Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P6)

19 Tháng Giêng 201712:43 CH(Xem: 8231)
GS. Nguyễn Văn Lục - Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P6)

Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P6)


Nhân chứng miền Nam: ký giả Nguyễn Kỳ Nam

“Súng nổ dồn dập..
Sài Gòn sống trong giờ phút kinh khủng.
Dân chúng ngơ ngác hỏi với nhau:
Chuyện gì? Súng nổ ở đâu? Ai bắn?
Các ngã đường đều có lính Nhật canh gác.
Các nhà báo được tin này từ hồi sớm vì Kimura, giám đốc sở tuyên truyền Nhật, mời vài nhà báo ăn cơm tại một nhà hàng ở đại lộ Galliéni vào lúc 7 giờ, để rồi đưa hết lên lầu Đông Dương Ngân hàng là nơi thông tấn xã Domei đặt trụ sở, có đủ mặt ký giả Nhật.
Đại úy Suzuki, giám đốc cơ quan tuyên truyền báo chí Nhật nói: Đó là tiếng súng lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dương.”

Vân Trình và tôi ở báo Điển Tín viết bài: “Giờ lịch sử đã đến.”
(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 120)

“Sự xuất hiện rõ rệt là ở nhiều nơi binh sĩ Cao Đài, mặc quần sọt, áo sơ mi ngắn tay, đội caloo vàng, đi giày xăn đan, tay cầm tầm vông canh gác các cơ sở cùng với lính Nhật. Phần các công chức từng làm việc cho Pháp vẫn trở lại làm việc bình thường.

Các nhà làm chính trị cơ hội như Hồ Văn Ngà yêu cầu dân chúng hô các khẩu hiệu: Đại Đông Á vạn tuế. Quân đội Nhựt toàn thắng. Việt Nam thống nhứt vạn tuế.
Đến lượt ông Trần Quang Vinh, đạo Cao Đài cũng lên diễn đàn cùng luận điệu.
Về hành chánh, các đốc phủ sứ Việt Nam được thay thế Pháp làm Tỉnh trưởng.”
Lúc bấy giờ Nhật đang hấp hối mà nào có ai biết.
Cuộc biểu tình đầu tiên ở Sài Gòn ngày 18 tháng 3 quy tụ đến 50.000 người tại vườn ông Thượng.”

(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 152-164)

Nhân chứng miền Bắc: Đoàn Thêm, Những ngày chưa quên, Ký sự 1939-1954

“Decoux theo chỉ thị của Pétain nên hình ảnh Pétain được in bán và treo tại các công sở, nhà hát lớn hay tòa thị sảnh. Người ta còn nhớ đến những bài hát: Thống chế ơi, có chúng tôi đây. (Maréchal, nous voilà). Decoux cũng phân loại những người Pháp theo kháng chiến hay Hội kín Franc-Maconnerie. Như thế, rõ ràng tâm tình người Pháp cũng chia rẽ, kẻ theo Pétain. Phần còn lại, phần lớn cũng có cảm tình với De Gaulle một cách kín đáo. Nhiều người Pháp bỏ trốn qua Vân Nam theo Đồng minh và De Gaulle.

Đến khi Nhật tràn từ Quảng Tây sang Lạng Sơn thì nhiều người Việt tin rằng phen này Pháp thua ra mặt và Nhật sẽ giúp Việt Nam thoát ra khỏi ách đô hộ thực dân. Nhiều người nhân dịp này bày tỏ thái độ công khai chống Pháp ra mặt coi như một vận hội mới sẽ đến cho Việt Nam. Họ nghĩ rằng, nếu không có Nhật, Việt nam đến bao giờ mới có cơ hội được độc lập?

Số chiến hạm Anh Mỹ bị Nhật đánh đắm được treo ở phong Thông tin Hà Nội.”

“Tuy nhiên, người ta không khỏi ngạc nhiên là quân đội Nhật đóng khắp Đông Dương, đòi gì cũng được, thế mà Pháp vẫn duyệt binh, ra lịnh, dạy học, bán hàng, khai mỏ, thu thuế, cách chức, bỏ tù. Tình trạng này phi lý, nhưng mãi sau, tôi mới tìm ra tài liệu lên hệ để xét lại và hiểu rõ hơn.”

(Đoàn Thêm, Ký sự 1939-1954, trang 15-21).

Thật ra, Nhật đã ký hiệp ước 1940-1941 thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Việc ký kết này giúp Nhật rảnh tay miễn sao Pháp cung ứng đầy đủ nhu cầu cho quân đội Thiên Hoàng. Tuy nhiên, sự duy trì chế độ hành chánh nguyên trạng có lợi cho cả đôi bên Nhật không tốn một viên đạn mà vẫn có tất cả. Pháp thì vẫn giữ quyền làm chủ Đông Dương chờ thời cuộc thay đổi.

Chỉ có người Việt là cảm thấy khó chịu vì vừa chịu một cổ hai tròng. Làm quần quật để nuôi một lúc hai kẻ thù. Và đó cũng là nguyên nhân chính sau này nảy sinh ra nạn đói năm Ất Dậu. Vắt mãi, vắt đến cạn kiệt thì đến một lúc nào đến cái khố cũng không có mà mặc.

Cả chính quyền Quốc Gia của Bảo Đại cũng như chính quyền Việt Minh cả hai đều khoanh tay bất lực!

Mặc dầu quân đội Nhật có mặt khắp nơi, nhưng họ thường kín đáo nên không gây một xáo trộn nào đối với đời sống hằng ngày của dân chúng Việt Nam. Đoàn Thêm nhận xét về người Nhật:

“Họ quen nếp sống giản dị hoặc khắc khổ, chẳng nhũng nhiễu ai, nhưng cũng không thân thiết với ai. Không thấy trẻ thơ lẽo đẽo theo sau quân nhân xin tiền, kẹo hay thuốc lá mà họ cũng chẳng có: không thấy mọc ra tiệm nhẩy hoặc phòng trà, tuy phòng trà xứ họ nổi tiếng khắp hoàn cầu; không thấy người kéo xe cao-xu bỏ đồng bào để tranh chở họ, vì họ đi bộ hoặc dùng xe vận tải nhà binh…”
(Đoàn Thêm, ibid.,trang 22)

“Tinh thần binh sĩ Nhật như vậy thật cũng đáng nể. Sau 1945, khi đồng minh sang giải giáp mới rõ quân số Nhật ở Đông Dương lên đến cả triệu người. Người Việt phải nuôi đám quân cả triệu người ấy thì lấy cơm gạo ở đâu cho vừa. Pháp liền bắt dân quê nộp thóc gạo ngay sau mỗi mùa. Việc nộp thóc gạo là một lệnh rất gắt gao mà các cấp thừa hành ở xã ấp phải thừa hành cho bằng được. Giá thóc lên cao, gạo kém và khan hiếm. Chính quyền Pháp phải ra lệnh phát thẻ để phân phối. Trước mỗi đầu người được phân phối 15 kí, rồi rút xuống 12 kí, sau chỉ còn 8 kí.”
(Đoàn Thêm, ibid., trang 26)

Tới giữa năm 1944, nạn đói đã có dấu hiệu đáng lo ngại.

Đã thế, quân đội đồng minh còn ném bom các đường giao thông vận tải như xe hỏa và cả đường biển.

Theo Đoàn Thêm, “Các vụ ném bom các nhà ga xe lửa Gia Lâm và Hà Nội cuối năm 1943 đã làm chết và bị thương hơn 1000 người ở các làng Lương Yên, Lương Sử. Các trục giao thông bị phá cũng nhiều, nhất là đường Hà Nội-Sài Gòn, nên gạo Nam khó tải ra Bắc và than Bắc khỏ chở vào Nam.” (Đoàn Thêm, ibid., trang 24)

Để giải quyết vấn đề tiếp tế, Decoux đã phát động phong trào kinh tế tự túc, hô hào chế biến tiểu công nghệ thay thế đồ ngoại hóa. Kết quả không thành. Những hàng thiết yếu cho đời sống ngày càng khan hiếm. Nói chung mọi thứ đều khan hiếm và nạn chợ đen, nạn hàng giả ra đời.

Các hội thiện đã lập các trạm cứu tế chung quanh thành phố như Giáp Nhất, Giáp Nhì, Giáp Bát, bãi cát Phúc Xá bên sông Nhị. Nhưng cung cấp sao cho đủ? Người chết đói vẫn chết đói. Nhưng kiều dân Pháp hay người có Pháp tịch, hoặc công chức cao cấp, phú thương, nghiệp chủ vẫn được cung cấp sữa, thuốc lá, cà phê, bột mì, màn tuyn, vải may Âu phục v.v.

Người ta chết đói vì không có ăn cũng có, nhưng còn do sự phân phối bất bình đẳng nói sao cho vừa.

Tôi nghĩ xin trích dẫn một đoạn về nạn đói năm Ất Dậu mà tác giả Đoàn Thêm từng chứng kiến như người trong cuộc:

Nạn nhân nạn đói Ất Dậu ở miền Bắc. Ảnh: Võ An Ninh, 1945

Nạn nhân nạn đói Ất Dậu ở miền Bắc. Ảnh: Võ An Ninh, 1945

“Ở nhiều vùng, dân chết cả nhà, cả xóm, hay gần cả làng. Hết gạo, hết khoai, hết chó mèo, hết chim, hết chuột, hết củ chuối, người ta làm thịt con nít. Sự thảm khốc này, dĩ nhiên là khó tin. Nhưng tới năm 1947, nhân dịp tản cư về hạt Xuân Trường, tỉnh Nam Định, tôi đã có lần bước vào một ngôi nhà trống. Hỏi vì sao nơi đây hoang vắng, thì được mách rằng không ai đến ở, vì cả gia đình khổ chủ đã chết từ năm 1945, sau khi nấu một đứa con nhỏ làm món ăn nhựa mận “ăn cho đỡ đói.”
(Đoàn Thêm, ibid., trang 29)

Trong khi đó, ở cung điện nhà vua, ngài Bảo Đại có bao giờ nghĩ đến hoàn cảnh đói khổ của dân miền Bắc?

Rồi Bảo Đại lại được Nhật mời ra lập chính phủ. Nhiều người coi là trò hề. Nhưng dù sao thì cũng phải có cái gì trên đầu chứ? Không vua thì ai bây giờ? Câu trả lời có vẻ như bướng bỉnh, nhưng đấy lại là vấn đề lớn nhất của người Việt Nam. Trong bao nhiêu năm, trong bao nhiêu triều đại đã đi qua, bao nhiêu thể chế lần lượt đến rồi đi.

Chúng ta chưa tìm ra được một người lãnh đạo xứng đáng!

Là một thanh niên sống trong thời khói lửa, đứng trước nhiều phong trào vận động chính trị, sự chọn lựa của người thanh niên đứng về phía nào hẳn không dễ. Nào truyền đơn, bích chương, khẩu hiệu treo khắp thành phố. Máy phóng thanh suốt ngày ra rả những luận điệu tuyên truyền đả kích nhau ở nơi công cộng như Bờ Hồ Hoàn Kiếm, trước của chợ Đồng Xuân, vườn Bông cửa Nam. Nhiều đoàn thể ra đời nghe những tên lạ hoắc: Thanh niên cứa quốc, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc, phụ lão cứu quốc… trong tháng chín, tháng mười.

Trước nạn đói chẳng ai đoái hoài, vẫn có một thứ chính trị bất nhân tranh dành giữa Quốc Gia-Việt Minh, cả hai đều là thứ chính trị ma đầu bất kể đến dân.

Ông Đoàn Thêm là một thanh niên ở tuổi 20 thời đó. Ông chỉ khác người là bản tính ông vốn do dự, nghi kỵ tính toán nên vì thế ông chậm chạp trong những chọn lựa của mình. Nhờ chậm, ông chẳng bị đưa đẩy vào bất cứ phong trào nào cho đến lúc “cách mạng” bùng nổ.

Nhiều thanh niên khác sốc nổi theo sự bồng bột đã chọn lựa theo Pháp, gia nhập hàng ngũ quân đội Pháp sau này hoặc lang bạt xứ người, hoặc chết trận hoặc phần đông trở thành các sĩ quan trong quân đội Quốc Gia. Chắc họ không nghĩ mình chọn sai đường?

Một số nhỏ chạy theo đảng phái, nhưng giới thanh niên cho rằng các lãnh tụ này họ về nước quá chậm, theo chân quân đội Trung Hoa kéo sang giải giới Nhật, dễ bị mang tiếng theo thế lực ngoại quốc. Nhiều đoàn thể quá, nào Việt Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách). Biết theo ai bây giờ? Về muộn mà đòi chia phần, chia ghế trong chính phủ mới. Các gương mặt lãnh tụ đảng phái này đều là những gương mặt quen thuộc mà trước đây họ đã có cơ hội cũng chẳng làm nên trò trống gì như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ. Họ có tiếng mà không có thực lực. Thực lực của họ nếu có là dựa vào Nhật và nhất là Tàu. Cán bộ thiếu thốn và không được đào luyện có bài bản. Họ ít thu hút được giới thanh niên theo họ. Khi người Tàu rút về nước thì họ cũng nhanh chân lẹ tay rút theo bỏ lại tổ chức và cán bộ.

Thành phần thứ ba, đông đảo hơn, theo Việt Minh, mặc dầu có nhiều e ngại là cộng sản. Nhưng nhiều khi nhắm mắt liều, vì nghĩ rằng họ thật sự yêu nước, họ có tổ chức, có đoàn thể, có cán bộ, có kỷ luật, xem ra có sức mạnh. Nhiều người bỏ học, bỏ cả tương lai theo Việt Minh. Những nhân vật như Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh là những nhân vật mới, không có thành tích theo Tây, theo Tàu, theo Nhật như các vị trên. Chẳng ai biết Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Chu Văn Tấn, Võ Nguyên Giáp là ai cả?

Vì không biết là họ là ai nên đã có rất nhiều huyền thoại bao quanh họ. Họ càng bí ẩn càng khêu gợi sự tò mò của nhiều người.

Còn lại là những thành phần xu thời thì thời nào chả có! Họ ngả nghiêng đón gió, chờ thời?

Nhật làm chủ Đông Dương

Buổi chiều ngày 10 tháng ba năm 1945, khi Nhật làm đảo chánh Pháp thì vua Bảo Đại đang trên đường từ Quảng Trị về Huế sau hai ngày đi săn cùng với hoàng hậu.

Vào khoảng 23 giờ đêm, khi gần vào đến kinh thành thì xe của Bảo Đại bị chặn lại. Một sĩ quan Nhật cho biết xe phải ngừng lại, vì có thể nguy hiểm nếu tiếp tục đi nữa. Họ lái xe của Bảo Đại vào lề đường và bảo chờ ở đó. Khoảng 2 giờ sau, có một đại tá Nhật đến cho biết, nay Bảo Đại có thể trở về nhà một cách an toàn.

Lúc đó Bảo Đại vẫn tự hỏi: Je m’interroge: Que s’est il passé? (“Tôi tự hỏi, điều gì đã xảy ra?”, S.M. Bao Daï, ibid., trang 101).

Đây là một câu hỏi vô trách nhiệm nhất của một người lãnh đạo đất nước.

Ngày hôm sau vào lúc 11 giờ, đại sứ Yokoyama, đại diện chính quyền Nhật Mikado đến trình bày lý do tại sao phải đảo chánh, lật người Pháp.

Đại sứ Nhật trình bày tiếp:

“Nous voulons redonner: “ L’Asie aux Asiatiques” (“Chúng tôi muốn trao trả Á Châu cho người Á Châu.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 102)

Trong dịp này, đại sứ Nhật cũng loại bỏ vai trò của Kỳ ngoại Hầu Cường Để đáng lẽ ở vị trí Bảo Đại bây giờ cũng như không nhắc xa gần gì đến số phận xứ Nam Kỳ.

Nhưng một lần nữa lại cho thấy, việc chọn lựa Bảo Đại thay vì Cường Để bởi vì Bảo Đại sẽ là một con cờ tay sai dễ sai khiến.

Người Nhật sẽ chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam vào tay Bảo Đại và từ đây Bảo Đại sẽ đóng vai trò mới trong tay người Nhật. Vai tro Bảo Đại đóng với Pháp thế nào thì nay cũng như vậy. Cái khác là thay đổi chủ mà thôi.

Ngày 12 tháng 3, 1945, Bảo Đại triệu thỉnh đại sứ Nhật và trao cho ông này một bản tuyên bố lần đầu tiên có chữ ký chung của Cơ mật viện với các tên tuổi như Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Hy, Bùi Bằng Đoàn Trần Thanh Đạt và Trương Như Định đại lược như sau:

“Trước tình hình thế giới và nhất là tình hình ở Á Châu, chính quyền Việt Nam tuyên bố công khai kể từ ngày hôm nay, các thỏa ước đã ký với chính quyền Bảo Hộ Pháp sẽ bị hủy bỏ và nước Việt Nam sẽ lấy lại quyền độc lập cho mình.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 104)

Ai là người viết chiếu chỉ này cho Bảo Đại? Phạm Quỳnh chăng ? Thường là thế, nhưng lần này không. Theo nhà báo Nguyễn Kỳ Nam có dịp phỏng vấn Phạm Quỳnh cho biêt:

“Sau tiếng súng nổ đêm 9 tháng 3, quân đội Nhật vào thành kiếm chúng tôi — tôi và các đồng liêu — đem giam lại một chỗ. Sáng ngày, ông Yokoyama đón Đức Kim Thượng đi săn về: chừng đó, hội họp nhau ở lầu Kiến Trung, tôi mới rõ sự tình. Qua ngày 11 tháng 3, ông Yokoyama trở lại, với hai bản văn viết sẵn:

— Tôi cho các ông suy nghĩ 15 phút, rồi ký tên hay là không ký, tùy ý.

Lúc bấy giờ tôi còn suy với nghĩ gì nữa: một bạn đồng liêu, mà không nhớ ông nào, mới nói ra câu này:

— Ký cũng vô khám, mà không ký cũng vô khám! Ký thì vô khám dễ chịu hơn là không ký.

Thế rồi toàn viện cơ mật ký tên.

Cụ Phạm Quỳnh ngẫm nghĩ hồi lâu, gật đầu nói với tôi:
— Hủy bỏ hay không hủy bỏ. Hiệp ước 1884 làm chi nữa? Nó đã bị hủy bỏ trước khi tôi vô Huế.” (Nguyễn Kỳ Nam, Ibid., trang 169)

Kinh thành Huế lúc đó do lính Nhật canh gác và kiểm soát khắp nơi. Và một lần nữa, người đọc thấy được tâm trạng của Bảo Đại:

“Je me trouve devant un vide vertigineux.” (“Tôi thấy mình rơi vào một tình trạng trống rỗng dễ sợ.”( S.M. Bao Daï, ibid., trang 105)

Ý nghĩ đầu tiên đến với bảo Đại là phải thành lập một chính phủ mới với nhân sự mới. Người đầu tiên ông nghĩ tới là Ngô Đình Diệm. Ông viết:

“Il devient urgent de prendre les afaires en main et de mettre en place cette équipe d’hommes nouveaux à laquelle avait allusion l’ambassadeur Yokoyama. Dans mon esprit, l’homme le plus représentatif de cette équipe c’est Ngo Dinh Diêm. Il est à Sài Gòn. Je sais qu’il est en relation avec les Japonais et que sa présence faciliterait nos rapports avec les autorités occupantes. Je convoque donc l’ambassadeur et, après avoir informé de ma décision, le prie de faire le nécessaire pour que Ngo Đinh Diêm puisse rejoindre la capitale le plus rapidement possible.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 106)

“Tình hình trở nên khẩn trương phải nắm lấy cơ hội và thành lập ngay một nhóm người mới như gợi ý của đại sứ [Massayuki] Yokoyama. Trong đầu tôi lúc ấy, người có đủ điiều kiện hơn cả của nhóm này là Ngô Đình Diệm. Hiện ông ta ở Sài Gòn. Tôi cũng biết rằng ông có mối liên hệ với Nhật và nhờ thế có thể làm cho môi liên lạc giữa đôi bên trở nên dễ dàng hơn. Tôi đã nhờ đại sứ Nhật làm tất cả những gì cần thiết sau khi cho biết quyết định của tôi để Ngô Đình Diệm có thể về Huế càng sớm càng tốt.”

Ông đã yêu cầu đại sứ Nhật liên lạc với Sài gòn để gửi Ngô Đình Diệm ra Huế càng sớm càng tốt.

Không cần thiết phải đi sâu vào chuyện tại sao Ngô Đình Diệm đã không làm thủ tướng vì có nhiều cách giải thích khác nhau, bên lề. Chỉ biết chắc rằng lá bài Cường Để- Ngô Đình Diệm người Nhật đã không dùng mà quyết định chọn Bảo Đại-Trần Trọng Kim thay thế. Thật vậy, Trần Trọng Kim đã được Nhật đưa về Sài Gòn từ ngày 3-4-1945 và sau đó được đưa ra Huế thành lập nội các ngày 17-4. Việc chọn Trần Trọng Kim là một quyết định có sẵn của người Nhật. Một chính khách bất đắc dĩ do thời cuộc đưa đẩy lên, không muốn mà vẫn phải làm.

Trong hồi Ký Một cơn gió bụi, Trần Trọng Kim cho biết:

“Một viên trung tướng Nhật đã cho coi danh sách những người mà hoàng thượng muốn mời ra Huế có tên Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Oánh, Trịnh Bá Bích, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Cẩm và tên tôi mà lại không thấy tên ông Ngô Đình Diệm. Tôi lấy làm lạ sao có tên tôi đúng vào đấy.”
(Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn, 1969, bản Phocopy)

Rồi khi về đến Sài Gòn gặp Ngô Đình Diệm. Ông Diệm không biết gì về việc người Nhật mời cụ Trần Trọng kim ra Huế.

“Ông Diệm nói: “thế à, sao người Nhật không cho tôi biết?” Ngồi nói chuyện qua loa vài câu rồi ông Diệm đứng dạy nói: “Tôi phải vào Tư Lệnh Bộ có chút việc, sang sớm mai, tôi về lại Vĩnh Long.””
(Trần Trọng Kim, ibid.)

Như vậy dứt khoát là ông Diệm không được giấy mời của Nhật thì làm sao ra Huế được. Cả Bảo Đại và cụ Trần Trọng Kim đều bị người Nhật phỉnh lừa, cho vào tròng mà không biết nên mới gây ra nhiều cớ sự.

Hiểu rõ vai trò của mình đã hết, vì nặng về khuynh hướng theo Tây, Phạm Quỳnh và nội các của ông đã đệ đơn từ chức.

Đợi ba tuần lễ, cũng không có tin tức gì của Ngô Đình Diệm. Cuối cùng vị đại sứ Nhật cho biết, chính quyền Nhật không chấp thuận để Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Lá bài thủ tướng được chuyển sang cho Trần Trọng kim, một người cũng được Nhật chọn và tin tưởng đồng thời là một người quốc gia chân chính.

Chính Phủ Trần Trọng Kim

Việc chọn Bảo Đại và thủ tướng là nằm trong cái carte Japonaise của người Nhật? Nay việc thành lập nội các ai sẽ là người quyết định? Thật ra danh sách thành phần nội các một phần lớn đã nằm trong thành phần mà Bảo Đại đã có thư mời từ trước rồi. Ông Trần Trọng kim cũng không quen biết nhiều, cũng không có diều kiện thời giờ để mời ai khác được. Vì vậy đây là một sự sắp xếp gọn gàng và tốt đẹp với các nhân sự có mặt tại Huế nên chỉ trong một thời gian tham khảo ngắn, ông Trần Trọng Kim đã trình lên Bảo Đại thành phần nội các của ông, Dưới mắt Bảo Đại thì đây là thành phần nội các trẻ, phần lớn được Pháp đào tạo. Bảo Đại hy vọng và phấn khởi vì đây là lần đầu tiên một chính phủ Việt Nam độc lập vào ngày 17 tháng tư.

Ngoài Trần Trọng Kim, giáo sư, Nội các Tổng Trưởng. Trần Đình Nam, Y sĩ, Nội vụ Bộ Trưởng. Trần văn Chương, luật sư, Ngoại giao Bộ Trưởng. Trịnh Đình Thảo, luật sư, Tư Pháp Bộ Trưởng. Hoàng Xuân Hãn, Toán học thạc sĩ, Giáo dục và Mỹ Nghệ Bộ trưởng. Nguyễn văn Hiền, Luật sư, Tài Chánh Bộ Trưởng. Phan Anh, luật sư, Thanh Niên Bộ Trưởng. Lưu Văn Lăng, kỹ sư, Công Chính Bộ Trưởng. Vũ Ngọc Anh, Y khoa bác sĩ, Kinh tế Bộ Trưởng. Nguyễn Hữu Thi, cựu Y Sĩ, Tiếp tế Bộ Trưởng.

Nội các Trần Trọng Kim. Nguồn: Trung Bắc Chủ Nhật, 20/5/1945) Từ trái sang phải: Hoàng Xuân Hãn, Hồ Tá Khanh, Trịnh Đình Thảo, Trần Trọng Kim (sau micro), Vũ Ngọc Anh, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Vũ Văn Hiền, Phan Anh, Nguyễn Hữu Thi.

Nội các Trần Trọng Kim. Nguồn: Trung Bắc Chủ Nhật, 20/5/1945)
Từ trái sang phải: Hoàng Xuân Hãn, Hồ Tá Khanh, Trịnh Đình Thảo, Trần Trọng Kim (sau micro), Vũ Ngọc Anh, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Vũ Văn Hiền, Phan Anh, Nguyễn Hữu Thi.

Khi Trần Trọng Kim vào trình danh sách thành phần chính phủ. Bảo Đại xem xong đồng ý. Tiện đó có ông Yokohama cũng xin xem có những ai. Sau đó còn đề nghị ông Trần Văn Chương vào chức Nội các Phó Tổng trưởng đề phòng để có người thay thế.

Cũng theo ông Trần Trọng Kim, thành phần nội các do chính ông chỉ định và người Nhật không can thiệp vào.

Kể từ khi thành lập xong nội các, phải nhìn nhận cả Bảo Đại lẫn chính phủ Trần Trọng Kim đều có thiện chí và những nỗ lực để thông nhất ba kỳ, yêu cầu Người Nhật trả Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Khi trả Bắc Kỳ, chính phủ Trần Trọng Kim đã sắp đặt ông Phan Kế Toại làm Bắc Bộ Khâm Sai. Trần Trọng Kim viết:

“Việc thu cả ba kỳ về quyền Trung Ương để thống nhất đất nước như khi chưa bị sự bảo hộ của nước Pháp là việc rất trọng yếu của chính phủ tôi. Trong sự điều đình với người Nhật để thu lại lãnh thổ nước Việt Nam gặp nhiều sự khó khăn. Trước hết, người Nhật bằng lòng trả trả đất Bắc Bộ cho chính phủ Việt Nam, song những đất thuộc ba thành: Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng và Nam Bộ là đất Vua Việt Nam ngày trước đã ký kết cho nước Pháp thì người Nhật đòi tạm giữ đến khi nước Việt Nam hoàn toàn độc lập trả sau.”
( Trần Trọng Kim, ibid., trang 19)

Cũng vì thế trong chuyến ra Hà Nội thương thuyết với Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim đã đòi lại được toàn lãnh thổ nước Việt Nam, thu hết các công sỏ thuộc Phủ Toàn quyền Pháp, lấy hết được các binh sĩ Việt Nam để tổ chức quân đội Bảo An. Cũng đòi Nhật cung cấp 2000 vũ khí, đạn dược. Sau đó cho gọi Đai Úy Thu làm chương trình cải tổ các đội Bảo An.

Có hai yếu tố để cắt nghĩa sự thành công và thất bại của chính phủ Trần Trọng Kim. Thứ nhất, người Nhật biếp sắp thua nên trao trả ;ại cho Việt Nam. Thứ Hai khoảng thời gian là quá ngắn không đủ cho chính phủ Trần Trọng Kim có thể làm được gì.

Tuy nhiên, chương trình cải tổ giáo dục của Hoàng Xuân Hãn cũng như như việc xử dụng chữ Quốc Ngữ vẫn có một ảnh hưởng lâu dài trong ngành giáo dục sau này.

Nhưng sự thú nhận sau đây của Trần Trọng Kim, dù chỉ trong vài dòng của một người hiền cho thấy người Việt đã kém cỏi mà cũng khó mà đoàn kết với nhau được. Thứ nhất có truyện tranh công nhỏ nhoi của Trần Văn Chương mà thấy không cần nói ra đây làm buồn lòng Trần Trọng Kim. Tình hình dù chưa ngã ngũ ra sao, ông Trần Trọng kim đã rắp tâm từ chức. Đó là một tai hại mà hậu quả nay chưa ai có thể lượng giá đúng mức được. Nhiều người tiếc nuối giá mà Ngô Đình Diệm làm thủ tướng thì sao? Làm sao có thể đặt ra một giả định không xảy ra trong lịch sử.

Và ông Trần Trọng Kim tự bạch:

“Sự tôi thôi thì tôi đã dự định rồi, nhưng để lấy lại đát Nam Bộ cho trọn công việc của mình, tôi thôi ngay.

Tôi thấy việc đi Nam có nhiều sự cản trở, trong Nội Các không có hòa khí như lúc đầu, và có lắm chuyện nhỏ mọn không muốn nói ra, làm tôi mất cả lòng hăng hái làm việc, thành ra đến ngày mồng 8 tháng tám, tôi vẫn không đi Nam được. Tổng Tư lẹnh Nhạt ở Hà Nọi vào Sài Gòn không thấy tôi điện ra dục. Tôi điện vào xin cứ cho lấy lại Nam Bộ, tôi không phải vào Nam nữa..

Được tin người Nhật ưng thuận, và lúc ấy có ông Nguyễn Văn Sâm lãnh tụ đảng Quang xã vừa ở Sài Gòn ra Huế. Tôi vào tâu vua Bảo Đại, xin cử ông Sâm làm Nam Bộ Khâm Sai. Nagy 14 tháng tháng tám năm 1945, ông Sâm được sắc chỉbổ vào Nam. (..)

Việc lấy lại được đất Nam Bộ xong, tôi vào tâu vua Bảo Đại, xin cho tôi từ chức. Ngài nói:
Ông đang làm được việc, sao lại xin thôi, vì ongo thôi lấy ai thay.

Tôi tâu trình lên mấy người, ngài tỏ vẻ không thuận, bảo:
Các ông hãy tạm làm việc, chờ đến khi tìm được người ra lập nội các hãy thôi.

Lúc ấy tôi như cất được gánh nặng, nhưng tìm ai thay? Tôi nghĩ nên tìm những người như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Đặng Thái Mai v.v. đã có tiếng hoạt động về chính trị để vào lập nội các mới. Tôi điện đi các nơi mời những người ấy vào Huế. (…) Tôi cũng nhờ ông Phan Anh Vắc và ông Hồ Tái Khanh vào Nam. Nhưng cả hai ông trên đường đi bắt giữ lại..”
(Trần Trọng Kim, ibid., trang 28)

Sau vụ từ chức của Trần Trọng Kim, con thuyền chính trị Việt Nam quốc gia hẳn là sẽ chìm. Dân chúng nói chung cảm thấy hân hoan vui mừng khi hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki vào 6 à 9 tháng 8, 1945. Dân chúng khắp nơi bầy tỏ niềm hy vọng hoàn toàn độc lập.

(Còn tiếp)


Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

28 Tháng Tám 2015(Xem: 17857)
Liệu Đế quốc Trung Cộng có "may mắn" thoát được số phận tan vỡ ra từng mảnh hay không và phe nào sẽ thắng thế trong cuộc tranh chấp quyền lực đẩm máu ?
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43244)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
27 Tháng Hai 2015(Xem: 19642)
Luận đề của "Đoạn Trường Tân Thanh" hiển nhiên là thuyết "tài mệnh tương đố"", gọi nôm na là "hồng nhan bạc mệnh".
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 27201)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22238)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29813)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 38243)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 36952)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 30958)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 21943)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 39139)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16345)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39928)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 14160)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50715)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 29069)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31567)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 91036)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 70559)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 96287)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 103474)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 139866)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 154255)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 120925)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 159896)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 149166)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 165172)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 158009)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160427)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 168962)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 164366)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27720)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42802)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 44066)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39437)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 30135)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 43303)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87368)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 97556)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67341)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93336)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32668)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 78097)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74573)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39368)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39781)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47220)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46356)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 146997)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23426)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.