Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1b - phần 2)

24 Tháng Ba 20164:54 CH(Xem: 15693)
GS. Nguyễn Văn Lục - Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1b - phần 2)

Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1b - phần 2)


Về mặt chính trị

Trong khoảng thời gian bị đô hộ hơn 10 thế kỷ, người Việt chịu sức ép nặng nề nhất có thể không phải là kinh tế, quân sự mà là chính sách đồng hóa của người Tầu như nhận xét ở trên.

Lệ triều cống, theo tôi nghĩ, nó chỉ cốt để chứng tỏ một thứ uy quyền tối thượng, một sự thần phục của một nước nhỏ đối với một nước lớn.

Cho dù thua hay thắng Tầu thì lệ triều cống không bao giờ bỏ được. Ngay trong thời kỳ tự chủ thì thể lệ triều cống vẫn cứ ba năm một lần.

Chẳng hạn, dưới thời nhà Nguyên, lệ triều cống như sau:

“Mà lệ cống thì phải cho nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán số và thợ thuyền, mỗi hạng ba người cùng với các đồ sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu và các vật lạ. Vua Mông Cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xich (tiếng Mông Cổ là quan Chưởng ấn), để đi lại giám trị các châu quận nước Nam.”(30)

Chính sách đồng hóa của người Tầu xem ra thành công về mặt văn hóa, nhưng lại không thành công về mặt chính trị. Họ cũng khuyến khích các cuộc hôn nhân dị chủng như một cách thức đồng hóa êm dịu nhất.

Nó thể hiện sự khuất phục như một thứ sức mạnh mềm theo như ta hiểu bây giờ. Chính quan lại Việt thấy văn hóa Tầu tốt đẹp, thấy hữu ích mà tuân phục.

Vì thế về văn hóa, phong tục, tín ngưỡng, y phục, sinh hoạt làm ăn, Việt Nam bị ảnh hưởng người Tầu một cách rõ rệt.

Văn hóa tiếp thu lâu dần trở thành văn hóa hội nhập và đồng hóa. Và ngay cả khi ta dành được độc lập tự chủ đi nữa, ta vẫn duy trì nếp sống văn hóa đã được hội nhập. Mặc dầu tình tự yêu nước – chủ nghĩa dân tộc – chủ quyền độc lập về mặt chính trị, ngoại giao vẫn là những đòi hỏi sống còn.

Alexandre De Rhodes một lần nữa tỏ ra có lý khi ông viết:

“Có một điều rất thông dụng đó là sự tôn trọng hán học. Không có người nào cao trí hay thấp kém mà không cho con cái theo học bí mật của chữ tử khi còn nhỏ tuổi, vì thế trong nước này, người nào cũng biết vọc vạch một vài chữ và không ai hoàn toàn mù chữ.”(31)

Chẳng hạn, Nguyễn Trãi vừa là mưu sĩ, người làm cách mạng đem thân phụng sự triều đình, phá giặc vừa là nho sĩ, nhà thơ Đường nổi tiếng.

Thời nhà Đường, thơ văn được thời hưng thịnh với thi luật cân đối, nhịp nhàng vần điệu đã du nhập vào Việt Nam và có mặt trong thi cử cũng như trong xướng họa của các nhà thơ Việt Nam.

Trong tập san Những người bạn cố đô Huế (Association des amis du vieux Huế), thành lập từ năm 1913 do sự đề xuất của linh mục Léopold Cadière,(32) người ta đã thấy có rất nhiều bài biên khảo liên quan đến việc xây dựng cung điện, lăng tẩm theo mẫu thức Trung Hoa được thu nhỏ lại. Các buổi lễ nhạc, các buổi tế lễ đều rập theo người Trung Hoa.

Các đạo Lão, đạo Khổng, đạo Phật – phát triển mạnh đời Đường cũng chính thức được nhìn nhận như một quốc giáo – nhất là đạo Nho mà nội dung các kỳ thi cử nhân, tiến sĩ đều có các môn được sát hạch như kinh lễ, kinh dịch và nhất là kinh Xuân Thu – mặc dầu nó đã được có sự chiết trung, kế thừa,và hòa đồng.

Cả ba đạo ấy được coi như một tam giáo mà thực tế nó chỉ là một thứ tôn giáo du nhập.

Chỉ có miền Nam – vùng đất mới – mới tự sáng lập ra các đạo Cao Đài, Hòa Hảo, phù hợp với tính chất bản địa và tâm tư của người vùng đất mới, và tín đồ đạo Phật ở miền Nam là những người theo Phật giáo Nguyên thủy.

Đây là một điểm son của miền Nam cần được ghi nhận.

Về các mặt khác – nhất là mặt giáo dục, thi cử, ta vẫn rập theo người Tầu một cách thiện ý đến độ Việt Nam là một nước Tầu dù không có người Tầu.

Vào thế kỷ thứ 15, vua Lê Thánh Tôn đã ban hành bộ luật Hồng Đức,tên gọi thông dụng của bộ Quốc triều hình luật, với sự vay mượn tham khảo luật pháp của người Tầu.

Nội dung của bộ luật này đã được Phan Huy Chú ghi chép lại trong phần Hình luật chí của Lịch triều hiến chương loại chí, nhưng thiếu so với cuốn sách này 143 điều trong tổng số 722 điều. Trong số 722 điều của Quốc triều Hình luật thì 200 điều phỏng theo luật nhà Đường, 17 điều phỏng theo luật nhà Minh. Ngoài ra có 178 điều chung đề tài nhưng Quốc triều Hình luật đưa ra một giải pháp khác các triều đại Trung Hoa. Đáng chú ý nhất là có 328 điều không tương ứng với điều luật nào của Tầu.(33)

Các cung miếu, đền thờ, chùa chiền ở Việt Nam hai bên cửa đều luôn luôn có khắc chữ Nho như một diện mạo văn hóa Tầu khó phủ nhận. (Idéo-grammes chinois).

Một người được coi là trí thức ở Việt Nam thì hiển nhiên người ấy phải rành rẽ chữ Hán, thông lầu kinh sử Tàu.

Nói chung, một gia đình Trung Hoa sống thế nào thì một gia đình Việt Nam rập khuôn như vậy. Đó là một mô hình Trung Hoa được sao chép và chiết trung nhỏ lại.

Cái búi tóc củ hành (hay búi tóc chuy kế) của người đàn ông Việt Nam cũng là kiểu búi tóc chung của nhiều tộc người, trong đó có người Chân Lạp, Chiêm Thành(34). Trong quyển “Xứ Đàng Trong năm 1621”, Christophoro Bori viết người Việt “để tóc xõa và rủ xuống vai, có người để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là đẹp.”(35)

Từ đây nảy ra một mâu thuẫn đối kháng khó lý giải – một bên là tình thần dân tộc chống kẻ thù xâm nhập bờ cõi – và xu hướng hòa đồng, du nhập tất cả nền văn hóa, văn minh của kẻ thù phương Bắc.

Cũng về mặt chính trị, triều đình Trung Hoa chỉ có thể mang quân sang xâm lược nước ta khi tình hình chính trị tại chính quốc ổn định. Khi bên Tầu có loạn thì làm sao cất quân sang đánh Việt Nam? Điều đó cắt nghĩa được tại sao từ thế kỷ thứ 10 trở đi, chúng ta nắm giữ được độc lập trong 900 năm? Mặc dầu cũng có đến bảy lần Trung Hoa cất quân sang chinh phạt!

Có phải ta giỏi, ta anh hùng, ta yêu nước, ta có truyền thống giữ nước chăng? Điều đó cũng có, nhưng không phải là những yêu tố cơ bản, khách quan.

Kể từ đời nhà Bắc Tống (1004), có lúc nào nước Tầu được yên ổn?

Đời nhà Tống (960–1279) tương ứng với nhà Tiền Lê (980–1000) ở Việt Nam. Lúc bấy giờ ở phía Bắc nước Tầu có quân Khiết Đan đánh phá, vua nhà Tống phải lo dẹp, nước ta mới yên.(36)

Năm 1004, 20 vạn quân Liêu đánh Bắc Tống. Quân Tống thắng, quân Liêu phải xin nghị hòa.

Sang đến thế kỷ XII, đời Nguyên (1276–1368) Thiết Mộc Chân, sau này được tôn là Thành Cát Tư Hãn – dẹp nhà Tống– đã thống nhất Mông Cổ, đem quân đi chinh phạt Đông–Tây, đi đến đâu làm cỏ tới đó, chinh phục Á–Âu mở rộng đất đai vào năm 1279 là 33 triệu cây số vuông. Đó là đế quốc rộng nhất hoàn cầu.

Quân Mông Cổ mang quân sang đánh nước ta ba lần – lúc đó nhà Lý mất ngôi, nhà Trần lên trị vị. Quân Mông Cổ đã vào đến tận Thăng Long. Nhưng vì không quen thổ nhưỡng nên quân lính mỏi mệt, bệnh tật. Quen chuyện binh đao trăm trận đánh, trăm trận thắng trên vó ngụa và bắn cung tên. Quân Mông Cổ tỏ ra thất thế khi sang Việt Nam, vì ngựa không không có cơ hội xử dụng, cung tên không dùng đến. Quân ta thừa cơ phá Mông Cổ. Mông Cổ thua phải rút về Vân Nam.(37)

Đến đời Minh 1368–1644, người Tầu đã phải vất vả đối phó với các thương nhân, các đội thuyền xâm lược của Bồ Đào Nha và quân cướp biển Nhật, gọi là giặc lùn. Có lần đám giặc này đã đánh thẳng đến Thượng Hải, Tô Châu và đến tận Nam Kinh. Cuối đời Minh, thực dân Hà Lan đã xâm chiếm Đài Loan.(38)

Theo Nguyễn Hiến Lê, hiện nay sử liệu liên quan đến đời Minh lên đến 5 triệu tài liệu được cất giữ ở văn khố gần Bắc Kinh.(39)

Khi nhà Thanh lên trị vị thì có một sự việc ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Đó là trường hợp các di thần nhà Minh đã không chịu quy thuận nhà Thanh. Họ đành rời bỏ nước Tầu lánh nạn sang Việt Nam với chủ trương bài Mãn Thanh. Đám lưu dân này đến lập nghiệp ở miền Nam.

Đó là trường hợp Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch qua nước ta vào năm 1679, quy phục Chúa Nguyễn, lập nghiệp ở Đồng Nai, Cù lao Phố, Biên Hòa. Đến trường hợp Mặc Cửu đến lập nghiệp ở Hà Tiên, lập được một hải cảng như một tiểu quốc dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn. Người ta thường gọi họ là Minh Hương. Làng của Người Minh hương.

Xin trích dẫn một đoạn cho thấy Mặc Cửu đã chạy vào Đàng Trong và đã lập nên sự nghiệp như lời kể lại trong sách của Phan Khoang như sau:

“Sau khi thấy nhà Minh không thể phục hưng được thì Mạc Cửu không chịu cạo tóc, gióc bím theo nhà Thanh, chạy sang cư ngụ ở đất Chân Lạp, làm quan với Chân Lạp. Thấy chính cuộc nước này rối ren mà ở Màng khảm, thuộc tỉnh Ream của Miên, mở sòng bạc để lấy xâu, lại đào được một hầm bạc nên trỏ thành giàu. Mạc Cửu bèn xây một ngôi thành trên bờ biển, mở phố xá rồi chiêu tập lưu dân đến ở các nơi Phú Quốc, Cần Bột, Rạch Giá, Luống Cày, Hương Úc, Cà Mau lập thành 7 xã thôn.”(40)

Sau này, các lưu dân người Minh Hương đã lâp nghiệp tại Cù Lao Phố Biên Hòa và lập nên cả một vùng Chợ Lớn, năm giữ hầu như toàn bộ công việc buôn bán lúa gạo của miền Nam.

Nhiều người sau này ra làm quan triều Nguyễn và có chức phận trong triều đình. Đó là trường hợp Phan Thanh Giản, Bùi Hữu Nghĩa và nhiều người khác.

Đời Mãn Thanh (1644–1911) là dấu hiệu suy thoái trước sức mạnh của các cường quốc Tây Phương. Đến độ Hoàng Đế Đại Quang đã phải than rằng: Có hai chiếc thuyền của bọn giặc Tây cũng không thể đánh lui, nực cười đáng hận làm sao! Vũ trang kém cỏi như thế, chẳng trách bọn ngoại quốc coi thường chúng ta.

Mặc dầu nội tình nước Tầu suy yếu, nhưng cũng đã nhiều phen cất quân sang đánh nước ta nếu có cơ hội và nhất là có lời yêu cầu.

Nói chung hai yếu tố địa lý và chính trị trình bày ở trên là căn bản mà bất cứ ai tìm hiểu về nước Tầu bỏ qua thì sự nghiên cứu của họ sẽ tỏ ra thiếu sót!

Lịch sử của dân tộc Việt Nam cũng có những cuộc chiến chống ngoại xâm nhưng với rất nhiều huyền thoại về yêu nước.

Về điểm này, nhiều khi sử của người Việt Nam trở thành một thứ tuyên truyền rất xa sự thật ngay cả bất chấp sự thật, bất chấp thực tế lịch sử và đẫn đến một thứ sử phi sử.

Các bộ sử của chúng ta – bất kể loại nào – bất kể được viết dưới triều đại nào, cần được tu chính và viết lại để sự thật lịch sử là lịch sử. Ngay cả những cuốn sách sau này như của Trần Trọng Kim, Phạm Văn Sơn và các sử gia miền Nam trước 1975 cũng cần được nhìn lại do thiếu thốn tư liệu nên cũng ít nhiều không tránh được tính chủ quan.

Đấy là tôi thực sự không muốn đề cập đến các sử gia miền Bắc XHCN.

Đứng vững ngàn năm?

Gần đây nhất – tôi lấy như một tỉ dụ cuốn Đứng Vững Ngàn Năm của tác giả Ngô Nhân Dụng(41) – không biết có thể gọi đó là cuốn sách sử hay không? Tác giả theo gót chân sói mòn của các tiền nhân, của các nhà sử học đi trước đã viết một cuốn sách mà theo tôi, nó thiếu hẳn một tri thức luận và nhận thức luận – không tài liệu dẫn chứng theo như thông lệ viết sách.

Phải nói là tác giả đã lập luận khơi khơi, vô bằng và không có cách gì kiểm chứng được những lập luận của tác giả. Tác giả thiếu hẳn một cái nhìn cơ bản dựa trên căn bản địa-chính trị giữa nước ta và nước Tầu như tôi vừa trình bầy ở trên.

Yếu tố quan trọng nhất trong việc tìm hiểu tại sao các chiến thắng của câc vị anh hùng như Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung là cần dựa trên yếu tố địa-chính trị (Géo-Politique).

Trước hết xin nhường chỗ cho Nguyễn Ngọc Bích – một người có tiếng trong làng sách báo người Việt, nhận định về cuốn sách.

Theo ông Nguyễn Ngọc Bích(42), cuốn sách:

“ …cho ta những thông tin mới hay những nhận-định sâu sắc, độc-đáo dựa vào những kết-quả rất đáng kể của ngành sử-học, xã-hội-học, khảo-cổ-học mà ta đã thụ đắc được trong gần 100 năm qua, kể từ quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.

Nhưng khác với quyển sau này, cuốn của ông Kiểng chỉ đi từ những sở-kiến của ông mà hầu như không nhắc đến những nghiên cứu của ai khác. Ngược lại, cuốn Đứng vững ngàn năm thì gần như chỗ nào cũng “nói có sách, mách có chứng,” Ông nêu ra những tìm tòi của Lê Thành Khôi, Pierre Gourou, Vũ Quốc Thúc, Paul Mus, Nguyễn Phúc Long (Les nouvelles Recherches archéologiques au Vietnam) trong tiếng Pháp, của Keith Taylor (The Birth of Vietnam), Nguyễn Quốc Trị trong tiếng Anh, của cả sử-gia Nhật viết về Việt-nam, và nhất là những sử-gia Việt-nam có sách gần đây, như Lê Mạnh Hùng (Nhìn Lại Sử Việt), Tạ Chí Đại Trường (Thần, Người và Đất Việt), Trần Gia Phụng (Việt Sử Đại Cương), Vĩnh Sính, Lê Mạnh Thát. Ông cũng không ngại nhắc đến những sử-gia hay tác-giả đứng đắn ở Hà-nội như Phan Huy Lê (Tìm về Cội nguồn), Trần Quốc Vượng hay Trần Từ (Cơ cấu tổ chức của Làng Việt cổ truyền), Trần Nghĩa, hay những tác- giả cổ hơn nhưng vẫn còn giá-trị (Phan Kế Bính, Lê Dư, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Toan Ánh, Bình Nguyên Lộc…). Tóm lại, đọc Ngô Nhân Dụng, ta có cảm-tưởng được xem một bảng tổng-quan về những tiến-bộ sử-học, xã-hội-học, văn-học, khảo-cổ-học, thậm chí cả kinh-tế-học về Việt-nam, nghĩa là được thấy kiến thức của ta được phong phú hẳn lên.”

Quả thực, phải xin phép ông Nguyễn Ngọc Bích để thưa rằng, tôi phải nói Không. Không đủ mọi thứ.

Ngay trang mở đầu cuốn sách, tác giả Ngô Nhân Dụng đã trích dẫn 4 câu thơ của Thanh Tâm Tuyền – 4 câu thơ nói lên tâm trạng không khuất phục, không quỵ lụy của một trí thức miền Nam trong lao tù cộng sản.

Bốn câu thơ như sau:

Đứng vững không khụyu chân
Trên mảnh đất nghèo khổ
Thở hít tận vô cùng
Ngây say đóa hồng rợ

Vang vang trời vào xuân, Thanh Tâm Tuyền (TTT)

Bốn câu thơ này chỉ có ý nghĩa khi đặt nó vào trong cái ngữ cảnh (contexte) của nhà thơ trong trại tù cộng sản.

Về bài thơ Ngô Nhân Dụng trích ở chương đầu sách, Nguyễn Mạnh Trinh viết,

“Đọc những trang thơ, thấy hiển hiện những sinh hoạt của trại tù. Dù bị trù dập, dù bị đè nén, nhưng vẫn là thái độ rõ ràng, thua trận nhưng không bại hoại tư cách…”(43)

Thật ra, đây là một đoạn trích dẫn từ một dị bản của bài thơ thứ 22, “Vang vang trời vào xuân” trong tập “Thơ ở đâu xa”. Theo bản đầu tiên đã được Thanh Tâm Tuyền xem lại từng bài(44), trước khi đóng thành tập thì đoạn được Ngô Nhân Dụng trích dẫn đúng ra phải là:

Chống cuốc đứng vững chân
Trên mảnh đất khốn khổ
Thở hít đến vô cùng
Mãi mê ngắm hồng rợ”

Từ hình ảnh “chống cuốc đứng vững chân” đến “đứng vững không khụyu chân” đã là một bước khá xa. Vậy mà với hậu ý, ông Ngô Nhân Dụng đã bắt người tù cộng sản TTT đi thêm mấy dặm đường, rồi bẻ quẹo tâm tư nhà thơ trở thành ý thức dân tộc “không khuỵu chân” trước mười thế kỷ thuộc Tầu, rồi in thành sách.

Người ta đồn, ông Ngô Nhân Dụng là một thứ Nhạc Bất Quần. Lời đồn ấy quả không sai qua câu chuyện này.

Phần tôi, cảm thấy tủi cho vong linh nhà thơ TTT, bài thơ ấy trong bối cảnh lao tù hận cộng sản – bài thơ bày tỏ một tâm tư bất khuất – bị khoác cái áo hư ảo, trở thành khí cụ tuyên truyền.

Về cách xử dụng và trích dẫn tài liệu

Được biết là ông Ngô Nhân Dụng, tên thật là Đỗ Quý Toàn, khi tị nạn cộng sản ở nước ngoài đã đi học lại. Và cũng theo những tiết lộ được công khai đăng trên báo, ông đỗ bằng tiến sĩ về kinh tế và còn là giáo sư của bốn trường đại học ở tỉnh bang Québec, hai đại học tiếng Anh là Concordia và McGill, hai đại học và cao đẳng tiếng Pháp là Đại học Université du Québec à Montréal và Royal Military College Saint-Jean(45). Nhưng mới đây cũng có thông tin trái chiều.(46)

Với đẳng cấp và học vị như thế, tôi không thể nào hiểu được ông viết một cuốn sách biên khảo – dẫn chứng mà thật sự không dẫn chứng. Ông chỉ nêu tên cuốn sách, tác giả. Sau đó ông tùy tiện viết mà người đọc đành chịu không biết dòng nào, đoạn nào, tư tưởng nào là của tác giả? Muốn truy cứu thì hoàn toàn bó tay.

Tôi lấy một cuốn sách khác để làm một so sánh nhỏ. Đó là một tác phẩm của sử gia John Prados, “Việt Nam: The history of an Unwinable War, 1945-1975” do University Press của ĐH Kansas ấn hành năm 2009. Cuốn sách dầy 665 trang, trong đó từ trang 551 đến cuối sách là notes. Nghĩa là 114 trang hay hơn 17% cuốn sách dành cho các chú thích.

Người đọc dễ dàng kiểm chứng sự kiện cũng như tham khảo thêm, khi cần. Cuốn sách “Đứng vững ngàn năm”, dầy 447 trang – không có đến một dòng chú thích – ngoại trừ mấy tấm bản đồ và ít trang mục lục.

Chắc là ông Ngô Nhân Dụng có dụng ý gì khi viết và trình bày như thế mà tôi không được biết. Nhưng tôi đặt ra nghi vấn, phải chăng đây là một thứ gian lận? Một thứ mượn tên? Hay một sản phẩm ‘ngụy tạo’ thiếu tinh thần phương pháp luận và cả tri thức luận để che lấp sự nghèo nàn về tài liệu tham khảo – một thứ nói ‘khống’ vô bằng!

Một vài ví dụ về những lý luận theo dân tộc chủ nghĩa trong cuốn “Đứng vững ngàn năm”

Ở Chương 9, Dụng Hạ biến Di, Ngô Nhân Dụng kết luận,

“Và sau đó hơn một ngàn năm thì các người phía Nam Trường Giang không còn phân biệt người Sở, người Ngô, người Mân người Việt nữa. Họ đều hãnh diện tự coi họ là người Trung Quốc. Quá trình Dụng Hạ biến Di đã thành công.”(47)

Theo Ngô Nhân Dụng, như vậy nghĩa là nhà Hán đã đồng hóa được dân phía nam sông Dương Tử nhưng không vào được Việt Nam. Tuy vậy, tác giả hoặc không biết hay không giám đề cập đến cái tự hào về tính “Hoa” “Hạ”, “Trung hạ”, “Trung Châu”, “Trung Quốc” của vua quan Việt Nam.

Một, Alexander Woodside viết,

“In 1805 Gia-Long referred to Vietnam as the “middle kingdom” or trung-quốc. The conventional Chinese term for China thus became, in Vietnamese hand, an abstraction devoid of any one geographic reference.”(48)

“Năm 1805 Gia Long coi Việt Nam là “vương quốc trung tâm” hay “Trung quốc”. Thuật ngữ tiếng Hán thường dùng để chỉ Trung Hoa, vào tay người Việt, đã trở thành một khái niệm trừu tượng không có một liên quan địa lý nào.”

Hai, Toàn thư, Tập IV, trang 135, tờ 14b chép,

“Trước đây Lý giác trốn sang Chiêm Thành nói tình hình hư thực của Trung quốc (1104)”; “Đối với những người hào kiệt Trung quốc, chúng (chỉ nhà Minh) phần nhiều vờ trao cho quan tước rồi đem về an trí ở phương Bắc (1417)”; Tháng 8, năm 1426, vua Lê Thái Tổ ban dụ cho cả nước viết: “Giặc còn ở Trung quốc, dân chúng còn chưa yên”(49)

Bản dịch Việt văn trong nước CHXHCN Việt Nam hiện nay chỉ dịch “Trung quốc” là nước ta, trong nước.

Ba, “Thái úy Đỗ Anh Vũ nhà Lý nói, ‘Để bọn man di quấy Hạ là tội của thần […] nay cấm chỉ thói mọi, chắp tay mà chịu mặc hình; trộm cắp dân ven, mất mật mà theo hàng hóa.”(50)

Và còn rất nhiều thí dụ khác về việc vua quan Việt Nam tự coi mình là người Trung quốc và tự hào về văn minh “Hoa”, “Hạ”.

Tóm lại có phải “Dụng Hạ biến Di” chỉ thành công với “các người phía Nam Trường Giang” như Ngô Nhân Dụng mơ viển vông hay là chiến lược này đã ít nhiều thành công ở cả Việt Nam nữa?

Ở Chương 13, Sức đề kháng của dân Việt, Ngô Nhân Dụng viết, “Nhưng người dân Việt Nam từ thời Hai Bà Trưng cho tới thời Quang Trung vẫn nhất định bảo vệ bộ răng đen, mớ tóc dài, và cái váy.”(51)

Có thật thế không?

(còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

11 Tháng Sáu 20162:22 SA(Xem: 17399)
Năm nay ngày từ phụ. Father's Day đây rồi. Bây giờ con đã biết, Làm cha như thế nào. Nhưng không biết làm sao Đền ơn sâu nghĩa nặng
11 Tháng Sáu 20161:56 SA(Xem: 16190)
Tôi tri ân và hạnh phúc vô cùng với những gì ơn trên và cuộc sống ban tặng cho tôi. Niềm vui của người già được sáng mắt.
11 Tháng Sáu 20161:37 SA(Xem: 10097)
Dòng sông quê hương chứng giám cho thâm tình bè bạn chúng tôi.
11 Tháng Sáu 20161:10 SA(Xem: 18741)
Có một điều tôi nghĩ hoài không rõ Là tình yêu sao cứ phải dở dang? Và cứ phải xa nhau thì mới nhớ Phải giận hờn nước mắt mới miên man?
09 Tháng Sáu 20161:17 CH(Xem: 19035)
Xin giã biệt những ngày xưa tháng cũ Những dại khờ nuôi dưỡng giấc mơ hoa Những bạn bè suốt năm tháng bên ta Những Trường, Lớp, Thầy Cô đầy yêu kính
09 Tháng Sáu 201612:55 CH(Xem: 18165)
Tôi chú trọng nhiều đến cái chủ đích tại sao bà Thụy Khuê lại viết như thế. Một lối viết sử sô vanh và chậm tiến...
04 Tháng Sáu 20165:33 CH(Xem: 17607)
Xin thành kính chia buồn cùng tang quyến, và các bạn Vân, Thưởng, Hạnh.
04 Tháng Sáu 20164:59 CH(Xem: 23115)
Chỉ trong một thời gian rất ngắn ngủi, 2 bài thơ đặc biệt đã được phổ biến rộng rãi đạt kỷ lục trên internet.
03 Tháng Sáu 201612:34 CH(Xem: 34236)
Màu tím là màu của thủy chung Chàng đi đâu đó thiếp theo cùng Mắt em vẫn chìm trong cõi nhớ Nghĩ về sắc tím lại rưng rưng
03 Tháng Sáu 201612:29 CH(Xem: 24544)
Tôi ở đây gom hương nồng quê cũ Gửi về anh xa lăng lắc phương trời Không thể biết với trăm lời nhắn nhủ Gió chở hết dùm hay bỏ rớt rơi?
03 Tháng Sáu 201612:17 CH(Xem: 21213)
Con đường nắng trưa Hè, vàng khép nép Cuối nẻo xa, làn gió thoảng vi vu Không bóng cây, thiếu từng hàng phượng vĩ Chẳng có ve, nên vắng khúc nhạc Hè
02 Tháng Sáu 201612:43 CH(Xem: 23444)
Chiều về con nước lớn Ông và cháu trên sông Chiếc thuyền hơi be bé Nhìn nước trôi mênh mông
02 Tháng Sáu 201612:37 CH(Xem: 19668)
Tay người nhè nhẹ viết từng trang Gom cả trời thu với nắng vàng Xao xuyến hồn ta dòng lệ đẫm Ngậm ngùi luống cỏ khói chiều loang
02 Tháng Sáu 201612:28 CH(Xem: 17967)
Tháng tư, 1956, người Pháp chính thức cuốn cờ và triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam chấm dứt chế độ thực dân Pháp sau ngót một thế kỷ.
28 Tháng Năm 20161:58 SA(Xem: 21940)
Duyên là nhân vật chính nằm xuôi ngược giọng tình si chất ngất Nguyễn Tất Nhiên ở Biên Hoà có cô em Bắc kỳ nho nhỏ “tuổi học trò em làm khổ ai chưa?”
28 Tháng Năm 20161:35 SA(Xem: 25043)
Đã và đang có biết bao người về hay đến từ phương xa thường hay tự hỏi … Cái xứ này có nhiều quyền tự do như thế mà sao dân chúng lại cứ phải tranh đấu cho nhân quyền?
27 Tháng Năm 201610:56 CH(Xem: 26684)
Hãy trả cho em ý nguyện cầu Trả ngày tháng lại với thương đau Cho em về với mùa xuân cũ Như thuở cùng anh gặp buổi đầu.
27 Tháng Năm 201612:53 CH(Xem: 24403)
Sống vui với cả mọi người Sống vui với cả cuộc đời tối tăm Mai nào rủ áo hồng trần Thì thôi cũng vẫn có ngần ấy thôi.
27 Tháng Năm 201612:19 CH(Xem: 23098)
Cầu Hang, Rạch Cát, Cầu Ghềnh Ai về Cầu Cống chút tình qua hỏi thăm Thăm em Cù Lao Phố bấy năm Tiếng chuông Đại Giác, xe lửa qua cầu Ghềnh nhớ chăng?
27 Tháng Năm 201612:09 CH(Xem: 21336)
Con tần ngần trước cửa Mẹ ơi Không thấy Mẹ đâu, Mẹ vắng rồi Bếp lửa không ai khơi lửa ấm Con về con khóc Mẹ không nguôi.
27 Tháng Năm 201611:15 SA(Xem: 18319)
Người phương Tây thì ngược lại thường tỏ ra thiếu sót trong sự trân trọng tôn kính đối với người khác trong cách xưng hô cũng như giao thiệp.
27 Tháng Năm 201610:57 SA(Xem: 20079)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới VỖ VỀ TÌNH TRĂM NĂM - Nhạc: Đào Lê Văn - Hòa Âm: Minh Đạo Ca sĩ: Đăng Hiếu - Thực hiện youtube: Tấn Uyên
27 Tháng Năm 201610:23 SA(Xem: 20134)
Đại dương không xanh ... Luồng cá chạy trốn sao cho khỏi dòng nước độc.? Con cá giãy giụa chết . ... chết giữa lòng đại dương mênh mông.!
26 Tháng Năm 201612:47 CH(Xem: 19790)
Trong tâm thức đọng sương mù Nghe hồn du mục vi vu lần tìm Còn nghe nhịp đập trái tim Cho xin còn chút nắng mềm hạ xưa...
20 Tháng Năm 201611:18 CH(Xem: 21039)
Nhìn mưa Biên Hòa ngậm ngùi nhớ Huế Nhớ bánh su sê xanh mát ngọt mềm Nhớ mứt gừng cay nồng nàn phương nớ Trà sen bây chừ sóng sánh nước Đồng Nai.
20 Tháng Năm 201612:11 CH(Xem: 20115)
Hôm nay đây, ngồi ôm vùng kỷ niệm Của một thời thơ mộng, ngát hương yêu Đã xa rồi, cả một thời nhung nhớ Lòng bâng khuâng: Ngồi đếm giọt tơ sầu....
20 Tháng Năm 201612:07 CH(Xem: 23702)
Cơn mưa chợt đến bất ngờ Ào ào gió cuốn bụi mờ mịt bay Hàng cây ngả ngớn lắc lay Giọt mưa rớt xuống ngập đầy sân em.
20 Tháng Năm 201612:43 SA(Xem: 20406)
Album gồm 22 bài hát của Nhạc sĩ Phạm Chinh Đông với tiếng hát Quỳnh Dao
20 Tháng Năm 201612:16 SA(Xem: 20159)
Cảm ơn ai đã khơi nguồn, Để thơ tuôn chảy đưa buồn lên mây. Cho hồn ta lại tung bay, Trên ngàn cây cỏ chẳng hay muộn phiền.
19 Tháng Năm 201612:50 CH(Xem: 20745)
Áo trắng tinh khôi ngày ngày qua lối nhỏ Hai buổi đi về làm xao xuyến hồn ai Mái tóc buông dài e ấp phủ bờ vai Ánh mắt sáng vô tư rạng ngời tuổi ngọc...
19 Tháng Năm 201612:39 CH(Xem: 19467)
Tiếng Mẹ ơi! Mừng rỡ hay ngậm ngùi Từ đầu cuộc đời hay khi kết thúc Mãi là tiếng kêu từ trong máu thịt Của người con mang ơn Mẹ ngàn thu!
19 Tháng Năm 201612:30 CH(Xem: 18284)
Cái tâm lý thông thường kẻ mạnh, kẻ đi chinh phục thường có thái độ trịch thượng với dân bản địa. Người phương Tây sang nước ta có thể cái tâm trạng cũng không khác bao nhiêu.
13 Tháng Năm 201611:01 CH(Xem: 20037)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới và bấm vào ô vuông ở cuối khung góc phải (Full screen) để mở lớn màn ảnh "Biển Chêt" - Nhạc và Lời: Cáp Anh Tài - Tác giả trình bày Kiều Oanh thực hiện youtube
13 Tháng Năm 201610:56 CH(Xem: 20793)
Và em cũng nhận ra, đó chính là điều kỳ diệu của tình yêu ... Không ai quá nghèo, để không thể cho. Cũng không ai quá giàu, để không thể nhận!
13 Tháng Năm 20165:11 CH(Xem: 21861)
Con tìm được bao nhiêu bài thơ khoe tình con cho mẹ nhưng những bài thơ mẹ nói yêu con thì rất khó tìm con hiểu tại sao rồi có sự lặng im
13 Tháng Năm 20162:36 CH(Xem: 19294)
Tháng năm mắt phượng đỏ hoe Âm vang khúc nhạc sầu ve gợi buồn Mai xa bè bạn thân thương Mùa Thu trở lại cổng trường đợi mong.
13 Tháng Năm 20162:26 CH(Xem: 21422)
Ngọn gió muôn xa đưa đẩy vào Nửa phòng mây rộng một trăng cao. Sáo dìu dặt nổi rừng dương liễu Hương chập chờn bay khóm trúc đào.
13 Tháng Năm 20162:01 CH(Xem: 17752)
Tôi thầm cám ơn cuộc đời. Cám ơn ba mẹ đã cho tôi hiện diện trên thế gian này. Cám ơn những lời giáo huấn của người, đó là hành trang quí báu, tôi mang theo suốt cuộc đời.
13 Tháng Năm 20161:42 CH(Xem: 26263)
Kho vô tận, đất trời ta có sẵn Dưới ngàn sao, trên bờ cát hoang sơ Ta sẽ gối vòng tay ru em ngủ Đời thong dong, chẳng phiền muộn bao giờ.
12 Tháng Năm 20166:24 CH(Xem: 23532)
Chiều nay áo bay dưới phố Khung trời xanh lá me non Mùa xưa còn tôi đứng lại Tóc em thơm nắng Sài Gòn.
12 Tháng Năm 20161:00 CH(Xem: 19333)
Tôi nhớ mùi hương bưởi Biên Hòa Cầu Gành mấy nhịp Phố bắc qua Dòng nước Đồng Nai sâu trong vắt Êm soi dáng núi bóng trăng ngà
12 Tháng Năm 201612:51 CH(Xem: 16979)
Tựa đề bài thứ sáu này của tôi trong chủ đề “Sử Việt nhìn lại” đặt ra một thách thức khá lớn cho người cầm bút:
06 Tháng Năm 201610:36 CH(Xem: 27499)
Dâng hoa "hồng thắm” hương thề, Chúc cho Mẹ được mọi bề an khang. Mẹ quên hết lúc gian nan, Rằng con yêu mẹ Trời ban" phước lành".
06 Tháng Năm 20165:44 CH(Xem: 17022)
Tôi chưa bao giờ thấy mẹ nóng giận một cách quá đáng. Khuôn mặt mẹ lúc nào cũng tươi tắn, hiền hậu. Cho đến bây giờ, mỗi khi nhắc đến mẹ, chúng tôi luôn tỏ lòng thán phục về điểm này.
06 Tháng Năm 20161:20 CH(Xem: 19588)
Mười mấy năm trăn trở Chỉ còn Mẹ hư không Mẹ về đâu không biết Dấu lửa mãi còn đây Quê người xa biền biệt Lòng thương Mẹ thêm đầy.
06 Tháng Năm 201612:51 CH(Xem: 18300)
Giá như thời gian không về đập cửa Thì biệt ly đã không thể nghìn trùng Tháng năm về nắng chang chang dội lửa Nhớ dáng má về trưa vắng ngày xưa.
06 Tháng Năm 201612:32 CH(Xem: 23978)
Con đứng bên đời thương nhớ quá Mười năm áo mẹ đã xa xôi Mẹ là bóng mát cây cao cả Nương tựa cho con có chỗ ngồi.
06 Tháng Năm 201611:42 SA(Xem: 19547)
Bây giờ thì … Mẹ còn đâu nữa? Sáu năm rồi, Mẹ đã xa xôi Tháng Năm về là mùa Lễ Mẹ Lòng con côi, nhớ Mẹ khôn nguôi
06 Tháng Năm 20161:22 SA(Xem: 19439)
Biển đã lên tiếng. Biển đã báo động. Vậy thì việc còn lại là của con người. ''HÃY NHÌN CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TÔI. HÃY CỨU BIỂN VÀ CỨU BẢN THÂN CÁC NGƯỜI"
05 Tháng Năm 201612:49 CH(Xem: 18140)
Vấn đề sử học phải chăng đã có lời giải đáp trong Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ, 1775- Thế kỷ 18.
04 Tháng Năm 201611:26 CH(Xem: 19114)
tháng Tư. đau, người thân yêu, chia nhau cơ khổ. những chia ly. sửng sốt. vội vàng. có những bàn tay. vuột, bàn tay. thế giới bên kia. bỗng là cứu rỗi... nên, người lìa đời. vội vã... dứt. ăn năn.
04 Tháng Năm 201611:24 CH(Xem: 19310)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới và bấm vào ô vuông ở cuối khung góc phải (Full screen) để mở lớn màn ảnh TUỔI THƠ QUA MAU - Thơ Hoàng Anh Vi, nhạc VĩnhĐiện - tiếng hát Hoàng Anh Vi
29 Tháng Tư 201611:30 CH(Xem: 17944)
Tháng TƯ phiên khúc đoạn trường Tháng TƯ thấm nỗi tang thương kiếp người... Tháng TƯ bẻ kiếm bên trời Ngâm câu "Túy ngọa...." buồn tơi tả lòng! Thôi đành ôm hận vời trông Một ngày nắng đẹp non sông thanh bình
29 Tháng Tư 201610:47 CH(Xem: 9020)
Nhưng nếu trao đổi ở một mặt khác, tôi nghi rằng yếu tố chính là trước đây người Việt chưa có chữ viết. Họ còn sống du canh tiêu biểu của nếp sống bộ lạc, chưa hình thành một quốc gia,
29 Tháng Tư 20162:44 CH(Xem: 30541)
Dưới đây sẽ nêu ra những dữ kiện (với nguồn & bằng chứng rõ rệt) liên quan đến sức mạnh thực sự của thế lực gốc Do Thái ảnh hưởng...ới.
29 Tháng Tư 201611:45 SA(Xem: 19450)
Tiệc họp mặt nầy được thực hiện qua sự nhắc nhở của thầy Hiệp vì từ lâu anh em chúng tôi bận sinh kế, gia đình, săn sóc cháu nội ngoại, du lịch etc. nên ít có dịp ngồi lại với nhau!
29 Tháng Tư 201610:12 SA(Xem: 18836)
Bạn bè, trò cũ thân quen, Suối nguồn tươi trẻ và men rượu nồng. Xin trao Em vạn đóa Hồng, Tình Sư, nghĩa Đệ mênh mông đất trời. Quê hương "Xứ Bưởi" tuyệt vời, Ngô Quyền yêu dấu suốt đời không quên.
29 Tháng Tư 20162:08 SA(Xem: 20163)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: NƠI ẤY EM VỀ - Thơ và tiếng hát Hoàng Anh Vi - nhạc Vĩnh Điện
29 Tháng Tư 20161:44 SA(Xem: 25565)
Tuổi hai mươi áo lụa vàng phấp phới Thảnh thơi bay những cánh bướm ân cần Tôi sẽ tìm muôn vạn những mùa xuân Trong mùa hạ đang nồng nàn rực rỡ
29 Tháng Tư 20161:38 SA(Xem: 17939)
Chúng mình gặp nhau tháng tư nắng lửa Lâu lắm rồi tình cũ vẫn thân thương Dẫu thời gian nhạt nhòa bao lời hứa Vẫn ngọt ngào như cỏ đẫm hạt sương.
28 Tháng Tư 201610:20 CH(Xem: 20189)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới và bấm vào ô vuông ở cuối khung góc phải (Full screen) để mở lớn màn ảnh LỖI HẸN - Nhạc Xuân Điềm - Khánh Ly trình bày Kiều Oanh thực hiện youtube
22 Tháng Tư 20169:27 CH(Xem: 16985)
Một chuyến đi dài nhiều lo lắng cho tôi mất ăn mất ngủ. Nhưng bây giờ tôi đã đến được nơi này. Một hình ảnh nước Mỹ trong lòng nước Nhật.
22 Tháng Tư 20164:55 CH(Xem: 18158)
Văn hóa ẩm thực trong cuộc sống hằng ngày của người quê tôi Biên Hòa Đồng Nai, phản ánh rất sinh động, thêm vào đó do ảnh hưởng môi trường thiên nhiên
22 Tháng Tư 20163:27 CH(Xem: 19889)
tháng tư về, một thoáng bâng khuâng chút nắng tan, chợt nồng mắt đỏ ai trả lời em điều chưa bày tỏ rằng một thời ta đã yêu nhau?
22 Tháng Tư 20162:10 CH(Xem: 19200)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức XA QUÊ HƯƠNG - Nhạc Đan Thọ-Xuân Tiên - Thái Thanh trình bày Kiều Oanh thực hiện youtube
22 Tháng Tư 20161:33 CH(Xem: 19566)
hãy ngủ đi Sài Gòn lời ru nào xa lạ ta gọi em, Sài Gòn... như gọi người yêu nhỏ đêm buồn cuối tháng tư nhớ Sài Gòn, mắt đỏ...
22 Tháng Tư 201611:10 SA(Xem: 17785)
Ngành sử học của Việt Nam là nghèo nàn và để khỏa lấp cái khoảng trống đó, nhiều cố gắng cấp thời như chữa lửa, mỗi người mạnh ai nấy làm ....
22 Tháng Tư 201610:15 SA(Xem: 19100)
Bão nổi, triều dâng cuồn cuộn sóng Thuyền trôi, gió đẩy chập chùng khơi Thì thôi phó mặc đời dâu bể Cứ nhủ tình như cuộc giỡn chơi!
21 Tháng Tư 20166:26 CH(Xem: 28536)
Tóc thơ quấn chặt lời thề Hương trầm đính ước, môi kề mộng chung. Ầu ơ! Suối tóc chập chùng Hồn anh đã lạc giữa vùng tóc bay.
21 Tháng Tư 20165:59 CH(Xem: 16970)
Cả hội trường im lặng khi tiếng sáo cất lên cao vút. Anh MC vừa giới thiệu đó là tiếng sáo của Hồ Ngọc, tiếng sáo điêu luyện, nổi tiếng của miền Nam Cali.
21 Tháng Tư 20169:55 SA(Xem: 20460)
Thời gian rồi sẽ qua mau Em đi ngày ấy nắng chào tháng tư Trái tim trốn chạy ngục tù Tình yêu ngày ấy thiên thu kiếm tìm...
16 Tháng Tư 201612:19 SA(Xem: 18078)
gười Quốc gia phải hợp tác với Tây là chuyện nhất thời vì thấy rằng còn có một thứ kẻ thù nguy hiểm, độc ác, tàn bạo, gian manh gấp bội phần chế độ thực dân Pháp.
16 Tháng Tư 201612:01 SA(Xem: 19514)
Tháng Tư về, buồn rưng rưng nước mắt Ta ngồi đây mang nỗi nhớ nghẹn ngào Bốn mốt năm xưa, thiên hạ xôn xao Lòng thổn thức nhìn quê hương nguy biến
16 Tháng Tư 201612:00 SA(Xem: 11651)
Bạn bè ơi, thời gian đã hơn 50 năm từ khi chúng ta thi đậu Đệ Thất NQ, với 7 năm học, 7 mùa phượng đỏ sân trường. ....Xin cám ơn bè bạn đã tạo cơ hội cho bằng hữu xích lại gần nhau,
15 Tháng Tư 201611:42 CH(Xem: 20537)
Gửi về cuộc họp bao tâm sự Mừng Thầy mừng Bạn gặp nhau xa Còn ta vương vấn buồn vui vậy Ảo ảnh nào đâu mắt đã nhòa ?!
15 Tháng Tư 20167:28 CH(Xem: 20161)
Em vung tay phù thủy Biến ngày thành đêm sâu Biến anh thành hạt bụi Chuyển hướng một tinh cầu. Em đọc lời sám hối Xóa dấu tuổi xuân thì Anh tìm Ông Lão Tử Xin làm người Vô Vi.
15 Tháng Tư 20163:08 CH(Xem: 18219)
Mỗi năm ngày mười tháng ba Cổ mâm nhang khói tụng ca giống nòi Hùng Vương quốc tổ sáng soi Rồng Tiên con cháu ngàn đời an khương Kính mừng Quốc Giỗ Hùng Vương...
15 Tháng Tư 201612:01 CH(Xem: 17863)
Con ngủ đi mẹ nhờ hàng tre nhỏ Rủ gió về lượn quanh võng ru con Chờ đêm về mẹ nhắc mảnh trăng non Ru con ngủ bờ môi hồng sữa ngọt.
15 Tháng Tư 201612:32 SA(Xem: 18118)
Gió tháng Tư ùa về thương nhớ Xa bạn hiền mấy độ riêu phong ? Mây xưa lúc tím khi hồng Dứt câu tâm sự tình mong còn gì !
08 Tháng Tư 201611:34 CH(Xem: 11762)
Thương tiếc tiển đưa người em, cũng không quên vinh danh người bạn đời của anh Viện, chị Phương Trang đã tân tụy một đời với người chồng bệnh nặng
08 Tháng Tư 20165:59 CH(Xem: 16597)
Tây phố phủ mờ trăng cuối đêm Quạnh hiu đời lá ủ bên thềm Đầy ly rượu đắng hồn say khướt Nguội lửa hương tàn mộng tiếc thêm Mây vướng sao ngời mây lượn nhẹ Sáo vương chiều lộng sáo ru êm
08 Tháng Tư 20163:36 CH(Xem: 19185)
Ta ngồi viết cho em Trang thư đầy nhung nhớ Đêm nầy như mọi đêm Ta âm thầm lặng lẽ Điếu thuốc tàn trên tay Em mơ màng trong khói Nửa chừng ly rượu cay Vẳng nghe lời em nói
08 Tháng Tư 20163:18 CH(Xem: 18604)
Sáng nay vừa bước ra sân Trời hanh gió lạnh, mùa Xuân đâu rồi? Tháng Tư sao tuyết còn rơi? Tháng Tư lá vẫn chơi vơi ngập trời?
08 Tháng Tư 20162:27 CH(Xem: 20079)
Cứ tưởng là thời gian sẽ phôi pha Tháng tư năm ấy mỗi người một hướng Bạn bè thân yêu bốn phương tám ngả Sao vẫn nặng lòng trăm nỗi nhớ thương.
08 Tháng Tư 201611:57 SA(Xem: 17880)
Nếu so với cuộc sống ngoài Bắc bữa no bữa đói, lo từng bữa thì đây phải nói là thiên đàng. Những điều gì khác với điều tôi viết thường là do cộng sản lúc bấy giờ tuyên truyền. Không có sốt rét, ngã nước cái con mẹ gì hết!
08 Tháng Tư 20163:19 SA(Xem: 25704)
Về thăm Nhơn Trạch chúng ta sẽ tìm thấy được những phút giây miệt vườn và khắp mọi nẻo đường đều có cuộc sống ấm no đầy tình người : chất phác, hiếu khách, hiền hoà và muôn lòng biết vọng bái tín ngưởng , niềm tin.
08 Tháng Tư 20162:00 SA(Xem: 10988)
Cám ơn tình nghĩa bạn bè đến với nhau khi chia ngọt sẻ bùi. Thời gian không cho phép, ai là người kế tiếp !! Trên đường về, các bạn báo tin, qua thông tin từ bạn Nguyệt Ánh, bạn Lê Minh Trí, CHS NQ khóa 8 lớp Pháp Văn, vừa bị đột quỵ cách đây vài hôm.
07 Tháng Tư 201610:53 SA(Xem: 18922)
Tháng Tư khăn trắng đầy trời Máu hòa nước mắt khóc đời tang thương. Màu đen phủ chụp phố phường Đắng cay tiếng khóc, thê lương tiếng cười.
07 Tháng Tư 20169:33 SA(Xem: 19852)
Cầu tre qua xóm nhỏ Hoàng hôn lạc nẻo tìm Tháng tư người cất giữ Nên tình còn trong tim Như đời ta buổi sáng Chờ mặt trời biển đông
01 Tháng Tư 201611:04 CH(Xem: 20252)
Trang web Ngô Quyền hân hạnh giới thiệu một bài viết có tánh cách chuyên môn của tác giả Trần Hữu Phúc. Được biết tác giả là chs Ngô Quyền (khóa 8).
01 Tháng Tư 201610:52 CH(Xem: 19195)
tin cầu Gành, vừa gẫy đổ. xa. thật xa. nửa vòng trái đất. nửa đời người. sao vẫn chạm trái tim. vẫn chạnh lòng. thương nhớ quá. chiếc cầu xinh...
01 Tháng Tư 20161:11 SA(Xem: 20126)
Rồi một ngày... Em về tìm Nursing-home Thăm anh trao một nụ hôn ân cần Thưa rằng: nghĩa nặng, thâm ân Mai sau có xuống mộ phần đem theo.
31 Tháng Ba 201611:56 CH(Xem: 19035)
Tiếc thay, Việt Nam đã mất nhiều cơ hội để hội nhập với bạn bè thế giới bằng lối đi ra biển, vượt thoát áp lực của nước láng giềng khổng lồ.
31 Tháng Ba 201610:14 CH(Xem: 19712)
Buổi sáng, nghe tin cây cầu gẫy Hai nhịp sập rồi, rơi xuống sông Dòng sông vô tình cứ chảy mãi Lăn tăn từng cơn sóng bềnh bồng
31 Tháng Ba 20169:43 CH(Xem: 17453)
Tháng Tư lại trở về đây, Bao mùa Quốc hận lưu đày niềm đau. Ân cần cha nắm đôi tay, Giao quê hương lại cho bầy con thơ. Giờ ông ru cháu ầu ơ, Lại Ư Ừ Ư Ử bến bờ yêu thương.
31 Tháng Ba 20163:58 CH(Xem: 18501)
Trang web Ngô Quyền hân hạnh giới thiệu nữ họa sĩ Nguyễn Thị Phấn qua bài báo của ký giả Alan D. Mcnarie đăng trên KeOla Magazine số tháng 11/12 năm 2013.
30 Tháng Ba 201611:37 CH(Xem: 21248)
Ơn trời chuyển đổi Quả nhân Mong phường gian ác bớt dần tinh ranh Bao giờ cho thàng Tư xanh Để non nước Việt Hùng Anh Hòa Bình
30 Tháng Ba 201610:08 CH(Xem: 18537)
Tháng tư mình chia tay Em về dưới cơn mưa Vai lạnh gầy tê tái Chẳng còn ai đón đưa.Tháng tư mình xa nhau Anh đi rồi đi mãi
30 Tháng Ba 201610:04 SA(Xem: 17264)
Cầu xưa đã gảy nhịp rồi Nhịp chìm đáy nước, nhịp phơi trên dòng Sông quê nước vẫn lớn ròng Còn đâu bốn nhịp cầu cong in hằn.
25 Tháng Ba 201612:33 CH(Xem: 17579)
Nước chảy qua hai nhịp cầu đã gãy Những giọt lệ buồn lạnh buốt tim sông Cây cỏ đôi bờ quằn mình tê tái Nhìn cầu trăm năm tức tưởi giữa dòng.