Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P12)

09 Tháng Ba 201712:38 CH(Xem: 4153)
GS. Nguyễn Văn Lục - Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P12)

Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P12)


Không biết phải lặp lại gọi những hoạt động của Bảo Đại là gì? Ông có phải là một thứ con buôn chính trị hay con buôn thời cuộc? Ông nhận công khai nhiều món tiền của người Pháp, nhưng đồng thời cũng không từ chối tiền của Hồ Chí Minh?

Phải cắt nghĩa và giải thích về điều này như thế nào cho thuận lý? Ông chống Pháp hay chống Việt Minh? Ông làm việc cho ai? Có lúc ông tuyên bố, ông sẽ không bao giờ quay trở về Huế để đóng vai trò một ông Vua bù nhìn! Như thế là không còn làm việc cho Pháp? Những kẻ chống Việt Minh, số này rất đông nay nhìn thấy ở Bảo Đại một giải pháp dành lại độc lập một cách ôn hòa và tránh được cảnh chết chóc tàn bạo kiểu Việt Minh. Một giải pháp dễ dãi, một nền độc lập được mua bằng một giá rẻ mà không tốn một giọt máu.

Chỉ mãi đến tháng 9-1947, người ta mới nhận rõ lập trường cứng rắn của Bảo Đại đối với Việt Minh. Người Pháp thở dài nhẹ nhõm. Chưa bao giờ ngôi sao Bảo Đại lên như lúc này, sự kính mến ông còn hơn lúc ông từ chức. Phái đoàn gốc người Huế sang chầu chực ông và khẩn khoản ông trở về lãnh đạo đất nước.

Về phía người Pháp, Bollaert là người cương quyết và tin tưởng nhất yêu cầu Bảo Đại trở về nước cầm quyền. Boolaert sẵn sàng chi tiền và đã chi nhiều tiền và chi nhiều lần. Bảo Đại tuyên bố chỉ về nước khi bảo đảm có một nền độc lập toàn diện.

Cái khó khăn trở ngại duy nhất là người Pháp chỉ muốn trao trả một nửa nền độc lập, một nền độc lập tự do có kiểm soát và giới hạn trong một vài lãnh vực. Nghĩa là một thỏa thuận trong đó một nền độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp trong đó chính quyền Việt Nam có một nền hành chánh riêng, cảnh sát riêng. Tuy nhiên quân đội và ngoại giao thì phải chịu dưới quyền kiểm soát của người Pháp.

Đây là những tiền đề như bước mở đầu cho cho một giải pháp cho Việt Nam mà sau này ta gọi là “ Những thỏa ước của vịnh Hạ Long” được ký kết giữa Pháp và Bảo Đại, đại diện cho quốc gia Việt Nam mà ngay cả chính quyền cộng sản cho đến lúc ấy cũng không bao giờ đạt được rộng rãi như thế về phía người Pháp.

Sau đó, theo Hồi ký của Nghiêm kế Tổ, các người của đảng phái đã gửi người ra liên lạc và tiếp xúc với Bảo Đại tại Trùng Khánh như Lưu Đức Trung, Phạm Văn Bính, Đinh Xuân Quảng, Bùi Tường Chiểu.

Tranh vẽ Bảo Đại ở Hong Kong. Nguồn: AKG Images.

Tranh vẽ Bảo Đại ở Hong Kong. Nguồn:  AKG Images.

Nhưng đến tháng 7 năm 1946, khi Bảo Đại đến Hồng Kông thì đã có một số lãnh tụ Quốc gia lúc đó đã lưu vong đã tiếp xúc với Bảo Đại. (Nghiêm Kế Tổ, Ibid.,trang 109)

Nhưng cũng theo hồi ký Bảo Đại, Bảo Đại đã tiếp kiến các đại diện đảng phái Quốc gia, chạy trốn khỏi Hà Nội từ tháng bảy, khi có cuộc truy lùng, ám sát các người của các đảng phái. Đó là các quý ông Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam của VNQDD, Nguyễn Hải Thần của Đồng Minh Hội. Ba người này bày tỏ lòng trung thành với Bảo Đại:

“Le peuple vietnamien, dans sa grande majorité, attend un geste de Votre Majesté. Dès maintenant, Sire, vous pouvez compter sur nous.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 167)

Vài ngày sau thì đến lượt Trần Trọng Kim và một số người khác. Tất cả đều đến từ Quảng Đông. Trần Trọng Kim khuyên |Bảo Đại nên chuyển đến Nam Kinh trông chờ vào Tưởng Giới Thạch. Bảo Đại từ chối liền và cho biết trong tương lai Trung Hoa Dân Quốc sẽ mất vào tay Mao Trạch Đông.

Trong số những người đến gặp Bảo Đại có mặt Phan Văn Giáo!

Sau đó, cảnh sát Anh ở Hồng kông có đến yêu cầu Bảo Đại chọn một Hotel nhất điịnh, họ sẽ phái hai cảnh sát Hồng Kông đến để lo bảo vệ an ninh cho Bảo Đại. Có tiền rủng rỉnh, Bảo Đại đã chọn một biệt thự sang trọng ở Repulse Bay, ở Victoria.

Từ khi dọn đến đây, theo Bảo Đại, biệt thự trở thành nơi lui tới của rất nhiều loại khách lui tới. Trong số này có bác sĩ Phan Huy Đán, luật sư Đinh Xuân Quảng thuộc đảng Xã Hội. Phía Quốc Dân Đảng có luật sư Trần Văn Tuyên.

Những người thân cận của Bảo Đại có Hoàng thân Vĩnh Cẩn, Phan Văn Giáo và Vĩnh Tường trở thành người nhà ở thường trực.

Nhiều người nổi tiếng khác như bác sĩ Lê văn Hoạch, thuộc nhóm Cao Đài. Phạm Văn Bình, Ngô Đình Diêm, Phạm Công Tắc, giáo chủ ở Tây Ninh, Lê Văn Soái, tướng Hòa Hảo đều lần lượt đến Hồng Kong.

Có thể nói hầu như không thiếu một khuôn mặt chính trị nào mà không có mặt. Kết quả các cuộc gặp gỡ này ra sao?

Theo cách nhìn và nhận định của cá nhân người viết bài này, tất cả phần lớn bọn họ đều là thứ chính trị sa lông, đại diện một nhóm thiểu số đảng phái hay tôn giáo mà đằng sau không có thực lực.

Như đã viêt trong đoạn kết của phần 5, cuối cùng dù thắng hay bại là ở nơi những kẻ ở lại. Chiến thắng hay thất bại hay không là thuộc về họ. Những kẻ đã chạ trốn, bỏ của chạy lấy người, cho dù lý luận cách nào đi nữa thì họ vẫn bị loại ra khỏi cuộc chơi.

Họ, tất cả đều bị loại ra khỏi cuộc chơi.

Cuộc chơi cuối cùng chỉ còn hai đối thủ, đối đầu giữa hai nhân vật là J.R. Saintenty và Ho Chi Minh trong một tuyên bố chung như sau.

“Déclaration

La France et le Viêt Nam viennent de signer des accords politiques.
Par ces accords, La France reconnait le Viet-Nam, État libre dans ce cadre de la fédération Indochinoise et au sein de l`Union Francaise. Le Viet Nam aura ses Gouvernements, son Parlement, ses Finances, son Armée propre.

Le Viet Nam acceuillera pacifiquement de son côté les troupes Francaises qui viennent relever les troupes Chinoises au Nord du 16e parallele, conformément aux conventions signées entre la France et la Chine.

Ces accords ramènent la paix sur le territoire du Viet Nam et mettent un terme à une période troublée des relations Franco-Vietnamien. La France et le Viet Nam vont reprendre d’un même élan leur marche vers le progrès politique, social, humain dans une collaboration loyale.

Vive la France et le Viet Nam, peuples libres associés dans l”Union Francaise!!

J.R Sainteny
Délégué du Haut Commissaire de France pour L’Indochine

Ho Chi Minh
Président du Gouvernement du Viet Nam” (Eric Deroo, Piere Vallaud, Indochine Francaise 1856-1956, Guerres, Mythes et Passions, nxb Perrin, trang 73)

1946 – Ký kết Hiệp định Sainteny-Ho Chi Minh

(Tuyên Bố chung. Pháp và Việt Nam vừa mới ký kết một thỏa thuận chính trị. Do thỏa thuận này, nước Pháp nhìn nhận Việt Nam, một quốc gia tự do trong khuôn khổ một Liên Minh Đông Dương nằm trong khuôn khổ Liên Hiện Pháp. Nước Việt Nam sẽ có một chính quyền riêng, một Quốc Hội riêng, tài chánh riêng, một quân đội riêng.
Nước Việt Nam sẽ đón tiếp một cách hòa bình quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa từ phía Băc, vĩ tuyến 16, đúng với thỏa ước đã được ký kết giữa Pháp và Trung Quốc.

Các thỏa ước này sẽ đem lại hòa bình trên lãnh thổ Việt Nam và chấm dứt một giai đoạn hỗn loạn giữa mối liên lạc Viet-Pháp. Nước Pháp và Việt Nam sẽ tiếp tục đi tới những tiến bộ chính trị, xã hội và con người trong sự hợp tác chân thành.

Hoan hô nước Pháp và Viet Nam, những dân tộc tự do trong khuôn khổ liên Hiệp Pháp. Ký tên)

Mặc dầu nội dung thỏa ước này còn què quặt với những hoa từ thì đây cũng là những gì được ký kết chính thức giữa đại diện chính quyền Pháp và Hồ Chí Minh mà các đảng phái lãnh tụ Quốc gia đã không đủ tư cách có mặt, ngay cả ngài cố vấn tối cao.

Bảo Đại hay các đảng phải mà phần đông tìm chỗ trú ngụ tạm thời ở Quảng Đông đã không đủ tư thế để nói chuyện với người Pháp. Nay họ tìm đến Bảo Dại như một chỗ dựa, một uy tín chính trị như một giải pháp thứ ba, thay vì chống Pháp thì quay ra chống Việt Minh.

Và chính ở chỗ này sẽ hình thành trong tương lai cái mà người Pháp cũng như chúng ta thường có thói quen gọi là: La solution de Bao Đai. (Giải Pháp Bảo Đại).

Liệu giải pháp sẽ đem lại điều gì và kết quả ra sao? Và từ chỗ đó chấm dứt vai trò cố vấn tối cao để nhận một danh xưng mới: Quốc Trưởng Bảo Đại.

Về phía người Pháp, nay nhờ những tài liệu, thư từ , nhân chứng cho thấy họ đang phải đối đầu một cuộc chiến sói mòn mà những ngày tháng dễ dàng lúc ban đầu càng ngày như càng vuột khỏi tầm tay của họ. Trên thực tế thì ngay từ những ngay đầu cuộc chiến đã có nhưng dấu hiệu mệt mỏi, một tương lai không mấy sáng sủa cho quân đội viễn chinh Pháp qua một lá thư của một đại úy pháo binh viết cho người vợ ở Toulon ngày 13 tháng giêng, năm 1947 như sau:

“Chỗ anh ở đây, tình hình mỗi ngày một thêm trầm trọng. Đó là cuộc chiến du kích âm thầm, giống như cuộc chiến bưng biền trước đây ở Pháp, nhưng với một mức độ mất an ninh hơn nhiều, do hoàn cảnh địa lý thiên nhiên của xứ sở này cũng như của người dân quê bản xứ. Người ta sống trong tình trạng báo động liên tục, không thể nào đi ra ngoài vào buổi chiều mà không bị rủi ro bị đâm một nhát dao găm vào sau lưng hay một quả lựu đạn ở dưới chân. Ban đêm, phải phòng thủ bên trong khi nhiệt độ xứ này trung bình là 32 độ dưới bóng mát. (…) Đó là một cuộc chiến chênh lệch mà người ta có thể bị chết bất cứ lúc nào, ngay cả ở trong các vùng được coi là an toàn, bị bắn tỉa bởi một tên bắn tỉa trốn ở một góc xó nào đó (…) Người ta muốn ăn chuối, ăn dứa, gạo, sô cô la.. Người ta muốn cả cao su cho các đôi giầy đế crêpe như hồi trước chiến tranh. (…) Nhưng có nghĩa lý gì những điều đó. (…) Và thật là không đủ binh sĩ ở đây để có thể tự phòng ngự và như vậy rồi sẽ thua.” (Eric Deroon-Pierre Vallaud, ibid., trang 97)

(Chúng ta được biết, Pháp chỉ có hơn 100.000 quân đồn trú rải ra 917 đồn bót).

Phần mở đầu cho cuộc chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ tối 19 tháng 12, 1946

Kể từ tháng 3 đến 19-12-1946 là một khoảng trống chính trị trong đó không có mặt Bảo Đại tại Việt Nam. Nó đã dẫn đưa đến một cách không dừng được một cuộc chiến tranh Việt-Pháp mặc dầu với một cố gắng phi thường về phần Hồ Chí Minh cũng như nhượng bộ của ông Hồ đối với người Pháp.

Người Pháp bằng mọi giá muốn tái diễn sự có mặt của họ tại Việt Nam.

Việt Minh thì nhượng bộ đến một lúc không thể nhượng bộ được nữa thì chính Võ Nguyên Giáp là người phát động cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bằng cách dùng bộc pha cho nổ nhà máy đèn Hà Nội vào khoảng 9 giờ tối ngày 19 tháng12.

Rất tiếc là Pháp đã được thông báo qua thông tin tình báo nên đã chuẩn bị cuộc ứng chiến ngay từ phút đầu và chỉ trong một đêm, một ngày họ đã làm chủ tình hình Hà Nội và sau hai tháng đã xua đuổi cũng như tiêu diệt mọi chốt chiếm đóng của hơn 10 ngàn thanh niên xung phong, lực lượng được chỉ định cầm cự và bảo vệ thủ đô Hà Nội.

Theo trí nhớ của tôi thì thời gian ổn định không phải hai tháng mà chỉ trong vòng vài ngày thì không còn nghe tiếng súng tắc bọp nữa.

Tuy nhiên cuộc chiến đối đầu như chúng ta thấy sau này càng có dấu hiệu bất lợi khi người Pháp chủ trương xây dựng các đồn bốt mà người Pháp quen gọi là Guerre des Postes.

Sau này, thỉnh thoảng có nghe tiếng súng thì đó là tiếng súng liên thanh của lính tây mà thôi.

Về sự thiệt hại trong thành phố thì phải kể như Hà Nội còn nguyên vẹn.. Các khu phố tây thì hầu như không có đến một dấu vết đạn để lại trên các căn biệt thự, các cớ sở công thự như nhà bưu điện, sở toàn quyền, sở hành chánh, tài chánh, nhà thờ lớn Hà Nội, trường Albert Sarault, các cửa hàng trên phố Tràng Tiền hoặc chung quanh bờ hồ Hoàn Kiếm, phố Quan Thánh vv…

Nhưng trong phố cổ Hà Nội như các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Than, do sự thúc đẩy của Tự vệ thành, buộc người dân phải tản cư. Rồi sau đó, tự vệ thành đào các ngạch tường như các lỗ chó chui để di chuyển từ chỗ nọ đến chỗ kia.. Lâu lâu còn thấy sót lại một ụ đắp mô vội vã còn sót lại.

Trên một vài bức tường quét vôi còn sót lại vài câu tuyên truyền với hình vẽ còn sót lại như: Ngoài mặt trận cũng như ở hậu phương, ai ai cũng có bổn phận cứu nước, quyết TRƯỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN đi đến ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN. Một câu khác: Hỡi đồng bào! Hãy vững gan bền chí. Chúng ta quyết đập tan gông, xích nô lệ và tin tưởng ở THẮNG LỢI CUốI CÙNG. Ta quyết thắng. Nhiều chỗ còn ghi hai thứ tiếng: Viet Nam Độc Lập! Viet Nam Indépendant!

Lúc ấy, tôi chỉ thấy chiến tranh là điều kỳ cục.

Ở khu phố cổ vốn xưa nay là nơi buôn bán sầm uất với đông người qua lại thi nay chúng trở thành những hoang địa. Ngoài mặt đường đầy những rác rưởi với cả đồ đạc giường tủ vất ngổn ngang, quần áo, đồ dùng trong nhà đủ loại vứt tung ra ngoài đường. Tuy nhiên, sau này tôi muốn đi “thổ phỉ” một cái áo lạnh cũng không có được. Người Hà Nội coi vậy cũng chẳng giàu có gì. Rời khỏi Hà Nội, họ cũng chuẩn bị quang gánh và đủ loại phương tiện chuyên để mang đi bất cứ thứ gì có thể mang đi được. Như quần áo, gạo thóc, nồi niêu xong chảo, thực phẩm khô như cá khô, muối vừng v.v.

Những người còn ở lại Hà Nội như tôi, dù không có bao nhiêu cũng không thể tìm kiếm được chút lương thực ít ỏi còn sót lại để sống qua ngày nếu không có sự tiếp tế của người Pháp thì sẽ rơi vào cảnh chết đói..

Chiến tranh thì chắc là phải có người chết. Nhiều là đàng khác. Vậy mà ngay sáng hôm sau, tôi biết chắc chắn có sự giao tranh giữa đôi bên và tưởng sẽ có nhiều người chết. Súng gỗ thì còn thấy vứt rải rác, nhưng người chết chắc đã được khuân di kịp thời nên không để lại dấu tích gì.

Kinh nghiệm chiến tranh của tôi cuối cùng chỉ là sự đói nghèo. Sự sợ hãi chỉ xẩy trong những ngày đầu. Người Pháp cũng như kiều dân Pháp không còn những ngày tháng quá khứ “vivre comme en Europe” sống như ở Pháp. Ít còn thấy những ông Tây thực dân, quần áo vét trắng, đội mũ cô lô nhần, xách ba tong đi nghênh ngang ngoài phố. Nhưng họ kín đáo hơn mặc dầu không tỏ ra thân thiện như trước chiến tranh.

Dầu vậy, Hà Nội chóng tìm lại được những sinh hoạt bình thường. Cái điều bình thường và thân quen nhất là hai toa tàu điện chạy từ phía Bờ Hồ, qua Ngã Tư Sở rồi cứ thế qua huyện Hàm Long hướng về phía Hà Đông. Tiếng kính keng quen thuộc, tiếng bánh xe điện rit trên đường sắt mỗi khi qua một khúc quanh.

Chỉ trong vài tháng thì đã có dấu hiệu của sinh hoạt buôn bán trở lại. Số lượng người hồi cư hay được gọi là dinh tê mỗi ngày mỗi đông.

Sự trở về đông đảo của dân chúng Hà Nội là một dấu hiệu tốt đẹp một ngày mai được thanh bình. Nhưng không phải vậy, mỗi ngày cuộc chiến diễn ra một cách ác liệt! và phân chia thế giới thành hai cực, biến cuộc chiến tranh mang hình thái tranh chấp ý thức hệ vượt tầm tay mọi người.

Kết quả là một chiến thắng và một xỉ nhục.

Hôm nay, nhìn lại cuộc chiến tranh Việt-Pháp 1946-1954 trong một chiều kích không phải ý thức hệ, cũng không hẳn là cuộc chiến chống ngoại xâm theo lối nhìn thông thường.

Một chiều kích đặt trên nền tảng lý luận dựa trên ba phạm trù căn bản, nhờ đó có cái nhìn toàn diện bao quát toàn bộ cuộc chiến tranh để thấy rằng, tất cả không trừ ai, chúng ta đã làm một sự lãng phí quá to tát về sinh mạng con người, về tài sản thiên nhiên đã ban phát cho chúng ta chỉ vì những chọn lựa sai lầm của mỗi bên. Nhất là về tương lai con người Việt mà hậu quả ra ngoài sự thẫm định và đo lường của mọi người. Thắng hay bại, người Việt Nam vẫn cuối cùng là kẻ thua cuộc do những lý luận dựa trên 3 phạm trù sau đây

  • Phạm Trù thứ nhất: Sự canh tân, tiến bộ và phát triển

Những nhà lãnh đạo khôn ngoan và hiểu biết luôn luôn đặt cao sự canh tân, tiến bộ và phát triển như như mục tiêu hàng đầu đưa đất nước đi lên. Bệnh nghèo khó, sụ ngu dốt, sự thua kém người ngoài là do những căn bệnh trên. Vậy thì trước khi có đủ tiềm lực để có thể đương đầu với kẻ thù địch. Chúng ta trước hết phải đủ mạnh. Không có con đường nào khác giúp đất nước mạnh bằng con đường canh tân. Canh tân sẽ làm cho đất nước giầu mạnh không bị một bất cứ thế lực nào có thể chà đạp lên đất nước của mình. Dùng võ lực, sức mạnh quân sự chỉ là kế sách ngắn hạn. Chỉ có canh tân xứ sở mới là lũy trường thành bảo vệ bờ cõi. Vạn lý trường thành đã cho thấy sự thất bại của các vua chúa quan lại nước Tàu như thế nào. Nước ta kể từ các vua chúa đến sau này đến các lãnh tụ đảng phái, đến đảng cộng sản đều coi nhẹ chọn lựa canh tân. Chiến thắng xong rồi chỉ còn lại một tập đoàn lãnh dạo mà trình độ chỉ xấp sỉ qua bực tiểu học. Làm sao họ có thể lãnh đạo đất nước đi lên với sự dốt nát như thế? Họ đã coi rẻ kế sách canh tân nên đã rước họa cho cả dân tộc, gây cảnh lầm than chiến tranh kéo dài hàng trăm năm. Hết họa thực dân Pháp đến thực dân Nhật nay đến thực dân Tàu?

  • Phạm trù thứ hai: Chọn lựa sự nổi dậy hay sự nổi loạn

Từ văn chương thơ phú đến lịch sử VN đều đề cao sự nổi dậy như một phương thức duy nhất đem lại an bình. Lịch sử chỉ là lịch sử chiến tranh miên tục để bảo vệ bờ cõi thì ít mà để tranh dành quyền lực thay đổi một triều đại thì nhiều. Kẻ chiến thắng được gọi là anh hùng, kẻ thua gọi là giặc. Dưới triều đại nhà Nguyễn, có những thời kỳ ghi được 250 các cuộc nổi dậy. Thời VNCH, 20 năm miền Nam, giặc nội thù chính là sự tranh dành của các đảng phái trong những mưu toan lật đổ chính quyền hợp pháp. Cái ung nhọt lớn nhất của miền Nam tự do là sự quấy rối của hàng trăm đảng phái khác nhau. Mà mỗi đảng nhiều khi chỉ có cái tên, hữu danh vô thực. Từ một đảng lại chia ra nhiều hệ phái, từ hệ phái lại chia ra nhiều chi phái. Chia rẽ là chính. Rồi thiết lập Liên Minh, mặt trận thống nhất đến một lúc nào đó đều chìm xuồng. Hết nạn Đảng phái đến nạn Hội đoàn. Chỉ tính ở hải ngoại bây giờ thôi, chúng ta có hơn 500 Hội Đoàn. Càng có nhiều hội đoàn, dấu hiệu chia rẽ càng trầm trọng. Càng kêu gọi đoàn kết, càng đẻ thêm các mâu thuẫn nội bộ, mâu thuẫn cá nhân với cá nhân, nhóm nọ nhóm kia, phe phái. Chưa bao giờ người Việt Nam biết học để kết đoàn. Sự chia rẽ là mầm mống của sụ bị lệ thuộc làm suy yếu tiềm lực dân tộc. Nhìn trong nước hiện nay cũng như ở hải ngoại, chúng ta đều thấy có chung mẫu số: sự chia rẽ và phân hóa.

  • Phạm trù thứ ba: Làm cách mạng

Đây là cái tai họa lớn nhất cho dân tộc. Lịch sử cho thấy các cuộc cách mạng, dù mang nhãn hiệu gì, rồi cũng đi đến chỗ đổ máu và một chế độ cai trị tàn bạo. Cách Mạng nào đã đem lại điều tốt đẹp cho con người? Hầu như không có. Riêng cuộc cách mạng của người cộng sản đưa đến sự lầm than và khốn nạn nhất cho nhân loại.

Ba phạm trù trên là kim chỉ nam giúp chúng ta nhìn lại.

(Còn tiếp)


Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

28 Tháng Tám 2015(Xem: 17846)
Liệu Đế quốc Trung Cộng có "may mắn" thoát được số phận tan vỡ ra từng mảnh hay không và phe nào sẽ thắng thế trong cuộc tranh chấp quyền lực đẩm máu ?
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43221)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
27 Tháng Hai 2015(Xem: 19633)
Luận đề của "Đoạn Trường Tân Thanh" hiển nhiên là thuyết "tài mệnh tương đố"", gọi nôm na là "hồng nhan bạc mệnh".
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 27190)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22225)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29792)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 38225)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 36926)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 30935)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 21928)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 39129)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16334)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39915)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 14155)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50700)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 29059)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31550)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 91022)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 70536)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 96267)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 103456)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 139839)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 154236)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 120910)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 159884)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 149157)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 165158)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 157996)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160410)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 168949)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 164358)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27706)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42791)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 44052)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39429)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 30126)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 43289)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87350)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 97546)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67324)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93326)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32661)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 78089)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74559)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39347)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39762)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47206)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46341)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 146985)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23418)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.