Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Tập san Sử Địa hai miền (phần 1)

15 Tháng Chín 20161:06 CH(Xem: 17837)
GS. Nguyễn Văn Lục - Tập san Sử Địa hai miền (phần 1)
Tập san Sử Địa hai miền (phần 1)

Giới thiệu và nhận xét về Tập san Sử Địa của hai miền Nam Bắc

Sự hình thành Tập San Sử Địa miền Nam

Sau biến cố chính trị lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhiều sinh hoạt của giới sinh viên bắt đầu xuất hiện. Các sinh hoạt chính trị, xã hội, văn hóa thời ấy như rộ lên. Thêm nhiều báo chí ra đờ. Có khi lên đến hơn 40 tờ. Giới sinh viên lúc đó như nhận thức rõ về vai trò của họ, thấy được sức mạnh của họ và của đám đông. Họ tự tin hơn, nhân cách của từng cá nhân được xác định rõ nét hơn. Nhiều tổ chức chính tri, văn hóa cũng như xã hội của giới sinh viên ra đời mà chính họ là người nắm giữ các vai trò then chốt. Họ biểu tình, xuống đường, hoan hô đả đảo như cơm bữa. Mỗi phân khoa đại học đều có báo riêng do sinh viên chủ trương ào ạt ra mắt như các tờ Văn Khoa, Tin Tưởng, Vùng Lên, Hồn Trẻ, Bừng Sáng, Lửa Thiêng... Trong đó không thiếu những tờ lấp ló tinh thần thiên tả.

Có thể nói sinh viên thời đó trưởng thành trong không khí đấu tranh. Họ chấp nhận phiêu lưu, mạo hiểm và sẵn sàng dấn thân. Chẳng hạn cuộc biểu tình của sinh viên nhằm xé bỏ Hiến Chương Vũng Tàu, lật đổ tướng Nguyễn Khánh vào tháng 08/1964.
blank

Nguyễn Nhã, Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút TSSĐ
Nguồn Ảnh: Lam Điền


 

 

Nhiều khuôn mặt sinh viên xuất hiện như một thứ lãnh tụ như Phạm đình Vy, Lê Hữu Bôi (bị cộng sản sát hại dịp Tết Mậu Thân ở Huế), Nguyễn Trọng Nho,Nguyễn Long, đoàn Văn Toại, v.v... Các phong trào sinh viên như Du Ca, các chương trình như CPS Học đường Mới, Chương Trình Phát Triển Quận 8, các chương trình nghiên cứu về nhiều phương diện cá biệt như nhóm Speaking English Club, Nhóm Vạn Vật, Nhóm Việt Hán, Nhóm Toán v.v... của đại học Sư Phạm lần lượt ra đời. Nhóm Sử Địa do ông Nguyễn Nhã thành lập xuất hiện trong bối cảnh chính trị xã hội đó. Nghiêm chỉnh và có tầm vóc của một tập san nghiên cứu có chiều sâu.

Nhưng để có thể in thành sách đàng hoàng, theo ông Nguyễn Nhã là nhờ sự tài trợ chi phí ấn loát của ông giám đốc nhà sách Khai Trí, tức là ông Nguyễn Văn Trương. Sau 1975, cộng sản chiếm nhà sách Khai Trí, tịch thu các kho sách của ông Trương và đặt tên ông trên một con đường nhỏ. Không có ông Khai Trí, TậpSan Sử Địa (TSSĐ) khó có cơ hội được xuất bản đều đặn, lâu dài. Ngoài ra, còncó sự chấp thuận và giúp đỡ của Khoa trưởng đại học Sư Phạm (ĐHSP) Sài gòn thời đó là giáo sư Trần Văn Tấn. Gs Tấn đã cho Tập san Sử Địa mượn một phòng của trường ĐHSP làm văn phòng.

Cũng theo lời ông Nguyễn Nhã, lúc khởi đầu, ông có mời giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ làm chủ bút. Ông Tôn Thất Dương Kỵ đã nhận lời. Nhưng đt lâu sau ông Kỵ bị chính quyền Sài Gòn trục xuất ra Bắc. Cuối cùng, ông Nguyễn Nhã đành kiêm nhiệm chức chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ TSSĐ.

Sự kiện ông Tôn Thất Dương Kỵ được mời làm chủ bút cùng với những tên tuổi khác như Hoàng Xuân Hãn, Sơn Nam, Trương Bá Cần, Đông Tùng, chúng ta có thể nhận thấy xu hướng nghiêng một cách kín đáo về phía cộng sản của nhómnày. điều này được ông Chủ nhiệm Nguyễn Nhã thừa nhận sau 1975 trong một cuộc phỏng vấn.

Vào ngày 27/02/1966, Tập San Sử Địa số 1 ra đời. đây là tam cá nguyệt san, ba tháng ra một kỳ và cho đến 1975, có được 29 số báo trong đó có nhiều số có chủ đề như Chiến thắng đống đa, số 1, về Phan Thanh Giản, số 7, đặc khảo về Quang Trung số 9 và số 10, số đặc biệt về Nguyễn Trung Trực, số 12, 200 năm phong trào Tây Sơn, số 21.

Ngoài ra còn có các số đặc biệt về phong tục Tết Việt Nam và các lân bang, số 5, hai số đặc biệt chủ đề về cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, tập 19-20, tháng 12, 1970 đặt ra nhiều vấn đề như khẩn hoang (Sơn Nam), Di tích Chiêm Thành (Trần Nhân Tâm), Những người Việt tiền phong trên bước đường Nam Tiến (Lê Hương), Thư tịch về cuộc Nam Tiến (Trần Anh Tuấn), Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long, chặng cuối cùng của cuộc Nam tiến (Nguyễn Văn Hầu), Lịch sử cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam (Phù Lang Trương Bá Pháy), Vài nét về văn học nghệ thuật Việt Nam trên đường Nam tiến (Nguyễn Văn Xuân). Số chót 29, tháng 3-1975, trước khi miền Nam bị mất, một số báo rất quan trọng cho ngàynay. đó là đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa với rất nhiều chứng liệu như: Phúc trình về công tác nghiên cứu phốt phát lần cuối cùng của Trần Hữu Châu.

Phúc trình về cuộc thám sát hòn Nam Ý vào năm 1973 của Trịnh Tuấn Anh. Thái Văn Kiểm với những sử liệu Tây Phương về chủ quyền Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa. Những sử liệu chữ Hán minh chứng chủ quyền của Việt Nam của Hãn Nguyên. Hoàng Sa dưới mắt nhà địa chất H. Fontaine (tên tiếng Việt là Lm. Phòng), Hoàng Sa qua tài liệu của Hội truyền giáo Ba Lê của Nguyễn Nhã. Các văn kiện chính thức xác nhận chủ quyền Việt Nam từ thời Pháp thuộc, Ông bà Trần đăng đại. Hoàng Sa qua những nhân chứng của Trần Thế Đức.

Các số chủ đề này không dễ thực hiện, nhiều khi đó là công trình nghiên cứu của cả một đời người, đòi hỏi nhiều nhân lực và thì giờ. Vì thế, ba tháng TSSĐ miền Nam mới ra được một số. Nhưng phần phẩm chất phong phú và trung thực quan trọng cho mỗi số báo, nhóm TSSĐ miền Nam đã giữ được và là một côngtrình văn hoá xứng đáng để lại cho đời sau. Tập san Sử Địa miền Nam đã có một cố gắng và một nỗ lực không ngưng nghỉ để tồn tại cho đến 1975.

Các tác giả cộng tác với TSSĐ Miền Nam

Ban biên tập: TSSĐ đã mời được một số trí thức miền Nam nằm trong Ban biên tập như các ông Nguyễn Thế Anh, Bửu Cầm, Phan Khoang, Lâm Thanh Liêm, Phạm Cao Dương, Phù Lang, Đặng Phương Nghi, Quách Thanh Tâm, Tạ Chí Đại Trường, Thái Công Tụng, Nguyễn Huy, Trần Anh Tuấn.

Ngoài ra còn có sự hiện diện của một số sinh viên ban Sử, có tên, nhưng không thấy có bài viết như Nguyễn Thị Bi, Nguyễn Nhựt Tốn, Phạm Thị Hồng Liên,Nguyễn Ngọc Trác, Trần Đình Thọ, Nguyễn Hữu Phước, Phạm Thị Kim Cúc, Phạm Đức Lệ.

Đặc biệt TSSĐ còn mời được một số đông những nhà biên khảo như Hoàng Xuân Hãn, Lm. Nguyễn Phương, Chen Chin Hô tức Trần Kình Hòa, Tạ Trọng Hiệp (Riêng Tạ Trọng Hiệp không thấy có bài viết nào cả), Nguyễn Đăng Thục, Phạm Văn Diêu, Bửu Kế, Đông Hồ, Hồ Hữu Tường, Trương Bửu Lâm, Sơn Nam, Vương Hồng Sển,?ông Tùng, Nguyễn Bạt Tụy, Nguyễn Khắc Kham, Lê Thọ Xuân, Thái Văn Kiểm, Bửu Kế, Phạm Đình Tiếu, Phạm Quý Trâm, Bùi Quang Tung, Lê Thọ Xuân, Tô Nam, Hồ Hữu Tường, Vương Hồng Sển, Nguyễn Đức Tánh, Nguyễn Hài, Dorohiem, Phạm Trọng Nhân, Châu Giang Lữ, Nguyễn Văn Nghiêm, Đỗ Văn Tú, Nguyễn Trắc Dĩ, Băng Sơn, Đông Hồ, Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Đình Tân, Thái Việt Điểu, Quách Thanh Tâm, Trương Bá Cần, Lãng Hồ, Trần Quốc Giám, Lê Văn Ngôn, Mai Chương Đức, Mộng Tuyết, Mai Sơn, Tạ Quang Phát, Quách Tấn, ông bà Trần Đăng Đại, Mai Chưởng Đức, Nguyễn Kiến, Nguyễn Huy, Lê Đức, Lý Văn Hùng, Lê Hương, Cẩm Hà, Tùng Văn, ĐìnhThụ, Hoàng Văn Hòe, Nhất Thanh, Đặng Văn Châu, Bàng Thống, Dã LanNguyễn đ??c Dụ, Nguyễn Văn Hầu, đặng Văn Châu, Trần Anh Tuấn, Hãn Nguyên, Lê Hương, Lê Hữu Lễ, Trân Nhâm Dân, Lê Hữu Lễ, Nguyễn Ngọc Cư, Hoàng Ngọc Thành, Lý Văn Hùng, Thúy Sơn, Nguyễn Văn Y, Nguyễn Kim Môn,Võ Đình Ngọ, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Nhân Bằng, Nguyễn Hữu Đỉnh, Nguyễn Hữu Tài, Phạm Văn Lộc, Võ Đình Ngộ, Nguyễn Văn Vân, Vũ Văn Tiếp, Nguyễn Quang Tô, Hồng Liên, Lê Xuân Giáo, Trương Ngọc Phú, Nguyễn Hùng Cường, Ứng Nhạc, Vũ Văn Đính, Lê Hữu Mục, Trần Thế Đức, Hoàng Việt Tử, Trần Huy Phong, Trần Thế Đức, Võ Long Tê, Lam Giang, Trịnh Tuấn Anh, Sơn Hồng Đức.

Với tên tuổi các tác giả như Hoàng Xuân Hãn, Bùi Quang Tung, Vương Hồng Sển, Nguyễn Thế Anh, Chen Chin Hô tức Trần Kình Hòa, Nguyễn Khắc Kham, Phạm Đình Tiếu, Bửu Kế, Nguyễn Đăng Thục, Hồ Hữu Tường v.v... TSSĐ miền Nam đã có một vị thế văn học không thể không nhìn nhận. Bên cạnh đó, còn có sự xuất hiện của những nhà viết sử trẻ hơn như Trương Bá Cần, Đặng Phương Nghi, Tạ Chí Đại Trường, Dorohiem đã làm cho TSSĐ phong phú thêm, đa dạng thêm.

Trong số các cộng tác viên, ông Hoàng Xuân Hãn viết đều hơn cả. Gần như không có số nào mà không có bài của ông, đa dạng và uyên bác trong công việc truy tìm tài liệu. Chen Chin Hô tức Trần Kình Hòa thông thạo Hán văn nên ông đọc tận nguyên bản tài liệu gốc Trung Hoa. Tinh thần nghiên cứu sử của ông Trần Kình Hòa nghiêm túc, khách quan. Tạ Chí Đại Trường, một nhà sử học mà mỗi bài viết cho thấy nhân cách, cá tính, quan điểm, lập trường của người viết sử.

Đặng Phương Nghi sinh sống ở Pháp nên có điều kiện truy cập tài liệu từ văn khố của Pháp và nhất là dịch thuật những tài liệu của Hội thừa sai Ba Lê. Chẳng hạn dịch những lá thư của các thừa sai gửi về Pháp cho gia đình hay tu hội của họ. đây là những tài liệu vàng ròng giúp tìm hiểu lịch sử, xã hội thời bấy giờ. Nhất là giúp hiểu rõ bản chất thực của Tây Sơn với các trận đánh, đời sống dân tình khốn khổ khi đất nước bị lôi kéo vào vùng lửa đạn.

Đó là những cái nhìn mới khác hẳn các tài liệu sử của Việt Nam trước đây.

Nhưng có một người chuyên viết về sử là Nguyễn Khắc Ngữ tuy có tên trongdanh sách cộng tác viên thì lại không viết một bài nào cho TSSĐ mặc dù trước 1975, ông có xuất bản vài tác phẩm như Minh Trị Thiên Hoàng (1967), Nguyên nhân Pháp chiếm Việt Nam (1968). Sau này ở hải ngoại, có cơ hội tìm kiếm được tài liệu ngoại quốc, ông có viết và tự xuất bản một số sách như Tây Phương tiếp xúc với Việt Nam, Bồ đào Nha, Tây Ban Nha và Hòa Lan giao tiếp với đại Việt (thế kỷ 16, 17, 18). Liên lạc Việt-Pháp 1775-1820, Nguyễn Vương và Giám mục Adran, Những cuộc hành quân của Pháp ở Nam Kỳ và Trung Kỳ (1968). Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà (1979). Nguồn gốc dân tộc Việt Nam (1985), Kỳ Đồng, nhà Cách Mạng và nhà thơ, Mẫu hệ, Chàm và Phan Bội Châu niên biểu. Rất tiếc, do tài chánh eo hẹp, ông tự in lấy dưới dạng photocopy nên phổ biến giớihạn trong bạn bè nên ít ai biết đến công trình nghiên cứu của ông. Ông Ngữ bị bạo bệnh và chết sớm ở thành phố Montréal, Canada.

Các chủ đề trong TSSĐ miền Nam

Trong lá thư tòa soạn, số 6, tháng 4-6, năm 1967, ông chủ nhiệm Nguyễn Nhã viết:

 

 

Chúng tôi nghĩ con đường tương lai của tập san vẫn là con đường sát với thực tế, làm sao cho Tập san có những bài thực sự đi sâu vào chuyên môn, thực sự giúp ích cho Sử Địa cùng với những bài có trình độ phổ thông, nhưng không quá thấp, thiếu chiều sâu, đồng thời cố gắng khai thác các chủ đề và tiếp tục các sinh hoạt văn hóa có lợi cho đất nước.

Vì thế, với 29 số báo, số 1 có 128 trang, nhưng số 29, đặc khảo về Trường Sa, dầy 352 trang. Có một số chủ đề đặc biệt liên quan đến Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Thanh Giản (1796-1867), 3 số về Quang Trung, chủ đề thành phố Đà Lạt, trong đó có bài viết của Hoàng Xuân Hãn về hội nghị sơ bộ ở Đà Lạt, có số chủ đề về các phong tục Tết của Việt Nam, số chủ đề về Việt Kiều tại Thái Miên, Lào... trong đó chủ đề gây được nhiều tiếng vang nhất có lẽ là các số về nhà Tây Sơn như số 9-10 về “Quang Trung”, số 13 về “Chiến thắng Đống Đa”, số chủ đề “200 năm phong trào Tây Sơn” là những số chủ đề gây được rất nhiều sự chú ý lý thú của người đọc. Tuy nhiên, các chủ đề về Tây Sơn của TSSĐ miền Nam có những hạn chế vì thiếu tài liệu gốc sử Tầu cũng như thiếu những tài liệu của Pháp như của Hội truyền giáo Ba Lê. Những số đặc khảo về Phan Thanh Giản cũng rất đa dạng và phong phú với các bài viết như: Phan Thanh Giản đi sứ ở Paris của Trương Bá Cần, Phan Thanh Giản dưới mắt người Pháp của Nguyễn Thế Anh, Một nghi vấn về Tây Phù Nhật ký của Lãng Hồ, Kinh lược đại thần Phan Thanh Giản với sự chiếm cứ ba tỉnh miền Tây của Phù Lang Trương Bá Phát, Chung quanh cái chết và trách nhiệm của Phan Thanh Giản trước các biến cố của Nam Kỳ cuối thế kỷ 19 của Phạm Văn Sơn, Cuộc đời Phan Thanh Giản của Trần Quốc Gi. Nhơn cuộc du xuân, may gặp kho tàng quý giá về cụ Phan Thanh Giản của Trần Quốc Giám và Thái độ của triều đình Huế đối với Phan Thanh Giản, Bản án của các đại thần nghị xử về việc thất thủ 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, Bức thư Nôm 26-1-1837 của Phụ Thân gửi cho Phan Thanh Giản.

“Nhật ký hành trình của sứ bộ Phan Thanh Giản” thực ra đã được ông Ngô Đình Diệm dịch từ năm 1919 và được đăng trong Bulletin des amis du vieux Huế nay đọc lại bản dịch của ông Trương Bá Cần vẫn thấy hay và thích thú vì gây tò mò không ít về công việc của sứ bộ Phan Thanh Giản cũng như thủ tục ngoại giao thời bấy giờ.

Sau đây là những so sánh, nhận xét một cách khách quan về những bài viết cùng về đề tài Quang Trung và Phan Thanh Giản của TSSĐ miền Nam và Tập sanVăn Sử Địa miền Bắc để chúng ta có thể nhìn thấy sự vượt trội của Tập san Sử Địaxuất bản trong miền Nam:

– TS Văn Sử Địa miền Bắc không có những số chuyên đề: Không đủ người viết. Đề tài hạn hẹp, nghèo nàn. Chỉ có một số đặc biệt về Quang Trung Nguyễn Huệ mà thôi. Các số khác có khi là: Yếu mục. Phần đông thì không để gì cả.

– Miền Nam có sự tự do suy nghĩ, tự do sáng tác: Phải đọc toàn bộ Tập San Văn Sử Địa miền Bắc mới nhận ra được chân giá trị Tập San Sử Địa miền Nam. Cũng như phải sống trong lòng chế độ cộng sản, chúng ta mới thấy được rằng được sống 20 năm ở miền Nam dưới chính quyền tự do của miền Nam là một ân sủng. Cám ơn cơm gạo miền Nam. Cám ơn hai chế độ đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Cả thế hệ tuổi trẻ chúng tôi đã được sống những ngày tương đối hạnh phúc.

Chúng tôi đã được ăn học đàng hoàng, nhất là được sống “vô tư”. Tội nghiệp cho những thế hệ tuổi trẻ sau này không còn được sống vô tư nữa, vì lúc nào cũng có mối lo.

Những vụ tranh đấu, biểu tình, xuống đường, ngay cả tự thiêu trong vụ tranh đấu Phật giáo chỉ là những trò chơi dân chủ, chỉ có thể xảy ra trong một thể chế dân chủ. Ở miền Nam không có độc tài đúng nghĩa, mà chỉ có dân chủ giới hạn trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, một nền dân chủ đã có tuy chưa hoàn chỉnh. Viết ra điều này như một thách thức những ai còn vọng ngữ, chê trách miền Nam Việt Nam trước 1975. Vì thế, vụ “tranh đấu” Phật giáo 1963 mà trước đây, một số người vẫn tự hào là “lật đổ chế độ độc tài gia đình trị nhà Ngô” nay không còn ý nghĩa như trước nữa. Tên tuổi thượng tọa Trí Quang mà “có” là vì ông sống trong chế độ tự do của miền Nam và đã trở thành “không” trong thể chế độc tài CS. Suốt hơn 33 năm qua, ông Trí Quang không dám nói một lời. Nhưng cũng phải nhìn nhận, ông còn đủ khí tiết để không a dua, xu nịnh.

Ngay cả Phan Huy Lê (1), Chủ tịch hội Khoa Học Lịch sử Việt Nam đã nhận xét về tập san Sử Địa miền Nam như sau:

Tập san Sử Địa để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc về tinh thần khoa học và ý thức dân tộc là đặc điểm bao trùm của Tập san. Nhiều bài viết trên tập san là những công trình nghiên cứu có giá trị cao, sưu tầm tư liệu công phu, xử lý thông tin khoa học, thái độ khách quan trung thực và nhất là góp phần dấy lên tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và nêu cao giá trị văn hóa dân tộc. (Hà Nội, Xuân đinh Hợi, 2007)



Nhận xét này chính xác, nhưng chưa đầy đủ. Ít ra, sau hơn 33 năm mới có một nhà phê bình miền Bắc có cái nhìn tích cực về văn học miền Nam. Nhưng cần bổ túc thêm ý kiến của ông Phan Huy Lê. Phải viết thêm là ở miền Nam có sự tự do suy nghĩ, tự do sáng tác. Nhờ đó đã tạo ra được một thứ Văn học đa dạng, mang dấu vết cá nhân vào mỗi tác phẩm, mỗi bài viết, mỗi bài khảo luận. Như ý kiến của Philippe Le Failler, thuộc trường Viễn đông Bác cổ Pháp, người có trách nhiệm thực hiện chương trình và dự án VALEASE, một công trình có tham vọng sẽ điện toán hoá những tác phẩm văn hoá cần thiết cho việc nghiên cứu chung về văn hoá Việt Nam. Chương trình này đã thực hiện được ba tập san: Bulletin des amis du vieux Hue gồm 123 tập với 16000 trang in báo, Tập san Sử Địa miền Bắc và mới đây nhất, Tập san Sử Địa miền Nam được thu gọn vào trong 3 cái CD. Philippe Le Failler viết một câu rất đẹp: “Những tạp chí định kỳ tìm lại được tuổi thanh xuân. Tất nhiên, khó tránh được những ảnh hưởng về chính trị khi mà ở miền Bắc các Viện Nghiên cứu là của nhà nước và (họ) là người nắm giữ những công trình nghiên cứu lịch sử trong khi ở miền Nam, những ý tưởng cá nhân luôn thắng thế.”

Ưu điểm của Tập san Sử Địa miền Nam

1. Tính cách đa dạng của các tác giả góp mặt

– Những người có xu hướng thân cộng sản như Hoàng Xuân Hãn, Trương Bá Cần, Đông Tùng, Sơn Nam và có thể cả ông chủ nhiệm Nguyễn Nhã.

– Những người được đào tạo ở ngoại quốc như Hoàng Xuân Hãn, Quách Thanh Tâm, Trương Bửu Lâm, Tạ Trọng Hiệp, Lâm Thanh Liêm, Trương Bá Cần, Nguyễn Thế Anh, Chen Chin Ho tức Trần Kình Hòa, Bùi Quang Tung, Nguyễn Khắc Kham, Đặng Phương Nghi, Hoàng Ngọc Thành,...

– Những vị thuộc thế hệ tiền bối, nhiều vị học giả tuy không có bằng cấp nhưng lại là thầy của các tác giả thế hệ đàn em, tốt nghiệp các trường đại học Văn Khoa hoặc đại Học Sư Phạm. Như Vương Hồng Sển, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Bạt Tụy, Bửu Cầm, Phan Khoang, Hồ Hữu Tường, Đông Hồ, Bửu Kế, Quách Tấn, Nguyễn Toại, Nguyễn Ngọc Cư, Trần Văn Tuyên, Bình Nguyên Lộc.


– Đa số còn lại là giới nhà giáo, trí thức trẻ như Phạm Văn Sơn (Trung Tá), Phạm Cao Dương, Phù Lang Trương Bá Phát, Tạ Chí đại Trường, Nguyễn Huy.

2. Tính cách cá nhân của mỗi bài viết

Không ai trong số những tác giả có tên trong TSSĐ miền Nam bị bắt buộc phải viết về điều gì. điều này nói ra có vẻ là thừa. Nhưng nếu so với giới cầm bút khốn khổ ở ngoài Bắc thì lại vô cùng quan trọng. Vì “thành tích cách mạng” quan trọng hơn văn tài hay sở học. Sau 1954, Trương Tửu viết phê bình văn học theo hướng Mác Xít vẫn bị trù dập. Đào Anh viết sử theo phương pháp duy vật biện chứng sử quan cũng không yên. Trần Đức Thảo cũng vậy.

Chẳng hạn TSSĐ miền Nam số đặc biệt về Phan Thanh Giản, có nhiều bài viết khác nhau, nhìn từ những góc độ khác nhau cuả nhiều tác giả như Trương Bá Cần viết về việc Phan Thanh Giản đi sứ ở Paris (tháng 10/11/1863) với rất nhiều chi tiết đáng đọc. Nguyễn Thế Anh trình bày Phan Thanh Giản dưới mắt người Pháp. Phù Lang Trương Bá Phát nói về việc chiếm cứ ba tỉnh miền Tây bởi quân đội Pháp. Phạm Văn Sơn nói về trách nhiệm và chung quanh cái chết của cụ Phan. Trần Quốc Giám nói về cuộc đời Phan Thanh Giản. Lê Văn Ngôn nói về việc tìm ra những di tích kho tàng của cụ Phan Thanh Giản. T.Q.G nói về thái độ của triều đình Huế đối với Phan Thanh Giản. Tô Nam dịch bản án của các đại thần nghị xử về Phan Thanh Giản. Mai Sơn sưu tập bài văn bia của cụ Phan Thanh Giản. Bức thư của phụ thân của cụ Phan Thanh Giản gửi cho cụ 26/01/1837. Một chuyên đề như thế là khá đầy đủ và đã trình bày được sự mâu thuẫn, tranh chấp, hiểu nhầm về đường lối không thể khác đối với việc người Pháp sang cai trị ở Việt Nam.

Nhưng toàn thể tập san Văn Sử Địa miền Bắc chỉ có một bài về Phan Thanh Giản của Hồng Hạnh (tháng 11, 1956) kết tội “Phan Thanh Giản chỉ là tiếng thở dài của chủ nghĩa đầu hàng.”

3. Tôn trọng sự thật lịch sử

Chúng ta có thể nhận thấy trong ý hướng hay trong tư tưởng của mỗi tác giảtrong TSSĐ miền Nam sự cố gắng tối đa để sự thật lịch sử được tôn trọng. Có thể có những hạn chế vì thiếu thốn tài liệu, có thể những tài liệu xưa chưa hoàn chỉnh hoặc sai sót. Nhưng, TSSĐ miền Nam đã cố gắng trình bày dưới nhiều góc cạnh, nhiều phương diện, nhiều khuynh hướng để có thể đạt tới được một sự thật tương đối, tránh lối viết cực đoan, một chiều.

Đó là ưu điểm của TSSĐ miền Nam. Nhiều tác giả giữ được sự liêm khiết, coi trọng nhân cách chính mình, tôn trọng sự chính xác khoa học của tài liệu, của sự kiện, đã diễn đạt một cách khách quan được sự thật lịch sử. Thêm vào đó, họ đã tránh phê phán lịch sử một cách hạn hẹp, bất công chỉ dựa trên chủ nghĩa giáođiều. điều đó có thể chứng minh được qua số chủ đề về Phan Thanh Giản.

Ngược lại, đọc TS Văn Sử Địa (TSVSD) miền Bắc, từ số đầu đến số cuối chỉ thấy thất sự hiện diện của chủ nghiã Mác Xít. đảng cộng sản đã dùng chủ nghĩa Mác Xít giáo điều để cắt nghĩa, lý giải các sự kiện lịch sử cũng như văn học khiến cho TSVSD miền Bắc là một sự thất bại hoàn toàn về việc ghi nhận sự thật lịch sử. Vì chịu ảnh hưởng nặng nề chủ nghĩa Mác Xít của Liên Xô. Trong bầu khí khép kín với thế giới bên ngoài, những người như các ông Trần Huy Liệu, Trần Thanh Mại, Văn Tân tin tưởng vào tính cách khoa học của chủ nghĩa Mác Xít đến độ mù quáng. Nhìn lại các bài viết của các tác giả này cách đây trên 60 năm, sự ngây ngô khờ khạo, tính cách ấu trĩ non nớt trong lập luận, sự hẹp hòi thiển cận trong diễn giải, sự độc đoán, độc tôn cố chấp đối với những quan điểm khác họ phơi bày trên từng giòng chữ. Họ làm văn học và lịch sử với tác phong dạy đời “hư bố chó xồm” của một đảng viên cộng sản đang thắng thế, lúc nào cũng răn đe cảnh cáo, sẵn sàng trù dập, bất công đối với những người có quan điểm khác họ. Kết quả là rất nhiều “nạn nhân” lại chính là những tác giả đã có mặt ngay trong danh sách cộng tác với TSVSĐ miền Bắc ngay từ đầu như các ông Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Phan Khôi và các nhà văn trong nhóm NVGP. Chưa kể đến người thời trước như Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký, Tự Lực Văn đoàn.

Nằm trong danh sách “nạn nhân” của TSSĐ miền Bắc có cả các vua chúa triều Nguyễn. Nhưng những nhân vật được họ vinh danh như Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng là “nạn nhân” vì đã được khen không đúng. Những “nạn nhân bất đắc dĩ” của họ gồm cả những nhân vật thần thoại, không có thật như Thằng Bờm, Chú Cuội.

Nói cho cùng, ngày nay, ngay cả những tên tuổi như Trần Huy Liệu, Văn Tân, Trần Thanh Mại, Nguyễn Đổng Chi, Minh Tranh cũng đã trở thành nạn nhân của chính những bài viết của họ. Chính một chuyên viên nghiên cứu sử, ông Nguyễn Đổng Chi than ông chẳng đọc được gì hữu ích trong những bài viết đó.

 

(còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline
28 Tháng Tám 2015(Xem: 17864)
Liệu Đế quốc Trung Cộng có "may mắn" thoát được số phận tan vỡ ra từng mảnh hay không và phe nào sẽ thắng thế trong cuộc tranh chấp quyền lực đẩm máu ?
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43249)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
27 Tháng Hai 2015(Xem: 19644)
Luận đề của "Đoạn Trường Tân Thanh" hiển nhiên là thuyết "tài mệnh tương đố"", gọi nôm na là "hồng nhan bạc mệnh".
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 27213)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22240)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29819)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 38246)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 36964)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 30966)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 21951)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 39144)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16347)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39935)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 14161)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50718)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 29071)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31571)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 91036)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 70570)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 96305)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 103477)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 139874)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 154259)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 120931)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 159897)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 149172)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 165173)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 158012)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160436)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 168970)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 164372)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27723)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42806)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 44067)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39438)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 30148)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 43308)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87370)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 97569)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67343)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93342)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32676)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 78100)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74575)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39374)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39791)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47228)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46358)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 147003)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23426)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.