má tủi lòng nghĩa sắc son.
22 Tháng Giêng 202110:22 CH(Xem: 10022)
Hôm nay nhìn NHỮNG MÙA THU ĐI MÙA THU CHO EM ướt hoen mi MẮT LỆ CHO NGƯỜI TÌNH lần cuối LỆ THU đành vĩnh biệt Cali Nguyện linh hồn Lệ Thu được an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng.
22 Tháng Giêng 20218:58 CH(Xem: 8425)
Đa số dân cư ở Los Angeles là "essential workers", họ đến nơi làm việc, tiếp xúc với khách hàng, không thể làm việc từ nhà như ngành kỹ thuật, hay các ngành khác có thể "remote working"
19 Tháng Giêng 202110:58 SA(Xem: 5861)
Trước nỗi đau nầy, mượn câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm để tiễn biệt Lệ Thu Bùi Thị Oanh: “Oanh bay đi biền biệt chẳng quay về”.
17 Tháng Giêng 202112:46 CH(Xem: 10367)
"Nhỏ ơi", mình sẽ cùng thấy lại một thời gọi nhau là "Nhỏ ơi" trong một khoảnh khắc nào đó dù thời gian đã có bề dày trên mắt, trong tâm hồn của mình....
16 Tháng Giêng 202110:08 CH(Xem: 9926)
Xin mời thưởng lãm tác phẩm mới nhất của Duyên để tưởng nhớ nữ danh ca Lệ Thu vừa qua đời tại CA (01/15/2021)
16 Tháng Giêng 20213:39 CH(Xem: 6404)
Trong truyện ngắn “Lẽ Ra”, viết vào năm 2003, tôi mượn hình ảnh của Lệ Thu và Quỳnh Giao, hư cấu trong nhân vật Mai. Đây có lẽ là nhân vật tôi đắc ý nhất trong các truyện ngắn của tôi.
15 Tháng Giêng 20218:58 CH(Xem: 7802)
Nhưng chúng tôi luôn nhớ "trận đánh cuối cùng trước lúc kết thúc chiến tranh thường là trận đánh tổn thất nhân mạng nặng nề nhất" để kiên nhẫn đi hết phần cuối của đường hầm đại dịch đen tối, dài thăm thẳm
15 Tháng Giêng 20214:53 CH(Xem: 6002)
Một động tác tập chân, hai cách thể hiện, và ở ba tư thế ngồi, nằm hoặc đứng giúp giảm đau lưng, thần kinh tọa đau đầu gối, đau mắc cá, tê các ngón chân
11 Tháng Giêng 20219:09 CH(Xem: 11587)
Mỗi con người Việt Nam khi ra đi đều mang theo mình hình ảnh quê hương và vô cùng trân trọng. Dẫu tôi có chết trên xứ người, thân xác có thành tro bụi, nhưng trái tim tôi vẫn yêu nơi này
11 Tháng Giêng 20218:03 CH(Xem: 12954)
Những chiều buồn lưa thưa Lời ngọt ngào chưa ngỏ Thành cổ tích ngày xưa… Ngày xưa…ngày xưa……
10 Tháng Giêng 202111:22 CH(Xem: 9860)
Tháng giêng Trời phủ khăn tang Tuyết rơi trên những điêu tàn ngày đông Tháng giêng Đất khách chạnh lòng Tách trà bếp lửa khơi dòng nhớ/quên
09 Tháng Giêng 202112:15 SA(Xem: 10032)
Muốn thật nhiều kể ra cũng hao hơi , mệt trí. Không khéo lại hóa thành tên… Kịch sĩ dỏm-dở-dai. Thôi biết phận hèn tài cán chẳng bằng ai, Về rửa chén, nấu cơm sống cuộc đời… Ẩn sĩ.!
04 Tháng Giêng 20211:22 SA(Xem: 12042)
... chợt ngưng vẽ môi điểm nụ cười mắt long lanh. sáng dường như V đang có điều bí mật thì ra “điều bí mật” luôn ẩn nấp trong tim đợi tiếng. thầm thì...
04 Tháng Giêng 202112:59 SA(Xem: 7476)
Đại dịch COVID-19 không lấy đi người thân của Bella, nhưng đã cướp đi tuổi trẻ, tương lai của cô nữ sinh 19 tuổi, và đẩy cô vào cuộc đời nghèo khó, cơ cực giống như con đường mẹ cô đang đi...
31 Tháng Mười Hai 202011:45 CH(Xem: 14469)
Lời tôi chỉ gió thoảng hư không Nghĩ đến tương lai cũng chạnh lòng Đàn con cháu Việt trên đất Mỹ Có còn hạnh phúc như ước mong?
31 Tháng Mười Hai 202011:28 CH(Xem: 12903)
Hân hoan chào đón năm mới sang Pháo mừng Xuân đến nổ rền vang 2021 nhiều hy vọng. An Bình, Hạnh Phúc tiếng cười vang.
31 Tháng Mười Hai 202010:52 CH(Xem: 4380)
Ngày sẽ cạn dần. Đêm nay giao thừa, Người ta rộn ràng đón chờ năm mới, Đếm từng thời gian những giây phút cuối, Happy New Year. Năm cũ đâu rồi
31 Tháng Mười Hai 202010:37 CH(Xem: 11235)
Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là năm 2021 đến với chúng ta. Xin hãy mang đến niềm vui, an lành, hạnh phúc và thịnh vượng đến với thế giới này. CHÚC MỪNG NĂM MỚI
31 Tháng Mười Hai 20209:12 CH(Xem: 14074)
Năm nay với những ngày ‘cấm cung’ vì dịch Covid-19, tôi mới nghĩ đến việc ngồi xuống viết về “Tỉa Thủy Tiên” để chia sẻ với bạn bè thân hữu ở xa những kinh nghiệm và hiểu biết (có thể chỉ là căn bản) về thủy tiên.
31 Tháng Mười Hai 20209:08 CH(Xem: 10465)
Xinh tươi áo đỏ xanh hồng Ngày Đầu Năm Mới tươi trong nắng mùa. Bảy mươi năm có đủ chưa!! Mỗi ngày vui khỏe nhặt thưa chuyện đời Cảm ơn thiên địa đất trời Ta bao nhiêu tuổi phố thời vẫn hơn...
31 Tháng Mười Hai 20209:01 CH(Xem: 4304)
Happy New Year đến Thầy Cô, Qúy Vị đồng hương cùng toàn thể Cựu Học Sinh Ngô Quyền... Mong 2021 sẽ là một năm an lành, mọi điều tốt đẹp sẽ đến với đại gia đình Ngô Quyền và Đồng Hương ...
30 Tháng Mười Hai 202010:12 CH(Xem: 10067)
Đá không buồn và không biết giận Luôn an nhiên tư thế một mình. Khi nào buồn ra ngồi bên đá Nhìn cây lay theo gió xạc xào Đá và cây tưởng như xa lạ Ở bên nhau lại rất hài hòa.
28 Tháng Mười Hai 202010:57 CH(Xem: 12568)
Xin bấm vào link tên bài hát bên dưới hoặc youtube để thưởng thức NHỎ ƠI - Nhạc sĩ Quang Nhật Thanh Lam trình bày
28 Tháng Mười Hai 202010:44 CH(Xem: 7786)
Ngay cả trong đường hầm tối đen của đại dịch, vẫn có màu hồng trong mắt trẻ thơ từ tấm lòng của người lớn.
22 Tháng Mười Hai 202012:06 SA(Xem: 10183)
Năm nay Covid quấy dương trần Kẻ chết buồn đau, sống bất an Lũ lụt thiên tai hành đất mẹ Ôn hoàng dịch bệnh hại người dân Năm châu đóng cửa nơi hoàn vũ
21 Tháng Mười Hai 20202:07 SA(Xem: 3725)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: CHÚC MỪNG GIÁNG SINH 2020 Kiều Oanh thực hiện youtube
21 Tháng Mười Hai 20201:57 SA(Xem: 10839)
Hai ngàn năm đã qua mau Hài đồng giáng thế hang sâu ẩn mình Kính Mừng Thiên Chúa Giáng Sinh Con chiên đồng vọng ân tình chúa tôi.
21 Tháng Mười Hai 20201:46 SA(Xem: 12269)
Xin bấm vào link hoặc yutube để thưởng thức BÀI THÁNH CA BUỒN - Nhạc sĩ Nguyên Vũ Thanh Lam trình bày
21 Tháng Mười Hai 202012:42 SA(Xem: 8696)
Mời quý vị thưởng thức Liên Khúc nhạc Giáng Sinh “Bài Thánh Ca Buồn" và “Hai Mùa Noel" Nhạc sĩ Nguyên Vũ sáng tác Qua hai tiếng hát: Đèo Văn Sách và Kim Phụng
19 Tháng Mười Hai 20206:43 CH(Xem: 11165)
. Mùa Giáng Sinh đã về thực sự trong căn nhà bấy lâu đã mất nụ cười. Ngày mai họ sẽ trang trí cây thông. Ánh đèn rực rỡ, thiên thần và những quả bóng nhỏ sẽ lấp lánh niềm vui hạnh phúc gia đình .
19 Tháng Mười Hai 20206:29 CH(Xem: 12913)
Những bông tuyết trắng nhẹ buông Là lòng của mẹ yêu thương gửi về Chúc con người lính xa quê Sống vui khỏe mạnh ngày về bình an.
19 Tháng Mười Hai 20202:31 SA(Xem: 7873)
Xin ghi lại chuyện này để chia xẻ món quà Giáng sinh tinh thần đến sớm với tất cả những ai đọc đến những dòng này, để thấy cuộc đời vẫn đẹp trong muôn vàn khó khăn do đại dịch cúm Tàu gây ra.
17 Tháng Mười Hai 20209:31 CH(Xem: 12278)
Em như loài hoa dại Mọc trên đá khô cằn Vẫn vươn mình lớn dậy Thơm ngát cùng gian nan.
17 Tháng Mười Hai 20209:27 CH(Xem: 12566)
Thương người, nhớ nước nhớ non. Nay nơi đất mới, tuyết còn đang rơi... Đông,Tây xa cách đôi nơi Đôi dòng gửi Bạn người ơi thấu tình?
15 Tháng Mười Hai 202011:28 CH(Xem: 7157)
Hôm nay, ngày 12/14/2020 là một ngày lịch sử trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 khi những mũi vaccine đầu tiên đã được tiêm cho các nhân viên y tế khắp nước Mỹ.
14 Tháng Mười Hai 202012:09 SA(Xem: 9271)
đêm qua có điều gì không ổn nên cơn buồn ngủ. chập chùng kéo đến lạ lùng khi chiều. mới muộn đêm. chưa tới... giấc mơ tôi. có bóng bạn bè không rõ mặt nói cười trong đôi mắt mỗi người hiện ra trên màn trí nhớ không tên
13 Tháng Mười Hai 202011:48 CH(Xem: 8325)
Xin thắp ngọn nến hồng trong Thánh Lễ đêm nay, ngọn nến ấm áp tình người, tưởng nhớ và nguyện cầu cho những Thiên Thần thương yêu luôn bình an nơi Nước Chúa.
13 Tháng Mười Hai 202010:31 CH(Xem: 10785)
Bài hát Giáng Sinh thật hay đó không phải được phát lên ở Mỹ hay Âu Châu lạnh lẽo giữa mùa đông tuyết giá. Mà được phát ra tại quê hương tôi giữa nhiệt độ nóng nực 112 độ F Sài Gòn.
13 Tháng Mười Hai 20201:16 SA(Xem: 9687)
Anh ra đi, để lại đau buồn cho những người thân ở lại, nhưng với riêng anh, tôi biết là một ước muốn khôn nguôi. Anh đã đến được nơi anh hằng mong đợi, xum họp với nàng ALICE, người yêu muôn thuở của anh.
12 Tháng Mười Hai 202011:49 CH(Xem: 7645)
Có những điều nhỏ nhoi, bình thường, sau 9 tháng đại dịch hoành hành, đã trở thành mơ ước lớn của rất nhiều người.
12 Tháng Mười Hai 202012:55 SA(Xem: 8104)
Nhà văn Lê Lạc Giao, với tinh thần tận tụy cống hiến cho nền triết văn, cho sự sáng tạo bền bỉ, đã tự mình lựa chọn cho chính mình.
12 Tháng Mười Hai 202012:00 SA(Xem: 11624)
Và cuối cùng tôi yêu Trái tim nhỏ mỹ miều Xin em đừng ngừng đập. Để tôi hoài được yêu.
10 Tháng Mười Hai 20202:14 SA(Xem: 9101)
Tôi đã đi du lịch nhiều chuyến và mỗi chuyến đều được sắp đặt trước rất kỹ càng. Như chuyến đi Âu Châu vào cuối tháng sáu và đầu tháng bảy năm 2019 đã được bắt đầu chuẩn bị từ hơn sáu tháng trước.
08 Tháng Mười Hai 202012:39 SA(Xem: 11508)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: HẠNH PHÚC BUỒN – Nhạc & Lời: Phạm Chinh Đông Hòa Âm: Đỗ Hải Ca sĩ: Thúy An, Hồng Nhiên
01 Tháng Mười Hai 202012:27 SA(Xem: 8106)
Vào lúc mà cứ mỗi phút là có hơn một người Mỹ bị Coronavirus lấy mất cuộc đời thì bất cứ một nghĩa cử nào cũng có thể là một điểm sáng rạng ngời giữa đêm đen.
29 Tháng Mười Một 202011:16 CH(Xem: 11332)
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng tôi không thể nào quên được những năm tháng vàng son ấy của Việt Nam nước tôi.
29 Tháng Mười Một 202011:02 CH(Xem: 9293)
năm nay.có biết bao gia đình đón Thanksgiving. buồn lắm! tôi thương người mẹ trẻ gặp ngoài bưu điện dẫn theo ba con nhỏ, đi gửi quà cho chồng có lẽ: lính ở xa... mẹ con nheo nhóc quá tôi muốn được ôm các em vào lòng rồi, không dám…
29 Tháng Mười Một 202010:39 CH(Xem: 5213)
Trong giấc ngủ bình an, Đại đức không còn nhớ gì ngoại trừ câu nói ấm áp của Đức Phật: "Thời gian không chờ đợi ai, hãy tinh tấn lên thầy Ananda.".
29 Tháng Mười Một 20201:50 SA(Xem: 8739)
Xin mời thưởng thức tiếp 1 tác phẩm độc đáo và mới nhất của Duyên
28 Tháng Mười Một 202011:15 CH(Xem: 12550)
Xin cúi đầu tri ân Tiên Tổ Những Anh Hùng Liệt Nữ Việt Nam Mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan Xương máu thành phù sa bồi đắp.
28 Tháng Mười Một 202011:06 CH(Xem: 11995)
Cám ơn với tất cả lòng trân trọng cuộc đời này, hạnh phúc này. Kính chúc những người tôi yêu thương thật nhiều sức khỏe, an lành và hạnh phúc.