Nỗi đau và nỗi nhục của người Pháp trong
thế chiến thứ hai và của Việt Nam hiện nay
Nguyễn Văn Lục
Nhân kỷ niệm 70 năm cuộc đổ bộ của đồng minh ở Normandie- mồng 6 tháng sáu năm 1944 mà mục đích chính là-để tưởng nhớ và vinh danh những người đã chết và vinh danh con số ít oi những những người lính còn sống sót-.Buổi lễ nói lên cái hào quang chiến thắng áp đặt của đồng minh và cố gắng tránh né không hề đề cập đến kẻ thắng người thua cũng như bóng tối lịch sử của nước Pháp.. Phải rồi một buổi lễ kỷ niệm 70 năm, đâu phải là lúc thuận tiện để nói về những điều như thế!!
Và người ta có cảm tưỡng như là lịch sử đã sang trang? Và ngưới ta cần quên và xóa bỏ tất cả để chỉ giữ lại cái gì tích cực nhất?
Nhưng cái tích cực, cái phần tốt đẹp, cái hào quang thực chất có phải là lịch sử không ?.Đôi khi những điều không muốn nói lại cần thiết hơn những điều đã được nói ra.
Vì thế, những lời hay ý đẹp của các nhà lãnh đạo Mỹ, Anh, Canada và của chính tổng thống Pháp- đại diện cho cái lịch sử đã qua- thật sự không cho phép chiếu sáng những góc tối phiền muộn, mà chính người Pháp coi là những năm tháng đen tối (Les années noires) của họ.
- Lịch sử như vậy chính yếu là cái bi kịch. Bi kịch của con người với hằng trăm hệ lụy đủ kiểu..
- Bi kịch quan trọng nhất là những tổn thất sinh mạng hàng triệu người chết-chết đủ kiểu- Tôi đã nhìn thấy những người gốc Do Thái trần truồng, lếch thếch, lang thang, mỗi người một cái xẻng tự đảo hố chôn mình-. Về sự tàn ác dã man thì không bút mực nào nói hết được-. Về kẻ thua người thắng- Về cái mất, cái được.
- Và bi kịch của nước Pháp dù sao cũng chỉ giới hạn trong 4 năm bị Đức chiếm đóng. Bi kịch ấy được biểu tượng qua hai nhân vật lịch sử chính yếu là: Thống chế Pétain và tướng Charles De Gaulle. Đó là hai biểu tượng trái nghịch của một nước Pháp bại trận..
- Nhưng nếu mang cái bi kịch của nước Pháp quy chiếu vào hoàn cảnh V.N thì phải nhân cái mức độ bi kịch, đen tối lên đến 10 lần. Việt Nam không phải chỉ có một cuộc chiến mà nhiều cuộc chiến. Hết chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đến lần thứ hai. Hết đánh Pháp lại đánh Mỹ. Đánh Mỹ vừa xong, nòng súng chưa nguội thì đánh Campuchia rồi đánh Tầu. Hằng triệu người đã chết vì bom đạn vô tình. Và câu hỏi cho mọi người cho đến ngày hôm nay, chúng ta được gì? Có độc lập chưa, có dân chủ chưa? Mặc dầu tên hiệu của đất nước là VNDC cộng hòa! Thật mỉa mai cái tên hiệu ấy.
Thống chế Pétain- người anh hùng trong thế chiếnI-chấp nhận hợp tác với Đức để hy vọng mong manh cứu vãn đất nước khỏi tình trạng bị tiêu diệt toàn diện và tướng De Gaulle- một thuộc cấp của Pétain- lúc bấy giờ mới là một đại tá ít được ai biết tới và vừa được thăng cấp tướng-. Ông quyết định đào nạn sang Anh bằng mọi giá, để tiếp tục cuộc chiến đấu chống lại kẻ xâm lược.
Một người với uy tín quá khứ- nhưng nay đã có nhiều dấu hiệu già nua, mòn mỏi và lão hóa- đã chấp nhận thua cuộc. Và một người trẻ, dù chưa tiếng tăm, dù vốn liếng chính trị chưa được ai biết tới đã cương quyết chống lại kẻ xâm lược-. Và cuối cùng kẻ không chấp nhận đấu hàng đã đem lại sự giải phóng cho nước Pháp!!
- Bài học cho nước Pháp cũng là bài học cho Việt Nam!! Bài học hiện nay. Ai là De Gaulle, ai là Pétain? Xem ra Pétain thì có nhiều người dơ tay. De Gaulle thì không có.
Sau này, cho dù tòa án đã kết tội và giam tù tướng Pétain, nhưng dư luận của chính nước Pháp cũng không có một sự đồng thuận chung về trường hợp của Pétain và rất nhiều trường họp khác. Có thể đã có quá nhiều huyền thoại bao quanh nhân vật này. Và công việc ngày hôm nay là giải mã, bạch hóa những huyền thoại, những sự kiện lịch sử bị che dấu!!
Tại sao nước Pháp phải tạo ra huyền thoại chung quanh Pétain và tại sao phải che dấu? Câu trả lời bởi vì nước Pháp yếu, kẻ khác mạnh.
Và tôi nhận thức ra được một điều là: Khi người ta yếu kém, khi con người bất lực, khi một đất nước suy vy, khi một chính quyền bất lực trước thời cuộc, khi họ bị bên ngoài áp lực, bạo hành ức hiếp, khi vì quyền lợi cá nhân hay đảng phái. Người ta cố tình tạo ra huyền thoại và sống huyền thoại. Và Pétain đúng là biểu tượng huyền thoại của nước Pháp đang trên đà suy vi, tụt dốc sau thế chiến một. Nhất là kể từ 1939 trở đi.
Sống huyền thoại đôi khi là lẽ sống của kẻ bất lực, kẻ yếu kém. Nước Pháp trong thời gian bị Pháp chiếm đóng từ 1940-1944, họ không phải được nuôi dưỡng bằng bánh mì, bằng rượu nho mà bằng sự nhẫn nhục và những huyền thoại lớn nhỏ!!! Thật tội nghiệp cho một dân tộc bị xâm chiến mà không thức tỉnh được tình tự dân tộc, tình yêu quê hương xứ sở để vùng dậy!!
Sau này, có dịp đọc lại lịch sử nước Pháp, người ta rơi vào tình trạng không biết đâu là sự thật vì bị bức màn huyền thoại che đậy. Công việc nhỏ nhoi chúng ta làm là cố gắng giải mã những huyền thoại ấy do những tài liệu lịch sử còn để lại.
- Đi đôi với công việc ấy, ta quy chiếu vào trường hợp VN để nhận ra một số sự thật đã bị che dấu.. Đó là một công việc khó khăn gấp bội phần, vì không có sự kiện lịch sử nào của VN mà không bị che dấu, bị bẻ quặt, bị tuyên truyền, bị thổi phồng.
- Lịch sử VN dưới chế độ cộng sản nói cho cùn chỉ có mỗi một cách là xóa bỏ hết và viết lại từ đầu!!Tôi thực sự thú nhận và chân thật nói ra rằng không có một sự kiện lịch sử nào của VN được nói đúng sự thật.
- Chẳng hạn những sách viết của Võ Nguyên Giáp về chiến tranh Đông Dương, mỗi trang, mỗi dòng là những che dấu về tổn thất của ta và thổi phồng những tổn thất của địch!!Đọc ông Giáp cho thấy ông là một con người thiếu hẳn cái tình con người. Ông chỉ có một khát vọng vô biên: Thắng và thắng bất kể bao nhiêu mạng người lính đã chết dưới quyền chỉ huy của ông. Con số là hàng triệu người. Phải chăng đó là một vị tướng tài như ta thường nói?
Một mặt, có một số người cho rằng có thể nào Thống chế Pétain, người anh hùng thắng Đức trong thế chiến I ở trận Verdun- đã bắt người Đức phải nhục nhã cúi đầu vào năm 1918, kết thúc thế chiến thứ I-, chẳng lẻ nào chỉ là một kẻ hèn và nhất là mang tội bán nước, phản bội tổ quốc? Chỗ nào là công là tội? Nếu gọi Pétain là người phản bội lại tổ quốc thì phải gọi hằng trăm, hàng ngàn người Pháp khác là gì?
Nhưng nhìn lại tình hình nước Pháp năm 1940 đã rối như tơ vò trong nỗi bất lực yếu kém với nguy cơ mất nước, mỗi người mỗi ý.
Ngày 16 tháng 5- 1940 mở đầu cho một thảm kịch nước Pháp. Khi Hitler xâm chiếm Bỉ thì quốc vương Bỉ, Paul Baudouin ra lệnh quân đội buông súng. Chiến xa của Guderian và Rommel xông xáo như chỗ không người.
Trung tá De Villelume viết lại trong Journal d’une défaite(nhật ký một cuộc bại trận) của ông là quân lính của chúng ta tan hàng. Người ta nhìn thấy một viên tướng bỏ trốn trên đường. Trận chiến coi như đã thua.[1] Xe thiết giáp Đức tiến tới Laon.. Đánh Hòa Lan trong một ngày. Ngày hôm sau, quân Đức vào Bỉ. Đó là một cuộc tiến quân thần tốc.W. Churchill đã hỏi tướng Gamelin: thế còn quân trừ bị chiến lược của Pháp đâu? Không, không có gì cả.
Đường dẫn đến Paris hầu như mở rộng mà quân địch không gặp một trở ngại nào..Hàng đoàn lính Pháp đã vứt bỏ súng ống, chạy xuống phía Nam để trốn chạy sức tiến công của những xe Panzers..Quân lính Đức đã không có đủ thì giờ để bắt những binh lính Pháp này làm tù binh. Cuộc tháo chạy thật kinh hoảng và nhục nhã.
Cảnh bại trận đã diễn ra như thế!!
Người ta mới hiểu được tại sao chỉ trong vòng 6 tuần lễ, nước Pháp đã phải quy hàng, xin ký Hiệp đình đình chiến vào tháng sáu- 1940..và rút về miền Nam tại Bordeaux.
Thế rồi cuộc chiến tranh xâm lược trong thế chiến hai của Hitler hầu như không tránh được.
- Một cảnh tượng bi tráng như thế có thể nào tái diễn ở Việt Nam được không? Chắc là không. Tôi không nghĩ là có một cuộc chiến tranh giữa Trung cộng-Việt Nam. Vì ta nhượng hết, nhượng đất, nhượng biển, nhượng những lấn áp về kinh tế. Lãnh đạo cộng sản từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Phú Trọng- Nguyễn Tấn Dũng đều là những tay sai ngoan ngoãn cả. Vạn bất đắc dĩ có diễn ra chiến tranh thì nó sẽ diễn ra ở một nơi vắng bóng con người. Ở một nơi chỉ có vũ khí nói chuyện với vũ khí. Biển đông. Trên là trời, dưới là nước, ta lấy gì chống trả lại?
Rồi đến lượt Calais bốc cháy. Lần này là đội quân Anh với đội lính ‘ tiền đồn’ và một số nhỏ binh lính Pháp. Họ cũng thua cuộc, nhưng chỉ tìm cách rút ra bãi biển Dunkerque để rút về Anh. Đây là một cuộc rút quân thê thám với xác người bị đốt cháy, trước mặt là quân địch, sau lưng là biển cả...Có thể nói đó là một hoả ngục trong biển lửa.
Nói về cuộc rút quân này, không gì bằng đọc lại W.Churchill để thấy rằng trong hoàn cảnh bi kịch nhất, nếu có lòng với đất nước, vẫn có cơ cứu vãn.
‘Nước Pháp sụp đổ. Hòa Lan bị đè bẹp. Bỉ đầu hàng. Bị dồn vào chân tường, quân đội Anh cũng đã tìm được lối thoát tháo gỡ và rút quân về hướng Manche, tập trung tất cả về về một thành phố chủ yếu làm nghề chài lưới có tên là Dunkerque.
Đây là bi kịch lớn nhất trong lịch sử chiến trận nước Anh từ trước tới giờ. Nếu quân Đức vượt qua đuợc đến Manche- như trạm đấu cầu mà không bị cản trở thì tất cả sẽ mất hết. Hơn 200.000 ngàn quân tập trung về bãi biển Dunkerque như những kẻ vô vọng vì không cách nào có đủ tầu bè rút ra biển. Người ta dự đoán và báo cho vua George VI là chỉ có thể cùng lắm cứu được 17.000 người.
Vậy mà từ các cửa sông Kent vả Douvres, một đội các tàu bè như sà lan, thuyền đánh cá, các loại ca nô, các du thuyền, các tàu kéo, tàu đánh lưới rê, tàu kéo, các phà như Gracie Fields..tất cả đồng lỏng kéo ra biển..
Đúng là một phép lạ. Người ta đã cứu được tất cả 338682 trong đó có một số chiến binh Pháp.[2]
- Bài học của W. Churchill nay rất cần cho người cộng sản. Phải nhìn nhận, người cộng sản VN đã can cường trong quá khứ. Người dân khi ấy bị đưa vào cơn mê hoặc liều chết: Đánh Mỹ cứu nước. Tôi ngạc nhiên tự hỏi kẻ xâm lược hiện nay đang khiêu khích đủ thứ. Họ lại bắt dân im lặng. Phần họ thì nhẫn nhịn. Có gì khác biệt giữa việc đánh Mỹ và đánh Tàu cộng? Đánh Mỹ được tại sao đánh Tầu cộng ta không dám? Không sợ B.52 mà lại sợ những lời hăm đe của Trung cộng? Chỉ cần một quan Thái thú Tàu sang hăm đe, phủ dụ là cán bộ lãnh đạo Việt Nam im re hết..
- Việt Nam hiện nay chắc cần một phép lạ như thế. Mà chỉ có có lòng dân mới làm được.
- Để đối đẩu với sự hung bạo của Hitler. Sự hèn nhát, nhượng bộ không giải quyết được gì.
Nước Anh trong thế chiến hai, cần có một người lãnh đạo có tầm nhin xa. Trong con người ấy phải thể hiện tinh thần danh dự, trách nhiệm bổn phận, hành động, cương quyết và quả cảm.
Để đối đầu với Hitler, phải có một người hơn Hitler.
Con người ấy là một thiên tài chiến lược, quân sự, biết vận dụng truyền thống anh hùng chủng tộc, biết thúc đẩy lòng ái quốc của toàn dân.
Con người ấy hiện lúc ấy đang ngồi ở Anh, ngậm điếu sì gà nghĩ đến chuyện cứu nước.
- So W.Churchill với Pétain thì Pétain chỉ là thứ tướng gà chết, nuốt giây thung. W. Churchill đã cứu được nước Anh còn Pétain của nước Pháp thì không?
- Việt Nam có lãnh đạo nào có tầm vóc, biết hy sinh, tiêu biểu cho tình tự dân tộc? Chỉ cần một con người như thế lên tiếng, toàn dân sẽ nhất tề nghe theo.
Chính cuộc rút quân thua trận khỏi Paris thảm bại này đã làm nao núng quân đội Pháp mặc dù từ La Somme đến chiến lũy Maginot chỉ còn là một huyền thoại về sức mạnh quân sự của Pháp. Cuối tháng 6, Hitler nghênh ngang vào Paris diễn hành với bộ tướng của ông. Hai bên đường, thường dân Pháp vỗ tay hoan hô! Ôi còn có cái gì nhục bằng.
Không lạ gì rạng đông ngày 17 tháng sáu, Hitler còn đang đặt Tổng hành dinh của ông tại một làng nhỏ bên Bỉ thì nhận được giấy xin đình chiến của Thồng chế Pétain. Đây là hiệp định đình chiến với Đức như một thứ giây thòng lọng siết cổ dần những kẻ có tinh thần chủ bại (défaitiste) tính toán, hoặc thái độ trông chờ một cách bất lực, (attentiste) hy vọng sự tiếp tay của người Mỹ và nhất là thái độ khôn ngoan xảo quyệt(Machiavélisme), tính toán nhượng bộ chính trị để tránh phải đương đầu trực diện với Đức và chờ cơ hội.
Nhưng cũng cùng ngày ấy, ở Bordeaux, có một người sau này được coi là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Đức. Tướng De Gaulle cảm thấy ông là một người cô độc. Chung quanh ông chỉ là những người đả mỏi mệt kiệt lực, không còn một chút nhuệ khí, chỉ muốn thương lượng với kẻ thù hoặc bỏ cuộc và họ rơi vào tình trạng tuyệt vọng .[3]
Phần De Gaulle cương quyết bảo vệ Paris bằng mọi giá. Và ông cho rằng, không bảo vệ Paris thì cũng sẽ không bảo vệ được nơi nào khác. Ít ra chặn quân Đức ở khu vực sông Seine thì cũng làm chậm bước tiền công của quân Đức. Ông cũng đề nghị chọn De Lattre De Tassigny- một sĩ quan còn trẻ đầy năng lực bảo vệ Paris-, nhưng rất tiếc Paul Reynaud lại chỉ định một viên tướng già Hering.
Sau đó, chính De Gaulle cũng được thăng tướng và chỉ huy bình đoàn 4 thiết giáp trừ bị-một thứ binh đội tập họp rải rác các binh đội đã tan hàng. Một tập hợp hỗn độn đủ các binh chủng không đủ sức kháng cự trước sức mạnh của quân đội Dức. Ông viện dẫn phải bảo vệ Paris như chúng ta đã làm vào năm 1870. Hầu như tiếng nói của De Gaulle không có trọng lượng. Mọi người lo chạy thoát thân. Vì thế, ông đã thú nhận trong Hồi ký chiến tranh Mémoires de guerre của ông như sau: Tôi cảm thấy tôi chỉ còn một mình và mất hết mọi thứ như một người ở bên bờ đại dương và quyết định bơi vượt đại dương. Và ngay trong đêm, ông đã quyết định một mình bỏ đi.. Chán nản và cô độc. Nhưng nhìn lại người lãnh đạo tiêu biểu cho nước Pháp, ông nhận Pétain là người phản bội lại tổ quốc, kẻ bán nước.[4]
Kể từ đó, nhiều lúc họ coi nhau như kẻ thù.
Và không theo Pétain, De Gaulle chỉ còn một con đường hy vọng cứu nước là xa lánh Pétain và tìm con đường đào tỵ sang Anh. De Gaulle đã một mình xử dụng chiếc xe Peugeot 402 của quân đội dành cho ông và do anh tài xế tên Marcel Hutin lái ra phi trường. Vì lý do gia đình, viên tài xế đã xin ở lại Pháp. Phần De Gaulle đã lên một chiếc máy bay riêng ba chỗ ngồi dành cho ông với hộ vệ viên bay sang Anh. De Gaulle cũng đã lên tiếng trên đài phát thanh BBC tại Luân Đôn vào tháng sáu. Có 50 chục ngàn dân Pháp ở Anh, nhưng đã không có mấy người hưởng ứng lời kêu gọi của De Gaulle. Có một khoảng trống lớn những người tình nguyện. BBC ngày 18 tháng sáu, 1940, De Gaulle kêu gọi toàn dân- đặc biệt các thành phần dân Pháp lưu trú ở Anh quy tụ chung quanh ông để kháng chiến chống Đức.. Nhưng đã có bao nhiêu trí thức Pháp dám đối đầu lên tiếng phản kháng. Người ta được biết có những trí thức khoa bảng như ông Hàn Lâm Viện André Maurois đã bỏ trốn sang Anh, rồi di cư sang Mỹ cho an toàn.. Nhà văn phi công St. Exupéry đã quyết định ở lại Pháp cộng tác với chính phủ Pháp ở Vichy và sau đó tử nạn máy bay tại sa mạc trong một chuyến bay đêm đi Bắc Phi..
Thái độ ấy tóm tắt nhận xét chán chường và tuyệt vọng được ghi lại của Eduard Daladier về các tướng lãnh Pháp: Thật là khủng khiếp, tôi chỉ thấy những tướng lãnh với tinh thần bại trận.[5] ( C’est terrible. Je ne vois que des généraux qui ne veulent pas se battre).
Và dưới cánh của Pétain là những thành phần xu thời, trở cờ như Pierre Laval, Darlan. Những người này sẵn sàng làm tay sai cho Đức với giá trẻ.
Phần W. ChurChill, một lãnh tụ chính trị có tầm nhìn xa chia sẻ quan điểm của De Gaulle đã viết những dòng khuyến cáo sau đây cho Pétain:
Tôi khích lệ chính quyền Pháp bảo vệ Paris bằng cách nhấn mạnh rằng để cung cấp vật tư tiêu thụ cho một đội quân xâm lăng là lớn lắm, vì họ phải chiến đấu chiếm từng căn nhà, từng căn phố..Tôi cũng nhắc ông ta những lời của Clémenceau tuyên bố trong thế chiến I: Tôi sẻ chiến đấu đàng trước Paris, trong Paris và đằng sau Paris..Tôi cũng nhấn mạnh phải thiết lập một Stalingrad ở Paris.
Nhưng Pétain đã điềm tĩnh trả lời: trong thế chiến thứ nhất, tôi có trong tay 60 binh đoàn, nay thì không có gì..Biến Paris thành đống đổ nát sẽ không thay đổi gì cục diện cuối cùng”. Câu nói nguyên văn của Pétain là:Réduire Paris en ruine ne changerait rien au résultat final.(Biến Paris thành đống vụn đổ nát, khộng thay đổi gì toàn cục diện cuối cùng).[6]
- Hoàn cảnh nước Pháp trước đây và hoàn cảnh Việt Nam bây giờ xem ra có nhiều điều trùng hợp về hoàn cảnh chính trị, quân sự, về tinh thần chiến đấu, về thái độ trước kẻ thù và thái độ bi quan, khiếp nhược.
- Đọc người để nghĩ đến ta mà không khỏi buồn. Cả một bầy kên kên ăn hại dân hại nước. Có nên tin những điều họ tuyên bố hay không?. Hay hãy nhìn những việc họ làm!!
Nhưng chính trong hoàn cảnh bi kịch nước Pháp bại trận mà cuộc chiến tranh biến thành cuộc chiến tranh thế giới.
Ngày 16 tháng 5, TT Roosevelt gửi thông điệp cho Quốc Hội yêu cầu tái võ trang quân độ Mỹ. Phần W.ChurChill cho rằng nếu Pháp bại trận, nước Anh vẫn tiếp tục chiến đấu trong khi chờ đợi sự tiếp tay của nước Mỹ. Và rồi chúng tôi sẽ đốt những thành phố của họ, đốt mùa màng và phá tan hoang rừng của họ.
Tinh thần chủ bại của nước Pháp từ Pétain đến dân chúng.
Nước Pháp rơi vào tình trạng khủng hoảng quyết định hòa hay chiến. Một số nhỏ muốn chiến đấu, nhưng nhiều người khác có tinh thần chủ bại muốn bảo vệ Paris khỏi bị xóa sổ và hy vọng còn giữ được một Paris với những di sản văn hóa còn nguyên vẹn.Phần đông giữ thái độ trông chờ- một thái độ thụ động và bất lực-.
Theo Alain Peyrefitte thì phần đông dân chúng Pháp ngả theo Pétain trong thời gian 1940-1942. Dân chúng hô hào: Vive Pétain. Say mê và cuồng nhiệt Thanh niên thiếu nữ cùng hát to: Maréchal, nous voilà.[7]. Trong số những vị tướng trẻ theo Pétain, có một vị tướng trẻ sau này lừng danh trong trận đánh Vĩnh Phúc Yên, đụng mặt với Võ Nguyên Giáp: tướng De Lattre De Tassigny. Nhưng vào năm 1942, De Lattre đã quay trở lại chống Đức. Bị bắt làm tù binh, ông thoát được ra khỏi tù và chỉ huy đệ nhất binh đoàn sang đánh Đức.
- Bài hát Maréchal, nous voilà (Đại tướng có chúng con đây) có khác gì những bài hát ca tụng bác Hồ: Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng!!
- Càng hoan hô Pétain bao nhiêu càng cho thấy dân chúng Pháp mất tinh thần bấy nhiêu.
Thái độ chủ bại này xem ra chiếm ưu thế và cũng là tiêu biểu trong tình thế lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, thực tế nước Pháp bao giờ cũng có kẻ theo tả phái và hữu phái. Quân đội thì có khuynh hướng hữu phái còn trí thức thường ngả theo tả phái! Hữu phái có khuynh hướng bảo thủ, giữ gìn trật tự hiện có trong sự liên tục, tôn trọng thẩm quyền chính đáng. Tả phái mang một niềm hy vọng nên chống đối, đòi cải tổ thay đổi, đòi công lý.
Hai khuynh hướng ấy cứ đối chọi đến bệnh hoạn, đưa dến chia rẽ thay vì đưa đến đối thoại hợp tác.
Thật vậy, vào ngày 11 tháng 6, lúc 11 giờ, Tướng Héring, người có trách nhiệm quân sự bảo vệ Paris còn mạnh dạn tụyên bố với công chúng: Thủ đô Paris phải được bảo vệ tới cùng. Nhưng cũng chính ngay buổi chiều hôm đó Weygand, người lãnh đạo chính phủ lúc bấy giờ lại tuyên bố: Paris, thành phố bỏ ngỏ.( Paris, ville ouverte). Thật trái cựa, thật mâu thuẫn.
- Nhưng nó có khác gì lời tuyên bố của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh. Nguyễn Tấn Dũng nói: Hữu nghị bây giờ chỉ là viển vông. Phùng Quang Thanh nói; Chuyện tranh cãi Trung Quốc-Việt Nam, chỉ như chuyện anh em trong nhà bất hòa.
- Đất nước này nếu cứ trông chờ vào những thành phần lãnh đạo này thì sẽ đi về đâu?
- Lẻ sống còn của Việt Nam hiện nay nằm trong hai chữ: Thay đổi. Không thay đổi là chết. Thay đổi lãnh đạo, thay đổi cả guồng máy ấy, thay đổi cả cái cơ chế ấy. Không thay đổin thì chỉ còn con đường lệ thuộc, làm tay sai cho Tầu cộng.
Khi tuyên bố Paris bỏ ngỏ có nghĩa: Bỏ ngỏ có nghĩa là buông súng!!!. Là đầu hàng, là để cho Đức vào Paris không tốn một viên đạn!!
Đọc lịch sử nước Pháp- là đọc lịch sử, con người Việt Nam hiện nay- trong thế chiến thứ hai, chúng ta rút ra được hai bài học:
- Bài học thứ nhất là nước Pháp thua cuộc vì yếu kém, chế độ cộng hòa đã rũa mòn, tinh thần dân chúng thụ động, nản chí. Họ chỉ hy vọng vào trông chờ vào những mơ mộng không tưởng, vào hào quang quá khứ. Có nghĩa là sống bằng huyền thoại, dựng lên huyền thoại như Pétain để tự tự an ủi, tự bào chữa, rơi vào tình trạng suy nhược thần kinh. Cái tác hại duy nhất mà Pétain đem lại cho nhân dân Pháp là sự an tâm có ta đây- cứ nhẫn nhục, cứ chịu đựng, cứ chờ đợi, rồi một ngày mai sẽ tươi sáng.
- Bài học thứ hai là lịch sử bi kịch của nước Pháp cũng là lịch sử đất nước mình. Nó giống nhau nhiều thứ lắm. Giống từ hoàn cảnh, giống từ tâm tình, giống từ thái độ, giống từ bọn lãnh đạo đến dân thường. Nói chung, nó có nhiều điểm trùng hơp về hoàn cảnh chính trị, lịch sử. Nó có những con người tiêu biểu cho một xã hội, một thể chế đã bị bào mòn, ung thối. Nó cũng chỉ sống và nuôi dưỡng bằng những huyền thoại như những xác chết đã rũa mòn. Nên viết về nước Pháp mà như thể đang viết về Việt Nam. Dĩ nhiên sự so sánh này chỉ có tính cách biểu tượng không mang tính quy luật.
Cho nên trong bài viết này viết về nước Pháp là để viết hết lên cái tâm tình về Việt Nam- một Việt Nam yêu thương và rách nát- một Việt Nam bệnh hoạn sa đọa đến cùng cực.
Huyền thoại về một nước Pháp anh hùng
Tôi có thể nói thế này, Pétain chỉ cho nước Pháp mượn cái tên hão và những hào quang chói lòa che đậy cái hèn yếu, cái huyền thoại về ông. Hà Nội hiện nay cũng đang mượn tên Hồ Chí Minh trong chiến dịch tuyên truyền, cỗ võ lòng yêu nước!!!
Đất nước Pháp trong nhiều thập kỷ, trong tâm thức người dân đã từng được nhồi nhét vào đầu, coi là đất nước vĩ đại- một nước đại Pháp như người ta quen gọi-. Một đất nước đã từng đánh tan đạo quân nước Phổ hùng mạnh trong một chiến dịch thần tốc dưới quyền điều khiển của Napoléon năm 1800.
Đó cũng là một đất nước đã từng đi chinh phục xâm chiếm đất đai trải rộng đến 12.898.000 cây số vuông với số 110.631.000 triệu dân tính đến năm 1936.
Và gần hơn nữa, một đất nước mới ngày nào trong thế chiến thứ nhất với những người lãnh đạo như Clémenceau, như Foch, như Joffre, như Lyautey.. nay đều đã chết hoặc hết thởi để lại khoảng trống lãnh đạo không lấp đầy được.Trong số bảy tướng lãnh Pháp làm nên sự nghiệp hiển hách, nay chỉ còn mình Pétain(Tướng Francet d’Espérey chết 1942). Phải chăng thống chế Pétain nay chỉ là kẻ trám chỗ vì không có ai khác đủ uy tín-. Pétain tiêu biểu cho một nước Pháp đã hết thời. Pétain chỉ sống cái hào quang của quá khứ do Joffre, Lyautey để lại? Nhưng thời đại hoàng kim của những vị tướng này đã chấm dứt.
Đất nước ấy đã từng có những giây phút vinh quang và thay vì để tang cho quá khứ ấy, họ vực cho nó sống dậy.
Nói đúng như Paul Valéry là: Không một dân tộc nào chịu nhìn nhận những bất hạnh của đất nước mình như những đứa con của dòng chính.[8]
Những hào quang quá khứ ấy cứ được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc. Nước Pháp như cái rốn của vũ trụ không bao giờ thoát ra được khỏi mình.Nhưng đôi khi thực tế thì yếu kém, không khả năng lèo lái, bất lực trước thời cuộc, chậm lụt và bị các nước khác bỏ xa. Đó là một tình thế lưỡng nan, lui không xong mà tiến thì không được. Chính trị nước Pháp qua các chính quyền chỉ tính từ mồng 6 tháng 2 năm 1934 đến 1940 lần lượt 13 lần thay đổi nội các chính phủ.
Đó là sự phá sản chính trị của guồng máy chính trị nước Pháp..Nói cho chính xác hơn, đó là sự phá sản của nền đệ tam cộng hòa- một nền cộng hòa đã thối rữa, mục nát không dáp ứng lại được tình thế.
Tâm trạng người dân Pháp đâm mỏi mệt, bất mãn chán chường và thất vọng. Nước Pháp cần một người lãnh đạo có lòng yêu nước, can trường và dám đương đầu với kẻ thù.
Họ không tìm ra được người lãnh đạo nên sinh ra bất mãn chế độ cộng hòa, bất mãn với hoàn cảnh thực tế, với những khó khăn đủ loại, nhất là với kinh tế suy thoái. Cuối cùng họ bất mãn với gia đình và đôi khi với chính bản thân họ. Và chỉ cần một chút xíu bất đồng, một ngọn lửa nhen nhúm cũng đủ gây thành đám cháy.
Ngay hiện nay nếu có dịp cứ nhìn cảnh xe cộ chạy trên đường phố ở xa lộ và ở ngay chính Paris cho thấy một vô thức tập thể điên khùng. Người ta chèn lấn nhau, tâm lý muốn vượt kẻ khác, từ chối đặc quyền ưu tiên của dòng luu lượng xe phải nhường nhau như vượt đèn đỏ, bảng cấm. Tính hung hăng quá khích thể hiện khi lái xe là một thứ giải tỏa bất mãn, bực bội. Cứ có hai người Pháp đủ ồn ào tranh cãi. Tệ hơn nữa họ tự hành xử thay cho pháp luật.
- Những điều như thế cũng đang diễn ra hằng ngày ở Việt Nam bây giờ. Một xã hội bát nháo, vô trật tự, mạnh ai nấy sống. Thú vui lớn nhất là ăn nhậu sáng đêm cho quên mọi phiền đa của cuộc sống hằng ngày, của tương lai vô định. Một xã hội phi luật pháp, vô kỷ luật thiếu hẳn khung hình của một xã hội dân sự có tôn ty, trật tự,m có luật lệ.
- Điều này có lẽ cần phải sống ở ngoại quốc mới thấy hết được. Trật tự lưu thông ở xứ người với hằng trăm ngàn xe cộ mỗi ngày mà không cần đến cảnh sát. Về đến Việt Nam là thấy choáng váng mỗi khi ra đường, thấy cái chết quá dễ dàng!!
- Tệ hại hơn nữa, con người xử dụng luật rừng với nhau trong thái độ bất cần, vô cảm của ngươi dân. Đó là cái bất mãn tập thể bị dồn nén xả ra bên ngoài bằng sự chen lấn, chụp giựt, lừa đảo đến đâm chém, nhậu nhẹt, chửi thề như lẽ sống ở đời.
Không lạ gì, nước Pháp là nơi diễn ra nhiều cuộc rối loạn nhất, nhiều thay đổi chính phủ nhất, nhiều cuộc tranh đấu chính trị nhất, nhiều cuộc biểu tình xuống đường, nhiều cuộc đình công xảy ra mỗi ngày. Alain Peyrefitte đã dành hẳn một cuốn sách nhan đề Le Mal Francais để viết về những cái tệ hại của nước Pháp.[9] .
Một đất nước như thế là cơ hội cho đủ loại phe phái, đủ loại mặt trận, đủ loại các thành phần khuynh tả mọc lên. Đâu đâu cũng thấy bất mãn.biểu tình xuống đường, đình công, hô hào, đả đảo.
Cũng chính tại nơi đây, các phong trào thợ thuyền, cánh tả phái và ngay các nhà ái quốc của Việt Nam như Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh và phong trào cộng sản Mác Xít có chỗ trú ẩn và xây dựng cơ sở. 26% thành phần dân cử của Pháp lúc bấy giờ, 1938 là cộng sản..
Cũng chính nơi đây mà Hồ Chí Minh và những người cộng sản đệ tam và đệ tứ cộng sản xây dựng cơ sở, tuyên truyền.[10].
Nước Nga đẻ ra cuộc Cách mạng tháng 10 thì nước Pháp là nơi nuôi dưỡng nó.
- Có thể nói, nước Pháp là quê hương của cộng sản đệ tứ và đệ tam của Việt Nam. Thật buồn cho nước Pháp mà cũng buồn cho chúng ta về những oan nghiệt lịch sử..lại đến từ nước Pháp… Nếu không có nước Pháp thì Hồ Chí Minh làm gì có chỗ tựa ban đầu, làm gì học bài học vỡ lòng về cộng sản?...
Trong một tình hình chính trị bất ổn như thế, nước Pháp không còn ai khác có khả năng đối mặt với kẻ thù đã phải triệu hồi một viên tướng già 83 tuổi- tuổi hào quang cũng là tuổi xế chiều từ Tây Ban Nha trở về- để điều khiển đất nước!!Người ta chỉ còn tin vào ông như cái phao hy vọng..
Cái thua cái được thì rõ rệt- không lật ngược được thế cờ được nữa-. Quân Đức làm chủ nước Pháp nhưng đồng thời cũng phá tan hoang tất cả những giá trị tinh thần của nước Pháp để lại. Tại sao một dân tộc hiển hách với những cuộc viễn chinh thập tự quân (Croisades) và những cuộc cách mạng tinh thần với Pascal, với Voltaire lại chỉ cho thấy cảnh tượng chia rẽ, gấu ó và bất lực?
- Ta cũng có thể hỏi như thế với người cộng sản?
Phần viên tướng già, ông bắt buộc phải chơi trò chơi hai mặt. Ông thù ghét Hitler, khinh miệt là đằng khác. Ông thường trong chỗ riêng tư coi đó là thằng vô lại, thằng tầm thường, nhưng nguy hiểm vì nó không đọc, không suy nghĩ và không biết gì về lịch sử. Nhưng ông vẫn phải chìa tay ra xin hòa với Đức, nhân nhượng để giữ những gì còn giữ được.Ông giữ im lặng khi cần, soay sở, khôn khéo, ông giữ cho riêng mình một vẻ bí mật miễn sao để khỏi bị kẻ thù tiêu diệt. Hitler cũng phài nhìn nhận ông là một thứ cáo già. Con cáo già ấy bắt buộc phải thương nhượng, phải quanh co, phải che dấu.
- Con cáo già có tên là Pétain và còn có một con cáo già cùng loại có tên là: Hồ Chí Minh. Họ đều là những chính trị gia khôn ngoan, giảo quyệt, nhiều mánh lới, biết chiêu dụ lòng người, có khả năng tác động đến đám đông quần chúng
Nhưng cái hy vọng duy nhất ông có thể làm được là giảm thiểu những tàn phá, những đổ vỡ có tính cách hủy diệt do chiến chiến tranh gây ra. Và xem ra điều đó có đúng một phần sau khi chiến tranh chấm dứt. Paris còn nguyên vẹn, còn nguyên các bảo tàng viện, các đền đài.
Và điều ông đã làm là xin đình chiến giữ cho Paris còn nguyên vẹn. Các lâu đài, các tài liệu cổ, các cổ vật các bức tranh vô giá và ngay cả những mảnh vườn hoàng gia được thiết lập từ 350 năm trước, thởi Louis XIII vẫn còn nguyên vẹn. Giữ vườn hoa từ thế kỷ 18 còn nguyên vẹn thì tốt rồi. Nhưng Paris đã mất cái danh dự, cái căn cước của một dân tộc vốn tự hào từ lâu đời..
Nhưng tình tự dân tộc, hãnh diện vì có một tổ quốc thì bán rẻ? Cho nên sau này, nhiều tài liệu bí mật được Raymond Tournoux thu thập được công bố cho thấy ông cũng đã phải trả một giá rất đắt. Quá đắt là đàng khác. Và ai sau này sẽ trả cho ông đây?
- Trả cái giá đắt ấy, Hồ Chí Minh và đồng bọn đang bắt cả dân tộc Việt Nam chìa vai trả cái nợ ấy.
Phần Hitler cũng chỉ muốn có thế, không muốn đẩy Pétain vào chân tường cũng như người Pháp vảo một cuộc kháng chiến tuyệt vọng. Vì thế, Hitler nhận và đồng ý ký thỏa hiệp đình chiến. Cái lợi thế là với thỏa hiệp này, Hitler có thể chia rẽ hai sức mạnh Pháp và Anh. Lực lượng hải quân Pháp buộc phải tỏ ra trung lập, được chỉ định ở những bến cảng do Đức cho phép.
Và nhờ thế Đức có thể cô lập, vô hiệu hóa hạm đội Anh. Sau này, 40 tầu ngầm của Đức tha hồ tung hoành, phá hủy nhiều tầu hàng của Anh Quốc và hầu như làm chủ trên biển. 4 triệu tấn hàng hóa của Anh đã bị hải quân Đức đánh chìm.
Không tốn hao thêm binh lực, Hitler làm chủ trên đất và trên biển, lấy nước Pháp làm chỗ hậu cần cung cấp lương thực, sản xuất hàng hóa phục vụ chiến tranh, chuyên chở công cụ cho chiến tranh mà mục tiêu chiến lược là nhắm vào nước Anh.
Tôi cho đây là cái giá trả cao nhất nước Pháp phải trả: mất chủ quyền, mất độc lập và gián tiếp làm tay sai cho giặc. Nếu không có Mỹ can thiệp vào liệu nước Pháp với Pétain bao giờ lấy lại được độc lập?
- Nếu không có Nga, không có Tàu, không có Nga thì liệu Võ Nguyên Giáp làm được gì? Nhưng Mỹ thì không đòi nợ, không bắt bán đất, nhượng biển còn Tàu thì đòi cả vốn lẫn lời.
- Va điểm thứ hai, giả dụ không có cộng sản ở VN thì tình hình ở VN sẽ như thế nào? Sẻ như Đại Hàn, Đài Loan hay như Bắc Hàn, Cu Ba?
.
Pétain và những đồng đảng như Darlan, Laval : Những tội ác bán nước còn để lại
Đọc Pétain và đồng bọn, tôi có cảm tưởng Pétain, Laval và Darlan cộng lại thì có một Hồ Chí Minh-một Võ Nguyên Giáp, một Trường Chinh, một Nguyễn Văn Linh, một Đỗ Mười, một Lê Khả Phiêu, một Nguyễn Phú Trọng..
Người ta còn nhớ trong thế chiến I, Hitler mới chỉ là một anh đội xếp. Vậy mà nay ông trở thành một lãnh tụ sáng giá nhất và đầy tham vọng, điên cuồng đẩy nước Đức vào một cuộc chiến tranh tàn khốc.[11] Ngay từ năm 1938, ông đã chuẩn bị cuộc chiến tranh rửa nhục ấy rồi qua cuốn sách Mein Kampf . Winston Churchill khi có dịp đọc cuốn sách của Hitler xuất bản, cuốn Mein Kampf đã cảnh cáo thế giới và nước Pháp rằng:
Những giấc mơ giải phóng và trả thù đả được ấp ủ trong tâm hồn của người Đức rồi. Sự hận thù gia tăng với người Pháp sẽ đoàn kết tất cả dân tộc Đức lại thành một khối thống nhất. Sớm hay muộn gì thì nước Đức cũng sẽ tái võ trang.[12].
Phần Pétain, ông thú nhận với người bạn tâm giao là triết gia Gillouin là ông chưa hề bao giờ đọc cuốn Mein Kampf của Hitler.
Người ta cần biết rằng sau chiến tranh thứ nhất, 5 triệu dân Đức thất nghiệp. Người ta nhìn thấy nhiều cựu chiến binh trong thời chiến đi lang thang ăn mày trên các đường phố. Lạm phát hầu như làm phá sản tầng lớp trung lưu. Tổng thống Hinderburg- giống như Pétain- đã 84 tuổi sống trong tình trạng hoảng sợ lão suy và bất lực.
Cảnh tượng ấy lại lặp lại sau chiến tranh lần thứ hai một cách kinh hoàng hơn, Berlin bị chia ra thành 4 vùng với cảnh hoang tàn đổ nát, những người dân Berlin thẫn thờ, ngơ ngác, quần áo dơ dáy thất thểu trên đường phố. Cảnh đó giúp chúng ta hiểu được tâm trạng dân Đức sau chiến tranh 1918 và những phản ứng của họ.
Giới trẻ mới lớn lên ở Đức đi tìm một thần tượng như một chỗ dựa để xóa bỏ sự ô nhục của hòa ước Versailles. Tôi đã thấy hình ảnh hàng trăm ngàn thanh niên cùng đứng lên, cùng hô vang dậy: Hitler, c’est l’Allemagne. Hitler, chính là nước Đức.
Hitler với cuốn Mein Kampf đáp ứng những nguyện vọng ấy. Theo Hitler, chỉ có sức mạnh bạo tàn giải cứu được nước Đức. Dân tộc Đức là một giống dân phải tìm lại được cái nguyên chất (pureté) của nòi tộc. Muốn thế, cần phải tẩy trừ những giống dân ngoại tộc làm vấy bẩn nòi tộc..Phải làm thế nào cho quân đội Đức hiểu rằng họ là những thành phần tinh hảo không bao giờ bị khuất phục.(Invincibilité). Muốn thế, phải tái võ trang. Chính cái lòng ái quốc, tài ăn nói của Hitler đã quy tụ dân Đức thành một khối..
Hơn ai hết, W. ChurChill hiểu được con người thực của Hitler. Hiểu được Hitler là biểu tượng của điều xấu, tồi tệ nhất.(Incarnation du mal) với những tham vọng mang tính cách hủy diệt như ngày tận thế,(Apocalyptique)
Cho nên, những thông tin về việc tái võ trang quân đội Đức đều được phúc trình đầy đủ về bộ Tham quân sự của Pháp.Tướng Pétain là người hiểu rõ hơn ai hết về sức mạnh hàng đầu của việc võ trang. Thắng Đức trong thế chiến thứ nhất là nhờ chiến xa và súng chống chiến xa của Pháp. Vì thế nước Pháp phải sản xuất cho bằng được những chiến xa kiểu mới như BI đang trong giai đoạn thử nghiệm để sản xuất và những súng chống chiến xa 47 được cho biết là tối tân nhất thế giới.
Pétain lúc ấy là bộ trưởng bộ chiến tranh, năm 1934, đã có đủ các sơ đồ, bản vẽ, các bản dự toán, tất cả các chi tiết kỹ thuật, tất cả các mẫu mã của những chiếc chiến xa BI.. tân tiến nhất trên bàn giấy của ông. Nhưng ông giảm chi tiêu quốc phòng từ 630 triệu xuống còn 400 triệu, 20% ít hơn. Cuối cùng chỉ có phần nhỏ các chiến xa được sản xuất.[13].
Đức đã chế tạo loại súng 130 ly mà tầm bắn xa là 14 kilômét, trong khi quân đội Pháp vẫn xử dụng loại súng cổ điển 75 ly mà tầm bắn khoảng 8 đến 9 cây số.
Rất tiếc, người hùng của trận Verdun đã rơi vào tình trạng bi quan và bị động. Khi còn ở Tây Ban Nha, ông chỉ lo chống lại sự tuyên truyền của Đức bôi nhọ nước Pháp. Mặc dù hơn ai hết, thống chế Pétain hiểu rất rõ, mối nguy hiểm sống còn giữa nước Đức và nước Pháp.
Ông không dám can đảm và công khai báo nguy những mối hiểm nguy vốn tiềm tàng như một mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc.Thái độ của Pétain đối với cuộc chiến giữa khối đồng minh và Đức là thái độ trung lập.
- Cũng vậy, những nhà lãnh đạo Việt Nam hơn ai hết cũng phải hiểu rõ về mối liên hệ Trung-Việt như thế. Phải dám vứt bỏ hết những lời lẽ nịnh nọt, giả dối.Tiếc thay phần đông đã phát biểu những ngôn ngữ hai mặt, mập mờ, tránh né bất cứ một liên hệ xa gần đến Trung Cộng trong đó che dấu một thái độ hèn nhát.
- Và thái độ nhún nhường trong ngôn ngữ ngoại giao được coi là một sự sự khôn ngoan. Phần đông các lời tuyên bố công khai đều theo nguyên tắc này. Điều đó cho thấy họ thiếu một truyền thống trọng danh dự, tôn trọng sự thật lẽ phải vốn làm nên bản sắc văn hóa dân tộc như một Nguyễn Trãi…
- Cũng vậy, những nhà lãnh đạo Việt Nam hơn ai hết cũng phải hiểu rõ về mối liên hệ Trung-Việt như thế..Đó là một nền ngoại giao đi căng giây có từ thời Hồ Chí Minh, giữ mối giao hảo và cân bằng sức ép giữa Trung cộng và Liên Xô..
- Và giống như Pétain, họ rơi vào tình trạng liệt vị để những tham vọng chính trị vượt khỏi tình tự dân tộc, đất nước. Và họ đã nhận kẻ thù số một làm kẻ bảo hộ của họ trong chiến thắng 1975.
Trở lại câu chuyện nước Pháp. Thế rồi cuộc chiến tranh xâm lược trong thế chiến hai của Hitler hầu như không tránh được.
Không lạ gì rạng đông ngày 17 tháng sáu, Hitler còn đang đặt Tổng hành dinh của ông tại một làng nhỏ bên Bỉ thì nhận được giấy xin đình chiến của Thồng chế Pétain. Đây là hiệp định đình chiến với Đức như một thứ giây thòng lọng siết cổ dần những kẻ có tinh thần chủ bại (défaitiste) tính toán, hoặc thái độ trông chờ một cách bất lực, (attentiste) hy vọng sự tiếp tay của người Mỹ và nhất là thái độ khôn ngoan xảo quyệt(Machiavélisme), tính toán nhượng bộ chính trị để tránh phải đương đầu trực diện với Đức và chờ cơ hội.
Mãi khi Pétain ra tòa thì các sự kiện lịch sử thời Đức chiếm đóng mới dân dần được tiết lộ nhờ vào một số tài liệu do phụ tá của Pétain viết- ông Abetz trong Memorandum- như một thứ nhật ký từng ngày của Đoàn Thêm sau này ở miền Nam..Và sau cùng là công sưu tập của Raymond Tournoux trong cuồn Pétain et la France..
Tài liệu tiết lộ sau này cho thấy những người như Darlan đã phản bội đất nước như thế nào.
Darlan, một viên tướng phản bội lại quyền lợi nước Pháp, làm tay sai cho giặc
Nước Pháp qua Darland đã trình bầy về sách lược phải ngả về với Đức bằng cách tương nhượng. Theo Darland:
- Cái cơ may cuối cùng của chúng ta là sáp gần lại với Đức.
- Nếu chúng ta nghiêng về phía người Anh, nước Pháp sẽ bị tiêu diệt và phân xẻ ra từng mảnh và không còn tồn tại như một quốc gia nữa
- Nếu chúng ta áp dụng thái độ đi giây, nước đôi( Politique de bascule) với cả hai, nước Đức sẽ gây cho chúng ta muôn vàn khó khăn khó có thể giữ được chủ quyền. Trong mọi tình huống, chúng ta không thể có được hòa bình, ổn định.
- Nếu chúng ta chấp nhận hợp tác với người Đức chống lại người Anh, có nghĩa là chúng ta làm việc cho họ trong các nhà máy của chúng ta, cung cấp cho họ những phương tiện thì chúng ta có thể cứu vãn được nước Pháp, giảm thiểu đến tối đa các thiệt hại về lãnh thổ, lãnh thổ chính quốc và các thuộc địa, đóng vai trò xứng đáng nếu không phải là quan trọng trong một Âu Châu tương lai.
Và Đô Đốc Darland kết luận: Chọn lựa của tôi là dứt khoát và tôi sẽ không thay đổi lập trường chỉ vì một tầu chở lúa mì hay một tầu chở dầu.(có nghĩa là nhận sự trợ giúp của Hoa Kỳ).[14] Và dưới cánh của Pétain là những thành phần xu thời, trở cờ như Pierre Laval, Darlan. Những người này sẵn sàng làm tay sai cho Đức với giá trẻ.
- Tinh huống của Darlan là tình huống của lãnh đạo cộng sản bây giờ. Theo Tầu, quỵ lụy làm tay sai Tầu hay dứt khoát bắt tay với Mỹ, với Nhật. Chọn con đường sống hay con đường chết. Chọn tương lai dân tộc hay chọn quyền lợi đảng, quyền lợi cá nhân.
- Phải chọn lựa và đây là cái giá của sự chọn lựa!!
Thật ra, vì quyền lợi cá nhân, Darlan đã ve vãn Hitler và hy vọng có thế thay chỗ của thống chế Pétain. Điều này do chính Pétain tiết lộ. Darlan đã chọn lựa theo Đức và ký những thỏa hiệp nhượng bộ cho Đức như sau đây:
Đô đốc Darlan đã ký một biên bản tại Paris cho phép Đức được xử dụng các phi trường ở Irak và Syrie.. Cứ hết nhượng bộ này đến nhượng bộ để đổi lấy hai chữ bình an. Một cách nào đó thì đây là những kẻ lãnh đạo bán nước phải bị treo cổ. Chúng đã để cho Hitler xây dựng được một căn cứ tiếp liệu phục vụ cho chiến tranh với 500.000 chuyên viên, thợ thuyền phục vụ sản xuất cho nhu cầu chiến tranh của Đức tại chính nước Pháp. Mỗi ngày có 1500 toa tầu chở hàng hóa đủ loại ra khỏi nước Pháp. Mà một số lớn những toa tầu ấy không bao giờ quay trở lại..
Theo phúc trình của Abetz- Mémorandum d.Abetz - một phụ tá của tướng Pétain- cho thấy, nước Pháp phải cung cấp số lượng thực phẩm đồ sộ để nuôi từ 500.000 người đến 1.500.000 người. Hằng ngày, quân lính Đức tiêu thụ một phần ba số thịt, cá và rau cỏ của nước Pháp. Còn lai hai phần ba số thực phẩm đo để nuôi 39.500.000 người Pháp.
Ủy ban đình chiến Wesbaden, do tướng Doyen cũng đã gửi một lá thư phản kháng lên tướng Đức Volg muốn đòi lại 85.000 toa tầu đã được chuyển giao cho Dức ‘ mượn’ và 25 ngàn toa tầu ở vùng Alsace-Lorraine đã không bao giờ được hoàn trả. Chưa kể 6300 xe hơi chở khách của Pháp được giữ lại ở bên Đức.[15]
Về việc đòi lại các toa xe lửa, phúc trình của viên phụ tá Abetz của Pétain ghi lại như sau:
Trong dịp hội kiến với Goering, Pétain đã yêu cầu trả lại 800.000 nông dân bị bắt làm tù binh cho Đức. Pétain cũng đòi lại những toa xe lửa chở hàng sang Đức. Những toa xe lửa không được trả lại chiếm một phần ba số lượng toa xe lửa của nước Pháp..
Việc đòi trả lại này hẳn là không đi đến đâu và không bao giờ những toa xe lửa ấy có dịp quay lại nước Pháp.
Darlan tin tưởng rằng một trật tự mới Ordre nouveau sẽ do Hitler điều khiển. Và Darlan tin chắc rằng Anh quốc sẽ bị Hitlet xâm chiếm trong vòng năm tuần lễ. Và ngay cả trong trường hợp chưa bị xâm chiếm thì nó cũng sẽ chết ngạt không lối thoát. Vì vậy, Hải quân Pháp sẽ bằng mọi giá không trao vào tay Đức, nhưng cũng không bao giờ giao cho hải quân Anh. Và dưới cánh của Pétain là những thành phần xu thời, trở cờ như Pierre Laval, Darlan. Những người này sẵn sàng làm tay sai cho Đức với giá trẻ.
Kết lụận, nước Pháp trở thành con tin giữa các nước đồng minh và Đức và nước Pháp trong vùng tạm chiến trở thành nguồn cung cấp vật tư cho quân đội chiếm đóng..
- Sự bất công giữa hai đối tác giữa kẻ chiến thắng và kẻ bại trận phần nào giống như mối tương giao thương mại bất bình đẳng- cán cân thương mại thâm thụt về phía Việt Nam và trung Quốc. Càng sát lại gần Trung Quốc càng lệ thuộc vào nguồn cung cấp nguyên liệu của Tầu cộng. Và cứ như thế, tình trạng sẽ kéo dài được bao lâu nữa?
- Trong khi đó, Hitler, trong cuộc gặp gỡ với Darlan đã phủ dụ với những lời hứa hẹn viển vông như sau:
“Hitler nhấn mạnh rằng, ông ta không có một tham vọng quân sự nào và tuyên bố một cách thành khẩn rằng những chiến lợi phẩm thắng được trong một cuộc chiến thì không bao giờ bù lại được những mất mát. Và ông không có một tham vọng hành xử như một bạo chúa đối với nước Pháp (..). Đồng thời ông mong mỏi có sự thống nhất Âu Châu và điều đó cho phép Darland có thể có cơ hội nhờ nước Đức tổ chức bảo vệ lục địa Âu Châu. Tuy nhiên, rõ ràng là số phận Anh Quốc phải được giải quyết một cách rõ ràng.. Hitler nói thêm, nước Pháp cần bằng mọi cách giúp nước Đức đạt được mục đích này..Nước Pháp có thể bắt đầu một cách khiêm tốn giúp nước Đức trong lãnh vực kinh tế và hợp tác với Đức trong vấn đề Syrie. Và nước Pháp nếu đi theo con đường này thì cũng yêu cầu Đức nhượng bộ để làm cho sự hợp tác này có thể chấp nhận được với dân chúng Pháp.
- Giống như Trung cộng bây giờ, Hitler và Phát Xít Đức vừa đánh trống vừa ăn cướp. Hit ler la hoảng rằng: Nước Đức bị bao vây. Nước Đức chỉ là thành lũy chống lại bọn Bôn Sơ Vích. Nước Anh tiến hành một cuộc chiến tranh để cướp đi cái quyền tồn tại của nước Đức..
- Vừa phủ dụ, vừa đe dọa, vừa hứa hẹn!! Việt Nam chẳng khác gì hoàn cảnh một đứa con gái ngồi phải cọc.
Trong khi đó tài liệu mật tịch thu được cho biết, ngay từ năm 1939, Hitler định xử dụng 1000 phi cơ tấn công nước Anh, trong đó mỗi phi cơ cho thả dù 4 lính nhảy dủ nhốt trong một thùng sắt khép kín. Khi được thả xuống đất, những người lính nhảy dù này sẽ tổ chức cho 200 phi cơ cỡ lớn chở theo vũ khí nhẹ và súng đạn.. 4000 lính nhảy dù này rất có thể bị hy sinh, nhưng sẽ gây được một ấn tượng không nhỏ. Việc thực tập này đã được thao diễn ở Berlin với 1000 phi cơ và 400 lính dù. Có 65 lính dù nhảy xuống đất đã bị chết vì va chạm mạnh. Một số các trang bị vũ khí đã bị hư hại bất khiển dụng.[16]
Việc tấn công sang Anh gặp quá nhiều trở ngại và Hitler đã đổi hướng quyết định tấn công sang Liên Xô.
Quan điểm này của Darlan cũng được Pétain và chính phủ của ông đồng ý.
Pétain còn lo sợ một sự thỏa hiệp giữa Đức và Anh sẽ biến nước Pháp bị cô lập . Nhìn lại thỏa hiệp cho thấy có điều khoản là các tàu của hải quân Pháp phải được tập trung vào các cảng đã được chỉ định dưới quyền kiểm soát của Đức hoặc của Ý. Cũng trong những điều khoản được ghi trong thỏa ước, người Pháp phải trao trả mấy trăm phi công Đức bị bắt từ hồi 1939..Đây là những điều khó có thể tha thứ cho Darlan và Pétain được.
Tài liệu sau này đồng minh bắt được cho thấy sự thông đồng của Darlan với Đô đốc Raeder của Đức. Darlan đã chia xẻ những quan điểm chiến lược với Hải quân Đức và sẵn sàng hợp tác trong mọi tình huống. Ngày này đọc lại phúc trình của đô đốc Raeder, người Đức với Darlan, người ta không thể nào tránh khỏi cảm giác khó chịu và bực bội. Mặc dầu, Darlan đã bị ám sát chết, tướng Weygand trong cuộc điều trần trước Quốc Hội điều tra tội phạm tứ 1933 đến 1945 đã kết án nặng lời cả Darlan và Laval.
Laval, kẻ phản bội thứ hai của nước Pháp
Nhưng Pierre Laval còn tệ hơn Darlan một bậc. Laval bày tỏ sự hợp tác với Đức một cách công khai, lộ liễu, với một cung cách thật hèn hạ. Ông ta tin rằng thắng lợi cuối cùng thuộc về nước Đức. Vì thế, vào ngày 20 tháng 10 năm 1940, Hitler nhận được một lá thư của Laval gửi với nội dung bày tỏ lòng biết ơn của ông như sau:
Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu xa tới ngài và cám ơn vị đại sứ của ngài đã đến thăm tôi tại Chanteldon, Vichy. Tôi tin rằng việc bắt giam tôi sẽ mau chóng được thả ra và chính ngài mà tôi bày tỏ lòng biết ơn do sai lầm nặng nề của chính quyền Pháp..
Chính sách hợp tác với Đức được đa số dân chúng Pháp ủng hộ.. Và nhiều người tin rằng đây là giải pháp duy nhất mà mọi người phải theo..Sự hợp tác này phải tỏ ra sự trung thành, không nước đôi và không có hậu ý. Chính vì thế, tôi đã hiểu như thế và đã áp dụng.. Không gì vĩ đại, không gì có thể bền vững có thể thực hiện được nếu chỉ bằng tính cách hai mặt..
Tôi yêu đất nước tôi và tôi tin rằng do quá khứ của nó, nó sẽ có một chỗ xứng đáng trong một Âu Châu mới mà ngài đang xây dựng.[17]
- Những lá thư nội dung như trên biết đâu sau này sẽ được người Tầu công bố như trường hợp những lời tuyên bố nịnh bợ giả dối của một Phùng Quang Thanh và nhiều lãnh đạo khác!!
Trong nhiều dịp khác, Pierre Laval còn tuyên bố nhiều câu đến vô sỉ: Lãnh tụ Hitler là một nhân vật vĩ đại, vì ông biết rằng, ông không thể kết hợp được một Âu Châu mà không có nước Pháp. Hoặc nếu Đức và Pháp hợp tác tạo thành Âu Châu thì Đức sẽ thắng trận. Tôi mong muốn Đức thắng trận , vì nếu không có họ thì trong tương lai bọn Bôn Sơ Vích sẽ có mặt khắp nơi.
Trong thời kỳ Đức chiếm đóng nước Pháp, Laval đã trực tiếp dính dáng vào việc bắt giữ lưu đầy những người Do Thái. Trong đó có 22.000 người Do Thái mà 40% là Do Thái gốc Pháp.Và hàng vài chục ngàn người Do Thái ngoại quốc sống trên đất Pháp
- Nếu Laval biết số phận của những người Do Thái này ra sao khi dời nước Pháp, hoặc sang Ba Lan, hoặc được đầy sang Liên Xô thì ông ta sẽ nghĩ gì?
- .Laval cũng là người trách nhiệm tổ chức hằng nửa triệu công dân Pháp bị bắt buộc phải đầy sang Đức làm việc. Tháng 11, năm 1940, Laval đã giao số vàng của ngân hàng nước Bỉ gửi nước Pháp cũng như nhượng lại những cổ phần của nước Pháp về những mỏ đồng ở Bor, Nam Tư.[18]. Đây là thứ nguyên liệu chiến lược cho việc đúc đạn dược cho chiến tranh.
- Laval đã phạm vào những lỗi lầm phản quốc không thể tha thứ được.
Khi mà chiến cuộc đã ngả về phía thuận lợi cho đồng minh, ông cùng với Pétain bị Hitler đưa về Đức, vùng Belfort. Cho đến khi bị giải ra tòa án tối cao, Laval vẫn tin rằng mình làm những điều có lợi cho nước Pháp. Tiết kiệm được xương máu. Tiết kiệm được tiền bạc. Người Pháp không bị phá sản. Kho vàng vẫn còn đó, các xí nghiệp kỹ nghệ vẫn hoạt động.
Ông cho rằng 4 năm dưới sự chiếm đóng của Đức thì ít tốn kém hơn 3 tháng chiến tranh.
Và ông tin rằng một ngày nào đó, người dân Pháp sẽ nhỉn nhận ra ông là người có ích cho xứ sở.
Ông bị tòa án tối cao Pháp kết án tử hình về tội phản quốc và sau đó bị đem ra xử bắn ngày 15 tháng 10 1945.
- Có bao nhiêu cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng cần phải ra tòa và chịu xử bắn như Laval vì đã phạm tội phản quốc, làm tay sai cho tầu?
- Có hàng triệu đảng viên đảng cộng sản mắc tội tham ô, nhũng loạn!! Đã có một người nào bị xử bắn?
Tướng Pétain, công hay tội của ông với nước Pháp ?
Phần tướng Pétain thì có nhiều chi tiết cần phải nói rõ hơn. Dưới quyền ông lúc bấy giờ có khoảng 2000 người gồm có lính canh phòng và hiến binh bảo vệ ông. Ông đã chối từ không chịu ra đi theo lệnh của Hitler. Ông thề sẽ ở lại trừ khi được đưa về Paris. Hitler đã dọa nếu không chịu ra đi, y sẽ cho máy bay Stukas và pháo binh oanh tạc nát Vichy.. Nghĩ tới đàn bà và trẻ con bị chết oan vô tội, ông đành thúc thủ sang Đức..Đồng thời ông cũng gửi thư chúc mừng tướng De Gaullle và yêu cầu mọi ngưởi theo De Gaulle..Ngày 26 tháng sáu 1944, ông cũng gửi đến Tổng thống Mỹ được viết trên một miếng vải dù và khâu trong một chiếc áo vét để có thể vượt qua biên giới Pháp để đến tay ngoại trưởng Allen Dulles.
Sau khi đồng minh thắng trận, ông được giải cứu và sang Thụy Sĩ. De Gaulle không muốn đưa ông về nước để tránh mọi rắc rối chính trị và pháp lý.
Nhưng Pétain quả là người quá chu đáo. Người ta còn nhớ ông còn yêu cầu Thụy Sĩ chuyển ông về Pháp để ông có thể đối chất với tư cách của một người cầm đầu có trách nhiệm.. Ông bị giam giữ ở Montrouge. Ông Chết sau vài năm và khi chết cũng vẫn được một số người quý mến và tiễn đưa ông.
Về Pétain, ông là loại chính trị gia quỷ quyệt, mánh lới, mưu mẹo, kiên trì. Ông là thứ cáo già-một thứ nửa nạc nửa mỡ- một trò chơi hai mặt, đi giây-sát với ranh giới của sự phản bội.
- Tôi thật sự kinh ngạc về con người ông mà kẻ có thể so sánh với ông không ai khác là Hồ Chí Minh.
- Pétain chỉ còn thiếu điều mặc một bộ đồ của Đức Quốc Xã là trọn vẹn. Và ông sẽ giống như một Hồ Chí Minh mặc bộ đồ lãnh tụ kiểu bốn túi như Mao Trạch Đông
Khi đồng minh sắp sửa đổ bộ lên đất Pháp, thống chế Pétain còn đủ cái hèn hạ mất danh dự khi ông gửi dân Pháp một thông điệp tạm dịch sau đây vào ngày 28 tháng tư, 1944, hai tháng trước khi đồng minh đổ bộ:
‘ Quốc dân đồng bào, cái được gọi là giải phóng chỉ là một sự lừa phỉnh về một ảo tưởng mà đồng bào sắp chịu nhường bước chấp nhận. Cái ảo tưởng ấy cũng là điều đã thúc đẩy những người Pháp đã phủ nhận những lời nói và lời tuyên thệ để hy sinh cho một thứ ái quốc giả hiệu mà chúng ta đã có dịp chứng kiến những gì đã xảy ra ở Bắc Phi.. Lòng ái quốc chân chính phải được thể hiện bằng một sự trung thành toàn diện. Những ai đó, từ xa xôi, đã tung ra những quân lệnh tạo ra sự rối loạn đã muốn lôi kéo nước Pháp vào vào một cuộc phiêu lưu mới mà mục tiêu thật là đáng ngờ vực. Hỡi Quốc dân đồng bào, bất kể là ai, là công chức, quân đội hay chỉ là một dân thường đang tham dự vào các nhóm kháng chiến là đang làm nguy hại đến đất nước.[19].
Quá chán nản và ê chề trước lời tuyên bố của Pétain, viên sĩ quan tùy viên, đại tá Longeau Saint-Michel đã xin từ nhiệm và gia nhập quân đội bí mật.
Nhận được lời hiệu triệu của Pétain, De Gaulle chỉ còn biết đưa ra nhận xét: Tuổi già là một sự suy sụp không tránh khỏi.
Sợ viên tướng cáo già bị đồng minh bắt, Hitler ra lệnh dẫn giải ông ta về vùng Paris, ở lâu đài Voisins vào ngày 7 tháng năm..Có 12 xe mật vụ Đức dẫn đường. Phải chăng đây là chặng đường cuối cùng của một kẻ phản quốc?
Mỗi người trong bọn ba người trên ngả theo Đức theo cách thức của họ. Pétain cũng chẳng ưa gì Laval, cũng như Darlan.. Sự ngả theo Đức như một thứ bầy tôi đã tự nó quyết định số phận chính trị của Laval.. Ngày 3 tháng 12, 1940 tại Marseille, Pétain đã triệu tập một phiên họp nội các và loại trừ Laval. Nhưng chỉ hai năm sau Laval lại được dùng lại.
Sau này, Pétain chỉ đơn giản nói: Con người ấy( Laval) đã phản bội chúng ta. Tôi không còn muốn thấy sự có mặt của y nữa.[20]
Nói cho cùng ngay chính bản thân Pétain đều cho thấy những tính toán ảo tưởng quá tự tin, cao ngạo về một quá khứ đi tìm một thứ hòa bình thỏa hiệp( Paix de compromis). Hòa bình thỏa hiệp thực sự chỉ là thứ hòa bình ký trên tờ giấy trắng, thứ giấy lộn để cho Đức mặc sức tung hoành. Và dưới cánh của Pétain là những thành phần xu thời, trở cờ như Pierre Laval, Darlan. Những người này sẵn sàng làm tay sai cho Đức với giá trẻ.
- Ngày nay, người ta tự hỏi Hiệp định đình chiến với Đức có khác gì công hàm ngoại giao của thủ tướng Phạm Văn Đồng?
- Tệ hại hơn nữa, sau này trên tờ Sài Gòn Giải phóng số ra ngày 3 tháng năm 1976- nghĩa là tám năm sau- cũng đã công khai xác nhận quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Quốc:Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là ông thầy tin cẩn, đã cu7 mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có đuộc nga2yb hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi. Trung Quốc với ta là là hai nước sông liền sông, núi liền núi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại quần đảo này. Trung Quốc sẽ sẵn sàng trao lạị.
- Và chối cãi làm sao được, ngày 26 tháng tư, 1988, tờ Nhân Dân tự biện hộ cho việc giao nộp lãnh thổ cho tầu cộng viết như sau:Đúng là có những lời tuyên bố đó. Cần phải đặt lại những lời tuyên bố này trong bối cảnh lịch sử của nó..Trong cuộc chiến đấu một mất, một còn, chống một kẻ thù xâm lược có một sức mạnh quân sự lớn hơn mình nhiều. Việt Nam tranh thủ được Trung Quốc gắn chặt với cục diện chiến đấu của Việt Nam càng nhiều bao nhiêu và ngăn chặn Mỹ xử dụng hai quần đảo cũng như vùng biển Đông, chống lại Việt Nam, thì càng tốt bấy nhiêu.[21]
- Vậy mà ngày nay, không một ai đủ can đảm và trung thực dám nhìn nhận tội phạm tầy trời của Phạm Văn Đồng và còn cố tính bao che, cãi chầy cối về nội dung công hàm ấy.Những người như ông Nguyễn Khang, đại sứ VNDCCH nay nếu còn sống phải lên tiếng về vụ chính tay ông trao công hàm cho Cơ Bằng Phi, thứ trưởng bộ ngoại giao Trung Quốc..
- Việc ông thứ trưởng Lê Công Phụng- người trực tiếp bàn thảo và ký hai hiệp đinh: Hiệp định phân định vịnh Bắc bộ và Hiệp Định Hợp tác nghề cá giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc bộ cho đến nay chẳng mấy ai nắm được.
- Tờ L’Express, số phát hành ngày 24-1-2002 đăng một bài của ký giả Sylvain Pasquier, nhan đề: Chine-VietNam: Le scandale des frontières. ( Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam, vụ bê bối về biên giới. Bài báo mở đầu: Mặc cả bỉ ổi, phản bội tột đỉnh.( Marchandage odieuse-haute trahison). Cũng theo bài báo, Hànoi đã để mất 10.000km2. Ký giả Pasquier kết luận: một số viên chức ngoại giao tham dự cuộc đàm phán với Trung Quốc tiết lộ rằng họ họ đã bị sức ép ghê gớm của những nhà lãnh đạo thân Trung Cộng..[22].
- Nhiều người như các Hoàng Minh Chính, Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, luật sư Nguyễn Hữu Thống cũng như những bài phỏng vấn ông Lê Công Phụng của Thụy Khuê, R.F.I vv Tất cả đều đưa đến những kết luận mù mời mà cho đến nay không hiểu đã mấy ai nắm được sự thật. Như Chế Lan Viên mỉa mai, từng biết là bánh vẽ mà vẫn chia nhau ăn. Những huyền thoại ấy đã một thời lừa được cả thế giới, lừa được cả một dân tộc như các huyền thoại: huyền thoại cứu nước, giữ nước, dựng nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, huyền thoại giải phóng miền Nam, huyền thoại đế quốc Mỹ xâm lược, huyền thoại Hồ Chí Minh anh hùng dân tộc. Có bao nhiệu sự việc, có bao nhiêu biến cố thì có bấy nhiêu huyền thoại được dựng lên, được che dấu, được bôi vẽ.
- Nền đệ tam cộng Hòa Pháp Quốc đã ung thối, đã bị phá sản thì có khác gì cái đảng cộng sản hiện nay? Nó thối tha xông mùi gấp10 lần.
- Cũng cái giá ấy, người cộng sản phải trả sau 1975 mà không bao giờ họ chịu nói ra: Trả bao nhiệu những món nợ cho xe tăng, đại pháo, chiến cụ, lương thực cho Tàu và Nga? Công hàm của Phạm Văn Đồng ký ngày 14 tháng 9, 1958 là để trả một giấy nợ. Vì không có tiền để trả nợ- nợ súng ống, quân trang, quân dụng- xe tăng, đại pháo- nên buộc phải bán đất? Và thời điểm 1958 mang ý nghĩa gì?Và làm sao một công hàm quan trọng như thế nay chỉ một mình Phạm Văn Đồng chịu trách nhiệm? Đằng sau Phạm Văn Đồng là những ai?Nay đã đến lúc cần bạch hóa và hài tội tất cả những kẻ bán nước như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp..trong bộ chính trị.
- Phạm Văn Đồng không đủ đảm lược để bán nước một mình.
- Nếu mọi người cứ vẫn tiếp tục không dám nói hết sự thực về công hàm Phạm Văn Đồng và tiếp tục im lặng không dám lên tiếng thì được kể như đồng lõa.
- Phẩn nhân dân miền Nam, nửa phần đất do VNCH trước 1975- chúng tôi thành thực nói thẳng là không muốn chia xẻ trách nhiệm bán nước nhục nhã này. Nhân dân miền Nam trước 1975 và bây giờ ở hải ngoại không thể trả một món nợ mà họ không vay. Đảng cộng sản Việt Nam phải công khai nhận trách nhiệm và trả lấy một mình.
- Từ những năm 1945 đến nay.. Họ đã ký biết bao nhiêu hòa ước với Pháp cho đến hiệp định Genève, Hiệp ước Trung lập Lào, sau nay hiệp định đình chiến với Mỹ. Họ cũng đã ký bao nhiêu thỏa ước gia nhập các tổ chức quốc tế!! Cái gì họ cũng ký miễn có lơi. Ký rồi xóa bỏ, chỉ coi tất cả đó là những tấm giấy lộn, ký rồi dẫm đạp lên, vi phạm trắng trợn.
- Nhưng trong số những mảnh giấy lộn ấy chỉ có cái công hàm Phạm Văn Đồng thì quả thực không phải là tấm giấy lộn. Đó là văn bản bán nước mà Trung cộng bắt thi hành cho bằng được. Gian tham, lừa lọc, dối trá lắm thì cũng có ngày mang họa!!.
- Phần nhân miền Nam, nửa phần đất nước do VNCH trước 1975 đảm nhận, họ đã làm hết trách nhiệm của mình trong việc chống trả lại quân cướp Tàu. Họ đã thua, thua trong danh dự. Không có lý gì họ lại phải về hùa bênh vực, chia xẻ trách nhiệm bán nước của lãnh đạo cộng sản.
- Họ không thể oằn lưng ra trả một món nợ mà họ không vay.
- Đảng cộng sản phải tự nhận lấy trách nhiệm trả một mình.
- Họ cũng không cần phải phục hồi danh dự cho những tử sĩ ngoài Trường Sa, vì việc đó tỏ ra quá muộn, có tính bôi bác.Tôi cũng được nghe kể lại, trong chiến dịch thăm viếng đảo Trường Sa. Hướng dẫn viên còn chỉ một tấm bia do VNCH xây dựng và nói rằng: Bằng chứng là bọn ngụy đã xây dựng bia này trước 1975..Người tổ chức buổi thăm viếng này có ý tốt muốn tưởng niệm các chiến sĩ VNCH như những liệt sĩ, ông liền bị một số người yêu cầu đem ra xử bắn vì đề cao ngụy.
- Tâm lý ấy cho thấy họ chỉ sợ Tầu thôi. Còn Mỹ hay ngụy hay ai khác họ đều coi như bỏ.
- Chính vì thế, những điều huyênh hoang tố cáo Trung cộng của Nguyễn Tấn Dũng mà nhiều người trong nước không tin. Tôi cũng không tin. Nguyễn Tấn Dũng chưa hề có một quyết định cụ thể nào như kiện Trung cộng. Đừng nghe những gì Nguyễn Tấn Dũng nói mà hãy xem những gì Nguyễn ấn Dũng làm. Việc cụ thể mà Nguyễn Tấn Dũng là lo tương lai chop hai thằng con trai, cài đặt vào những chức vụ để một ngày nào đó thay thế thằng bố của chúng.
- Cho nên trước khi muốn chống Tàu, cần can đảm phải giải quyết nội bộ, phải bạch hóa tội phạm. Và có lẽ không bao giờ chúng ta hy vọng được biết đến những bí mật trao đổi ấy cả. Mất đất, miển biển sau này cũng nằm trong án phí chiến tranh thắng Mỹ?
Phần toàn dân tin tưởng và ăn bánh vẽ. Có lẽ đây là điều khác biệt giữa thái độ của dân VN và dân Pháp. Dân Việt Nam chịu đựng, dân Pháp bất mãn.
Sự nhượng bộ ký hòa ước đình chiến của Pétain có khác gì hoàn cảnh Việt Nam bây giờ? Lập trường chính trị của Pétain là nhượng bộ, dằng co để chờ: chờ Mỹ ra tay giúp đỡ một cách vô vọng. Vì lúc ây, chính sách của Mỹ vẫn là thái độ không can thiệp. Đúng hơn, đó là một chủ trương biệt lập chủ nghĩa.(Isolationisme).(Lúc ấy chưa có một chính sách một trật tự mới. (Ordre nouveau).
Chủ trương biệt lập của Mỹ chẳng những làm Pétain và nước Pháp tuyệt vọng mà cả Âu Châu sợ hãi. Thụy Điển sợ quá, vì đã có bảy nước bị Đức chiếm đóng đành nhường cho Đức mọi phương tiện chuyên chở chiến cụ để đổi lấy sự an toàn lãnh thổ.
Âu Châu rơi vào tình trạng hoảng loạn..
Nhưng mặt khác, Pétain lại phải ra mặt chống đối các phong trào kháng chiến chống Đức, kết án De Gaulle để xoa dịu Hitler.[23] .
- Việc này có khác gì chính quyền cộng sản nhượng đất, nhượng biển và cấm dân chúng không được biểu tình chống Trung Cộng, bắt giam tù những người biểu tình và đánh đập dã man người đi biểu tình ở ngoài đường phố.Năm 2013, có 63 thường dân bị bắt giam tù vì tội chống Trung Cộng.
- Tình thế của nước Pháp và toàn thể Âu Châu phải đương đầu với Phát Xít Đức cũng tương tự hoàn cảnh các nước Nhật, Phi Luật Tân và Việt Nam hiện nay đang phải đương đầu với sự gây hấn của Trung Cộng?
- Việt Nam rơi đúng vào hoàn cảnh của Pháp, một hoàn cảnh không lối thoát, chịu đựng áp lực o ép đòi hỏi của Đức, hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác-Nhượng bộ đủ điều cũng không yên-. Còn Nhật và Phi được coi như ở tư thế của nước Anh vì họ vẫn có tư thế độc lập, vẫn có chủ quyền, vẫn có chỗ dựa và dám sẵn sàng đương đầu với Trung Cộng. Nhật cho Mỹ xây dựng một căn cứ quân sự mới. Phi kêu gọi Mỹ tân trang lại ba căn cứ quân sự mà trước đây đã dành cho Mỹ. Phần Việt Nam kêu gọi Mỹ bằng cách nào?
Phần Mỹ giữ vai trò trọng tài như trong thế chiến thứ hai, họ nghiêng về phía nào thì phần thắng về phía ấy và chúng ta chờ xem.
Những người lãnh đạo Việt Nam đang bối rối tìm lối ra. Nhưng lối ra như thế nào để thoát hiểm thì chưa có được.
- Việt Nam hiện nay chỉ khác nước Pháp là thiếu một De Gaulle.
- Chúng ta có thừa những Pétain-nhưng dù sao Pétain còn có cái danh dự của một viên tướng khi ra tòa- nhưng lại thiếu một người lãnh đạo thực sự yêu nước. Ai là người lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay được kể là yêu nước?
- Chúng ta thật lúng túng vì không biết chỉ định ai bây giờ…
Truyền hình Việt Nam hiện nay thì cứ ra rả những tuyên truyền về chiến thắng Điện Biên Phủ để khỏa lấp mọi chuyện. Một Điện Biên Phủ chứ 10 điều ĐBP, 10 Verdun thì làm được gì để giải quyết tình thế!! Mới đây nhất, ngày 16-6-2014, hội cựu chiến binh Việt Nam phát động cuộc thi viêt: Xuân 1975, Bản hùng ca toàn thắng.[24].
Họ lập lại những luận điệu cũ mèm, chống Mỹ cứu nước, tri ân sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế!! Bọn này là những kẻ nội thù, làm tay sai cho giặc Tàu. Phải có những người có can đảm tố giác bọn tay sai cho giặc Tàu ẩn núp trong bộ chính trị, trong các tỉnh thành Việt Nam.
- Tôi nhận thấy hiện nay, thái độ chủ bại, bất động của dân chúng Việt Nam đang chiếm uu thế như thời Pétain. Đó là thái độ bình chân như vại. Thật đáng buồn. Quốc Hội bù nhìn im lặng!! Cái im lặng của sự hèn nhát và bất lực
- .Ngày nay mà còn hô hào khẩu hiệu chống Mỹ cứu nước là một điều ngu xuẩn. Những thành phần bảo thủ này đang thắng thế và đè bẹp tư tưởng tả khuynh của giới trí thức và bất cứ ai muốn có sự thay đổi..
Nhưng xin nói với thành phần hữu khuynh bọn tay sai của Tàu này một thực tế không chối cãi được là:
- Không có Mỹ can thiệp vào Âu Châu trong thế chiến hai thì Âu Châu có thể bây giờ cũng vẫn là một đống đổ nát…
- Những nước nào ‘thắng Mỹ’ thì chỉ có chết, số phận nước ấy thường vẫn trong tình trạng chậm tiến, nghèo đói, lạc hậu như trưởng hợp Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba. Chống chọi với Mỹ là chọn lối ra tử vong như số phận Saddam Hussein của Irak mà ở thế kỷ 15 Irak hãy còn là một tỉnh của Hy Lạp, Muammar Gaddafi tử vong mà đến TT Pháp Sarkozy cũng chẳng cứu được. Và còn số phận các nước Đông Âu xụp đổ là do ai?
- Những nước nào chẳng may ‘thua Mỹ’ như Nhật, Đức, Đài Loan, Nam Hàn, Âu Châu thì nay đều thuộc các nước tiên tiến và phát triển. Cả ba nước Nhật, Đại Hàn, Đài Loan đều phát triển vượt trội và cán cân thương mại giữa ba nước này với Mỹ vào năm 1986 chênh lệch là trên 100 tỉ đô la. Hiện nay, lợi tức đầu người ở Nhật vượt cả Mỹ. Trong số báo National Géographic, tháng 11, năm 1989 dành riêng để nói về Việt Nam, nhan đề: Viet Nam, hard road to peace..[25] Chủ bút tờ báo viết rằng đã 16 năm người Mỹ rút khỏi Việt Nam vẫn cho thấy đây là một trong những vùng đất nghèo nhất khu vực Thái Bình Dương. Trong thời gian 16 năm đó, người Mỹ không có quan hệ thương mại hay trợ giúp gì cho Việt Nam. Trong một bức hình chụp ở cuối số báo giữa phóng viên Peter T. White, phỏng vấn Võ Nguyên Giáp..Ông này nhân dịp này cũng vẫn không quên nói về tính cách thần kỳ của quân đội nhân dân trong chiến dịch thắng Pháp và thắng Mỹ. Peter T. White có nhận xét, họ chỉ lo phô trương, ít ai thực tâm đến những vấn đề cấp thiết như xây dựng và phát triển của đất nước.
- Nếu Mỹ không can thiệp và thắng Nhật thì liệu Viêt Minh và Võ Nguyên Giáp hiện nay ngồi ở đâu!! Đó là bệnh tụ hào vĩ cuồng cần thay đổi cái não trạng.. Cái não trạng cũa Võ Nguyên Giáp cũng là não trạng của Pétain trong thế chiến I. Đó là loại người mang trong mình một thứ tâm bệnh là hoài niệm về một quá khứ vĩ đại. (Nostalgie de la grandeur).
Nhưng tôi thấy rõ ràng trong tình thế hiện nay với những tuyên bố phỉnh phờ che đậy sự hèn nhát, sự nhu nhược, sự bất tài được quàng những hào quang chiến thắng là những màn kịch dối trá trước nguy cơ mất nước.
Ai có thể tin vào những lời tuyên bố mâu thuẫn, nước đôi, che đậy và dối gạt của họ.
Bài học nước Pháp là bài học cho Việt Nam. Gương các lãnh đạo Pháp như Pétain, Darlan, Laval làm tôi mọi cho Đức cũng là bài học cho ban lãnh đạo Việt Nam.Thử thách lớn lao nhất có thể ảnh hưởng tới sự sống còn của Việt Nam hiện nay chính là Trung Quốc. Tôi tự hỏi, người cộng sản vẫn tự hào đánh thắng Pháp, nhất là Mỹ, tại sao lại không dám đương đầu với Tầu? Tâm lý sợ Tầu phải chăng là cần phải loại bỏ.
Tuy nhiên, trong hiện tại, thử thách lớn lao nhất không đến từ Trung Cộng mà từ chính họ.
- Chính họ phải biết loại bỏ những thành phần thân Trung cộng bằng cách tố cáo, loại trừ và thanh trừng.
- Chính họ phải chọn lối ra cho mình. Thay vì quay mặt vào đất liền, họ phải biết xoay mặt ra biển, bắt tay với Nhật và Mỹ.
- Chính họ cần phải biết quản lý những vấn đề chính trị, những tranh chấp một cách kiên định. Nếu họ hèn nhát, nhu nhược như hiện nay thì trước sau cũng mất hết. Họ phải biết tự cứu họ.
Ông Ngô Đình Nhu- Một W.Churchill Việt Nam
Và có cần phải nhắc nhở họ lời cảnh cáo cách đây hơn 50 về trước của ông Ngô Đình Nhu về số phận dân tộc Việt Nam nếu rơi vào tay cộng sản thì sớm muộn cũng bị Tầu cộng nuốt chửng. Ông Ngô Đình Nhu từng cảnh cáo về ranh giới lãnh thổ trong Hiệp định Genève như sau:
“ Điều lợi thứ nhì cho Trung Cộng là một thắng lợi về ranh giới và lãnh thổ..(..) Giả dụ có lui lại đến vĩ tuyến 19 như phái đoàn Pháp yêu cầu, Trung Cộng cũng bằng lòng. Bởi vì dù ranh giới có đặt ở vĩ tuyến 17 hay 19, thì những tham vọng về đất đai của Trung cộng đối với Việt Nam cũng đã thỏa mãn. Như chúng ta đã biết, vùng đất thiết yếu cho nước Tầu là các vùng hai bên sông Nhị Hà, con đường tháo ra biển, thiên nhiên của vùng Tây Nam Trung Hoa. Với thỏa hiệp tại vĩ tuyến 17, thì dù mà ảnh hưởng của Tây Phương có còn ở miền Nam, sự lệ thuộc của chính phủ miền Bắc cũng đủ bảo đảm cho nhu cầu đất đai của Trung Cộng trong tương lai…(…) Việc ấn định ranh giới ở vĩ tuyến 17, vừa xác nhận tham vọng đất đai, bất di bất dịch của Tàu đối với Việt Nam, vừa chứng minh sự lệ thuộc Bắc Việt đối với Trung Cộn.
.
Ông Nhu đã cảnh báo Hà nội như sau:
“Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn là sự đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
Và ông kết luận một cách chắc nịch:
Sở dĩ tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới sự ảnh hưởng của Tây Phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử Nam việt bị Bắc việt thôn tính, thì sự Trung cộng thôn tính Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian..[26].
Cái nhìn viễn kiến chính trị, hiểu rõ sâu sa tham vọng đất đai của Trung cộng và hiểm họa Trung Cộng như một cái nhìn tiên tri của ông Nhu cách đây hơn nửa thế kỷ ngày hôm nay đã thành hiện thực..
- Vậy thì giữa ông Ngô Đình Diệm và ông Hồ Chí Minh nay đã đến lúc cần đặt ra, giữa hai người, ai là người yêu nước, ai là người bán nước? Không lẽ chúng ta cứ tiếp tục cúi lạy một người để quyền lợi đảng trên quyền lợi dân tộc. Trần Đức Thảo, tác giả tập sách nhỏ: Con người và chủ nghĩa lý luận không có con người- cuối đời – hơn ai hết hiểu rõ cộng sản và cũng hơn ai hết có đủ tư cách nhận xét về Hồ Chí Minh. Ông là một nhà trí thức hàng đầu của Việt Nam và thế giới đã chịu đựng sự chà đạp trù dập một cách có hệ thống nhất đến mất hết nhân phẩm trong suốt một cuộc đời. Lời nhận xét của ông là sự đúc kết chứa đựng sự tủi nhục và ai oán đến lúc cuối đời mới nói ra được. Nó là một chúc thư thời đại, đại diện cho tầng lớp trí thức đã đưa ra nhận xét rằng: Napoléon, Hitlet cũng có tâm thức tự cao, nhưng không gian trá đến mức tinh quái để có những hành động muôn hướng, muôn mặt trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Hoa.(..) Ông viết tiếp về Sài gòn sau 1975: Cả con người và xã hội ở đây đã không hề được giải phóng, vca2 thật là vô lý và nhục nhã khi so sánh với chế độ cũ. Ông Nhận xét, tư hữu kiể cũ do làm cần cù, tích lũy mà có được; tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký và quyền lực[27].
- Nếu nhìn theo viễn cảnh địa-chính trị (géo-politique) hiện nay. Họ không có cơ hội ngăn chặn Trung Cộng trên đất liền nữa mà nay không gian chiến trường trên là trời, dưới là nước. Họ có khả năng bảo vệ đất, nhưng nước thì nay họ đành bó tay bất lực. Chỉ cần 8 phút thì máy bay phản lực Trung cộng đã bay đen bầu trời Hà Nội. Nó không ‘ giả vờ’ bỏ bom như B52 của Mỹ. Nó làm thật.
Sau chiến tranh hàn gắn hay gây thêm hận thù?
Phần tướng Leclerc, chỉ huy binh đoàn số 2 được tướng Eisehnhowwer ưu ái dành cho cái vinh dự người đầu tiên giải phóng tiến vào Paris.. ngày 26 tháng tám. Và đây cũng là lệnh riêng của De Gaulle muốn người Pháp được cái vinh dự ấy.
Đó là vấn đề danh dự của nước Pháp.
Nhưng thực sự một mình binh đội của tướng Leclerc quá ít ỏi chỉ có tính cách tượng trưng không thể nào giải phóng Paris được. Phải có binh đội Hoa Kỳ từ phía Bắc Saint Cloud và từ phía Nam với Vincennnes tiến về Troyes, Meaux và Rambrouillet.. Leclerc cũng đã cảnh cáo binh đội của tướng von Choltiz rằng : Nếu các ông phá hùy một cơ sở công cộng nào của Paris thì sẽ không có một người lính Đức nào còn được sống sót.
Vấn đề còn lại của nước Pháp sau chiến là hàn gắn những vết thương,.Nhưng thay vì hàn gắn thì dấy lên nhiều sự hận thù, trả oán, đòi nợ.
Việc đầu tiên theo truyền thống nước Pháp là mỗi khi thắng trận trở về thì nhà vua vào nhà thờ Notre Dame và sẽ hát Magnificat để tạ ơn Thượng Đế. Đây là một truyền thống tốt đẹp từ lâu đời. Vấn đề trở ngại ở đây là vị hồng y giáo chủ Paris, Tổng giám mục Suhard, chỉ mới cách đây một tháng đã chủ trì một buổi lễ tang một nhân vật làm tay sai cho Đức là Philippe Henriot và ông này đã bị kháng chiến sát hại.
Vậy thì dư luận nói chung nhiều người không muốn thấy có sự hiện diện của vị tổng giám mục Suhard trong buổi lễ. Dư luận ấy đúng.
Linh mục tuyên úy quân kháng chiến là Raymond Bruclerger là người cương quyết đã phản đối sự hiện diện của TGM Suhard..Nhưng rồi TGM Suhard vẫn có mặt. Sự có mặt của vị TGM gây phản ứng mạnh nơi một số người.
Và rối loạn trật tự đã xảy ra. Có cả tiếng súng nỗ, ghế ném lung tung trong nhà thờ Notre Dame khi vị tổng giám mục Suhard bắt đầu hát Magnificat!!!( Bài hát tạ ơn)
- Câu chuyện hát Magnificat của TGM Suhard là biểu tượng cho hai khuynh hướng khác biệt :Những người yêu nước chân chính và những kẻ làm tay sai cách này cách khác cho giặc.
- Trường họp TGM Suhard làm liên tưởng đến những thành phần trí thức công giáo miền Nam- thường được cho đi ăn học và xuất thân từ các trường đại học danh tiếng của nước Pháp- .Họ chỉ học được ở Pháp cái tinh thần bất mãn và phản kháng, dễ dàng ngả theo cộng sản như trường hợp Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Lý Chánh Trung, Trương Bá Cần, Nguyễn Đình Đầu vv Nhắc lại cho có chuyện thôi chứ hiện nay thì hơn ai hết họ thừa biết họ chỉ là những con cờ thí, bị lừa phỉnh..
- Nhưng hiện nay ở trong nước, có một số thành phần trí thức được hưởng những ưu đãi của chế độ, bất mãn ngay cả chửi chế độ, nhưng vẫn cúi mặt hưỡng những ân huệ của chế độ ấy. Họ nói mà không làm!!! Nói những gì được phép nói trong chừng mực được cho phép. Nói ra, vạch từng tên tuổi thì đụng chạm mà không nói ra thì những người này một cách nào đó trở thành những con tin của chế độ cộng sản hiện nay.
Sau chiến tranh, người Pháp tính sổ để xem trong thời Đức chiếm đóng, con số người làm tay sai cho Đức là bao nhiêu? Thật khó để ngày nay đưa ra được những con số.. Cũng thật khó để kết án ai là người theo Đức. Nói chung có đến hơn nửa triệu các chuyên viên, các kỹ sư tình nguyện làm việc trong các cơ xưởng do Đức kiểm soát..Những người này bề ngoài tỏ ra không cộng tác với kháng chiến vì an ninh bản thân họ hoặc vì miếng ăn.
De Gaulle chỉ cay đắng khi nghĩ đến thành phân này!!! Nhưng không thể kết án họ được.Vì dù sao xứ Pháp cũng là xứ có luật lệ, có tòa án xét xử…
Khi đồng minh đổ bộ Normandie thì theo sự phỏng định của De Gaulle có khoảng 30 ngàn người Pháp làm việc chính thức, có giấy tờ của Đức. Chẳng hạn làm trong cơ quan phản gián Gestapo hay Abwehr (Contre-espionnage allemand) hoặc những nhân viên mặc quân phục Đức trong trong tổ chức LVF. ( Légion des volontaires Francaises contre le Bolchevisme).[28]
Cũng theo De Gaulle, sau khi giải phóng Paris, con số người bị hành quyết hoặc bị sát hại cách này cách khác khoảng trên 10.000 ngàn người..Còn lại con số trên 1000 người bị ra tòa xét sử, sau đó bị xử bắn.
Phe Vichy của Pétain thổi phồng con số lên 30 chục ngàn người, có khi con số được thổi phồng lên đến cả trăm ngàn ngươi bị giết hại.
Theo người con trai tướng De Gaulle-Philippe De Gaulle- tướng De Gaullle đã nhiều lần bị dày vò về những vụ án liên quan đến nhữ kẻ phản bội lại tổ quốc. Ông thường đi đi lại lại trong vườn nhà sau bữa ăn tối ở số 4 đường Champ-d’Entrainement vì nhận được thư của những thân nhân kẻ bị án kêu oan và xin tha. Ông không biết phải xử trí ra sao vì nhiều trường hợp thiếu minh bạch hoặc nhầm lẫn kết án oan uổng. Hồ sơ tội trạng không dễ minh chứng đầy đủ.
- Dù sao, De Gaulle không phải Lê Duẩn, càng không phải Đỗ Mười. Họ- những người cộng sản- không cần tòa án, không cần đưa ra tòa, đã đưa cả nửa triệu các thành phần ưu tú nhất của xã hội miền Nam vào các nhà tù cải tạo!! Cái tâm lý hạ nhục người miền Nam nay thấy thật rõ ràng trong những chính sách của họ. Đây cũng chỉ là một cách trả thù hèn hạ. Đây cũng xứng đáng được gọi là một tội ác của những kẻ thắng trận!! Và kể từ đó đến bấy giờ, vết thương ấy vẫn chưa hàn gắn được. Người miền Nam có thể không bao giờ quên!! Tôi là một người miền Bắc vào Nam, tôi thú thật tôi không muốn quên và không thể quên, mặc dầu tôi không bị một ngày tù của cộng sản.
- Phải chi, họ đưa ra tòa xét xử công khai thì nói làm gì nữa!!!
Bên cạnh đó người ta được biết có một số nhà văn làm tay sai cho Đức trong thời gian chiếm đóng khi những nhà văn này công khai xuất hiện nơi công cộng với người Đức trong các cuộc mít tinh, lên diễn đàn, hoặc hô hào thanh niên Pháp mặc quân phục Đức. Trong số đó có nhà văn Pierre Drieu la Rochelle đã tự tử. Robert Brasillach và Paul Chack phải ra tòa chịu án đền tội. Họ tỏ ra trung thành với Đức, đi hàng đầu trong các cuộc mít tinh. Họ là những nhà văn sẵn sàng làm tay sai cho giặc!! Họ xứng đáng nhận hình phạt của xã hội.
- Sau 30 tháng tư, hơn hai trăm nhà văn, nhà báo, giới văn nghệ sĩ miền Nam chịu chung số phận tù cải tạo. và nhiểu người đã chết trong tủ như : Nguyễn Mạnh Côn, luật sư Trần Văn Tuyên, nhà thơ Vũ Hoàng Chương? Tôi vẫn tự hỏi họ có tội tình gì? Không. Họ chỉ yêu nước theo cách của họ! Họ chấp nhận chế độ quốc gia và tin tưởng đó là một chế độ tốt đẹp, đáng sống!! Dĩ nhiên, phần đông không chấp nhận chế độ cộng sản. Nhưng không nhất thiết họ là tay sai của Mỹ theo nghĩa xấu nhất. Họ là những nhà báo, nhà văn trong một chế độ tự do.
- Họ chỉ có một cái tội là người cầm bút! Người cộng sản đã tổng quát hóa tội phạm, coi tất cả những ai sinh sống ở miền Nam đều có tội!! Tội gì nhỉ?
Phần cá nhân De Gaulle, thay vì say sưa với chiến thắng, thay vì yến tiệc, thay vì huyênh hoang tuyên bố, thay vì trả thù những người theo giặc như Pétain, thay vì nghĩ đến chuyện ân oán. Không. Ông phải là loại người nhân cách tầm thường như vậy.
Ngay sáng sớm ngày hôm sau, ông đi tìm lại nơi ông đã từng sinh sống ở Paris. Không xe cộ, không hộ tống, ông đi bộ đến khu Saint- Francois- Xavier, nhà xứ của gia đình ông lúc thiếu thời. Ông xúc động, vì căn nhà và mọi đồ vật còn nguyên vẹn, không có gì thay đổi. Ông nhớ lại, ngày 10 tháng sáu, năm 1940, ông rời Paris vào ban đêm trong xe cùng với Paul Reynaud không kịp mang theo thứ gì.. Mọi vật trước mắt ông sau 4 năm từ giấy tờ, đồ đạc, điện thoại đến quần áo cũ. Không một ai tơ hào. Ông đã xúc động khi tìm thấy cây kiếm khi tốt nghiệp trường Saint-Cyr vẫn còn đấy..làm sao ông không khỏi xúc động!! Người ta cứ bảo De Gaullle là người không có tình cảm, ông củng tình cảm lắm đấy chữ!![29]
- Tôi tự hỏi xem, các lãnh đạo cộng sản Bắc Việt khi vào miền Nam, việc đầu tiên họ làm là gí? Cái cảnh tồi tệ nhất là hôi của, chiếm nhà, chiếm cửa. Nghĩ lại mà khinh, mà buồn. Họ hành xử như những kẻ cướp không hơn không kém.
Những ngày sau đó, De Gaulle còn mời các nhà văn danh tiếng của Paris như Francois Mauriac, Georges Duhamel, Paul Valéry, Georges Bernanos. Riêng. F. Mauriac là người có tai tiếng có những liên hệ không rõ ràng với Đức. Nhưng De Gaulle bỏ qua. Ông đã mời lần lượt từng người đến dùng cơm và đàm đạo với ông với sự trân trọng. Nhất là trường hợp nhà văn André Malraux mà sau này trở thành cộng sự viên của ông trong chính phủ.
- Cung cách và cách hành xử của những kẻ chiến thắng sau 1975 đối với giới trí thức miền Nam cho đến bây giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy nhờm tởm. Họ hành xử như những kẻ vô học.
Đối với phụ nữ, De Gaulle thường tỏ ra khoan nhượng và tìm mọi cách hợp pháp để ân xá cho họ.
Dầu vậy, trong một số trường hợp- dù chỉ là những phụ nữ nghèo túng phải đi làm điếm cho lính Đức, sau đó đã bị dân chúng phẫn nộ dẫn đi ngoài đường phố, bị cạo trọc đầu, quần áo tả tơi, bị la ó, xỉ nhục.
- Bài học sau chiến thắng của Pháp cũng như trường hợp sau này thống nhất nước Đức- người cộng sản chẳng học được gì!! Họ bị mê hoặc với chiến thắng.
- Chỉ còn biết than cái đất nước mình nó như thế thôi!!
Về hiểm nguy cộng sản từ trước thế chiến hai!!
Đây có thể là một tiết lộ mới lạ với một số người. Nhưng thực sự nó không có gì mới lạ. Nó mới lạ chì vì người ta không được thông tin đầy đủ hoặc đã không quan tâm cho đủ.
Sách của những tác giả ngoại quốc viết về cộng sản sau thế chiến thứ hai mang tính cách nhân chứng thời đại.
Đọc họ, người ta nhận thức được rằng tính ủy nhiệm trong cuộc chiến không chỉ vạch ra đường ranh giữa súng đạn, mầu cờ, sắc áo. Nó còn vạch ra đường ranh trong tâm não con người mà các nhà văn trở thành những ngôn sứ thời đại. Họ là những Milovan Djilas, Lâm Ngữ Đường, Thomas Dooley, Suzanne Labin hay những Oyvink Skard, Fred Schawars.
Đây là những người dứt khoát chối từ ý thức hệ cộng sản.
Chẳng hạn các cuốn như Nước đã đến chân của Suzane Labin, Thoát ly hỏa ngục của Thoma Dooley, Kỷ thuật phá hoại của cộng sản tại Tiệp Khắc 1938-1948 của Josef Corbel hay Giai cấp mới của Milovan Djilas.
Tuy nhiên tiếng nói của họ chỉ được lắng nghe giới hạn vào một số trí thức và thiếu sức lôi cuốn đối với đa số quần chúng. Tiếng nói cảnh báo của họ chẳng bao lâu sau bị chìm vào quên lãng.
Những cuốn sách do tác giả là người Việt viết cũng không mấy người tìm đọc mặc dầu nội dung là những vấn đề thời sự nóng bỏng như : Quỳnh Lưu khởi nghĩa,( Liên minh Á Châu chống cộng xuất bản, 1958), Bên kia Bến Hải, Đinh Xuân Cầu. Đây, Bắc Việt, Hà Nội ngày nay, Người Thăng long, Thủ Đoạn của Hồ Chí Minh, Trần Quang, Thực chất cuủa Mặt trận Giải phòng miền Nam, Xã Hội ấn quán xuất bản, Sách lược xâm lăng của cộng sản, tác giả Minh Võ..
Trong số những sách ấy, chỉ có cuốn Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí nói về Phoang trào Nhân Văn giai phẩm là đạt được thành công rực rỡ cũng như bộ phim : Chúng tôi muốn sống nói về cải cách ruộng đất ở miền Bắc.
- Có thể nói, người miền Nam chỉ biết chế độ cộng sản là gì qua hai tài liệu vừa kể trên.
- Nhưng khi chiến tranh trở thành khốc liệt thì cũng ít ai còn ai nhắc nhở đến những tài liệu trên.nữa.
- Thực tế chứng minh rằng miền Nam thiếu hẳn một bộ máy chiến tranh hữu hiệu trên mặt trận chính trị và tuyên truyền. Những sách vở trên cho người dân tự lựa chọn một quan điểm, một chỗ đứng mà không có bất cứ sự áp đặt nào. Thế mạnh của miền Nam là dân chủ, nhưng thế yếu cũng từ đó mà ra.
- Có tiếng súng trên chiến trường để đối đầu với cộng sản miền Bắc, nhưng lại thiếu tiếng súng trên Mặt trận văn hóa.
- Ở đây, chúng tôi xin ghi nhận như một lời tri ân một số dịch giả miền Nam lúc bấy giờ đã đóng góp trong việc dịch thuật những tác phẩm lớn của thế giới mà nay nhiều người đã không còn nữa. Đó các quý ông Nguyễn Hữu Hiệu, Thạch Chương và Thanh Tâm Tuyền,Trần Lương Ngọc,Văn Tự-Mậu Hải, Mặc Đỗ, Lê Ngọc Trụ,, Lê Thị Hay, lê Thị Duyên, Tầm Nguyên, Hoàng Sa, Bích Ty, Nam Chinh..Ngọc Thứ Langvv..
Sau này rộ lên một số sách dịch của ngoại quốc được nhiều người đọc. Nó gần như một phong trào tìm đọc Những Constantin Virgil Gheorghiu, Boris Pasternak, Solzhennistsyn, Morris L.West. Tác giả không tiện liệt kê đầy đủ các tác phẩm này- trong đó có những kiệt tác như Tầng Đầu Địa Ngục(Le premier cercle), và Quần Đảo Ngục tù (L’Archipel du Goulag), Bác sĩ Jivago ( Docteur Jivago). Qua các phẩm này, người đọc nhận thức được tính phi nhân của chủ nghĩa cộng sản thể hiện qua thân phận bị dày xéo, trà đạp của những con người bình thường trong xã hội. Họ là nạn nhân của một thứ chủ nghĩa không có con người.[30]
Có một điều chúng ta cần biết rằng ngay trước thế chiến thứ hai, khi nhân loại đang phải đối diện với Phát Xít Đức với tên hung thần HitLer. Thì chính Hitler lại là người tuyên bố rẳng:
Nước Đức là thành trì chống lại chủ nghĩa Bon sơ Vích.( L’Allemagne est le rempart contre le Bolchevisme’.
Phần De Gaulle đã có một lập trường thật rõ ràng là phải loại trừ tất cả thành phần kháng chiến là cộng sản ra khỏi kháng chiến. Trong chương Les hommes de l’ombre (chỉ những người kháng chiến ở trong bóng tối).Ông tiết lộ trong số những người kháng chiến, có một số người theo cộng sản muốn trà trộn vào.
Và sau này, De Gaulle thú nhận, nếu ông không tìm cách loại bỏ những thành phần cộng sản ra khỏi kháng chiến thì sau này, cuộc giải phóng nước Pháp đã bị Bôn sê vích hóa!!
Điều thứ hai, De Gaulle tiết lộ là vào 22 tháng sáu- 1941, khi Đức xâm chiếm Liên Xô thì những người cộng sản Pháp cảm thấy có bổn phận phải dơ tay ra cứu giúp Liên Xô thay vì chiến đấu cho đất nước Pháp..Gián tiếp họ đã phản bội lại tổ quốc của họ.
Khi biết được điều này, De Gaulle cảm thấy cay đắng sâu xa[31] (Devant cette constatation, son amertume est profonde).
Tài liệu quan trọng này- dù chỉ tóm tắt trong ít dòng- dù người đọc có thể không mấy quan tâm. Nhưng theo tôi nó lạ icó một tầm mức quan trọng, vì nó tố cáo đích danh người cộng sản là những người vô tổ quốc, vì họ phục vụ cho quyền lợi đảng của họ. Họ đặt quyền lợi đảng trên quyền lợi dân tộc.Tiết lộ cho thấy, người cộng sản trước hết có nghĩa vụ quốc tế thay vì nghĩa vụ đối với Quốc Gia dân tộc.
Cũng trong tập tài liệu mật này trao lại cho con trai của ông- Philippe De Gaulle-, De Gaullle đưa ra một bằng chứng không chối cãi được là đảng cộng sản Pháp nếu cần họ là những kẻ phản bội tổ quốc của mình. Khi Đức và Liên Xô còn là đồng minh của nhau, Paris vừa bị Đức chiếm thì vào ngày 25 tháng sáu-1940, Đảng cộng sản Pháp đã viết thư,- lá thư ký tên Tréland(Catelas et Ginollin) yêu cầu chính quyền Đức cho phép tái xuất bản tờ «L’Humanité( tờ báo xã hội thiên cộng sản) với danh nghĩa thỏa hiệp giữa Đức và Liên Xô. Và De Gaulle nói với con trai tùy ý chọn chữ nào thích hợp cho việc náy. Đóa là nhửng chử như : mù quang, ô nhục, bỉ ổi, phản bội.[32]
- Đọc đoạn văn này, tôi nghĩ tất cả những người cộng sản trong nước phải cúi mặt. Ai còn tin vào họ. Đất nước này sao còn có thể trao vào tay họ.. Tùy mỗi người trong bọn họ chọn trong 4 chữ mà De Gaulle để lại..à
- Ông Hồ không phải chỉ làm tay sai cho Tầu cộng. Mà còn bán nước không phải một lần mà nhiều lần. Hai cuộc chiến tranh là hai lần bán nước. Hãy đọc chúc thư của ông để lại!! Tôi chưa hề thấy cái chúc thư nào hèn hạ như thế! Chết rồi vẫn hèn hạ,
Phần W.Churchill, một chính trị gia có tài ba như một thứ triên tri thời đại đã viết ngay từ khi Âu Châu đang thắng thế Đức trên khắp mặt trận như sau :
Ngày 31 tháng tám, 1944, việc giải phóng Âu Châu đã đi những bước vĩ đại đến trước cả những kế hoạch dự tính. Ngày 3 tháng 9 giải phóng Bỉ. Ngày 11-9, Binh đoàn số một của Mỹ tiến vào Đức. Tiếp theo binh đoàn của tướng De Lattre De Tassigny.
Ở mặt trận phía Đông, Tướng Koniev tiến về Ba Lan và tướng Petrov tiến vào Tiệp Khắc..Tất cả bộ mặt Âu Châu thay đổi- không phải ở ngoài mặt trận.. Điểm chinh yếu là sự lớn mạnh của Liên Xô..
Kể từ đây, biến cố làm thay đổi cục diện thế giới đưa đến khúc quan lịch sử và làm biến đổi viễn tượng thế giới trong thế kỷ 20[33].
Cũng chính ông, chỉ sau 4 ngày khi quân Đức chấp nhận đầu hàng. W. Churchill là người đầu tiên dùng chữ Bức Màn sắt (Rideau de fer)để ám chỉ Liên Xô. Dưới mắt W. Churchill :
‘Mối đe dọa của Xô Viết đã thay thế chỗ của kẻ thủ Đức Quốc Xã’.
Ông cũng đã viết thư cho TT. Truman- người vừa thay thế Roosevelt- cảnh báo Mỹ những quyết định trong Hội Nghị Yalta về mối hiểm nguy của Liên Xô trong việc chiếm đóng Ba Lan.. và các bán đảo Balkans..[34]
Cái nhìn bi quan về lịch sử thế giới sau đại chiến thứ hai của W. Churchill cũng được tờ báo Times thời bấy giờ chia xẻ. Theo tờ Times, thế giới vừa thoát ra khỏi chế độ Đức Quốc Xã thì lại rơi vào hiểm họa cực phần nguy hiểm: Hiểm họa cộng sản.
Một tài liệu cuối cùng nêu ra ở đây là khi Hitler chuyển hướng, quyết định tiến đánh Liên Xô vào 4 giờ sáng, ngày 22 tháng sáu 1941. Đây là một cuộc xâm chiếm lớn nhất chưa từng bao giờ xảy ra trong lịch sử với 4 triệu quân lính, 3000 chiến xa và 3000 máy bay, tiến đánh Phần Lan và Lỗ Ma ni.. Đại diện cho Staline, Molotov đã kêu gọi dân chúng như sau : Chính quyền kêu gọi tất cả mọi người, đàn ông, đàn bà, công dân của Liên Xô, đồng chí Staline kêu gọi mọi người xiết chặt hàng ngũ chung quanh đảng Bôn Sơ Vích vinh quang của chúng ta, chung quanh chính quyền và chung quanh đồng chí Staline vĩ đại của chúng ta. Chúng ta có chính nghĩa. Kẻ thù sẽ bị đẻ bẹp..Chúng ta sẽ chiến thắng. Molotoc cũng không quên nhắc tới số phận dảnh cho Napoléon năm 1812.[35]
- Cái hiểm nguy của cộng sản thấy rõ ngay từ lời kêu gọi của Molotov kêu gọi dân chúng xiết chặt hàng ngũ chung quanh đảng cộng sàn Bôn sơ vích và chung quanh đồng chí Staline vĩ đại. Sau này đảng cộng sản Việt Nam bắt chước nguyên vẹn ngôn ngữ chính trị của Staline : Cũng đảng cộng sản Việt Nam vinh quang, cũng đồng chí Hồ Chí Minh vĩ đại. Ôi sao mà bắt chước hay thế!!
- Trong cuộc rút quân trước sức tấn công vũ bão của Hitler, Staline đã ra lệnh, khi rút quân, không để lại bất cứ thứ gì cho quân địch- không để lại đầu máy và các toa xe lửa- không một kí lô lúa mì-không một con súc vật nào- không một lít xăng- Phải phá hết, đốt hết các kho hàng, các đường giây điện thoại, cắt đứt cầu cốngvv.
- Say này, Hồ Chí Minh trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất với Pháp, thế lực còn yếu phải rút về khu tư, khu năm. Hồ Chí Minh cũng hô hào dân chúng sơ tán, tiêu khổ kháng chiến, đốt sạch, phá sạch áp dụng y trang chính sách của Staline. Họ Hồ cũng như Staline đã làm tất cả cốt đạt chiến thắng. Hồ Chí Minh quả thực chỉ là con đẻ của Staline, Mao Trạch Đông. Những kẻ hung bạo nhất thế giới chủ xướng một chủ nghĩa không có con người hay vắng bóng con người..
- Sai lầm chiến lược của Hiter là đã để trễ hạn 6 tuần lễ trong chiến dịch Barbarossa vì vấn đề chiến tranh ở bán đảo Balkans. thay vì tháng sáu thì là ngày 15 tháng năm. Bất kể sự can ngăn phản đối của các tướng lãnh Đức về sự chậm trễ mà hậu quả không lường được Hitler vẫn ra lệnh ba mũi tấn công của Đức là Léningrad, Moscou và Ukraine mà cuối cùng đã bị xa lầy khi mùa đông tới..
- Dầu vậy đảng cộng sản Liên Xô đã hy sinh hàng triệu người trong chiến dịch tấn công của Hitlet, hàng triệu người bị bắt làm tù binh Đức, không thực phẩm và chết đói. Nhưng điều đó chẳng có gì quan trọng với những tên độc tài như Hitler, Staline và Hồ Chí Minh.
- Phản ứng của thế giới khi Đức tấn công Liên Xô cho thấy những nhà lãnh đạo thế giới thấy rõ những hiểm nguy của cộng sản.
- Đối với Pétain thì chế độ Dức Quốc xã và chế độ cộng sản chẳng khác gì bệnh dịch tả và vệnh dịch hạch.
- Cựu tổng thống Hoover tuyên bố : 90% dân chúng Hoa Kỳ Kỳ đều chống lại các hình thức độc tài dù là Đức Quốc Xã hay cộng sản. Đó là những chủ nghĩa vô luân vì chúng phủ nhận niềm tin tôn giáo, tàn bạo và tàn sát hàng triệu con người.
- Những nhà quân sự như thống chế Leahy thì tuyên bố rằng : Tôi không có chút thiện cảm gì với chế độ Hitler và tôi mong muốn nó bị xụp đổ. Nhưng tôi hy vọng rằng Hitler chiếm được một vài vùng của Nga sát với biên giới Đức như vùng trái đệm (états-tampons) là cứ điểm nhờ đó lật đổ được Staline và làm biến mất sự đe dọa của cộng sản.
- .Thượng nghĩ sĩ Taft tuyên bố trên đài phát thanh như sau: Sự chiến thắng của cộng sản trên thế giới sẽ vô cùng nguy hiểm cho Hoa Kỳ hơn là sự chiến thắng của Đức Quốc Xã.
- Thượng nghĩ sĩ Truman- người sẽ lên thay thế chổ của TT. Roosevelt tuyên bố: Nếu chúng ta thấy Đức Quốc Xã có thể chiến thắng thì chúng ta có bổn phận giúp Liên Xô, nhưng nếu chúng ta thấy Liên Xô có thể thắng thế thì chúng ta phải giúp Đức, mặc dầu bằng mọi giá tôi không muốn thấy Hitler thắng thế.
- Lập trường nước đôi của TT. Truman trong tình thế lưỡng nan trước đây cũng là điều mà Hoa Kỳ phải chọn lựa giữa Việt Nam-Trung Cộng hiện nay?
- Thế giới đã cảnh cáo từ hơn nửa thế kỷ nay về hiểm họa cộng sản, vậy mà các lãnh đạo cộng sản vẫn tiếp tục mù quáng đi theo con đường ấy!! Điều ấy chỉ ra rằng, họ bị bịt mắt, không có điều kiện để tìm đọc lịch sử thế giới hoặc nay thì có thể họ cố bám vào những quyền lợi cá nhân của họ?
- Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:
- Điều bất hạnh thứ nhất là bị chế độ thực dân Pháp cai trị ngót một thế kỷ.
- Điều bất hạnh thứ hai là phải sống dưới chế độ cộng sản
- Cái bất hạnh thứ ba là có láng giềng Trung Cộng.
Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
[1] Colonel de Villelume, Journal d’une de1faite, Fayard
[2] William Manchester, Winston Churchill, trang 19-20
[3]Philippe De Gaulle, De Gaulle mon père, trang 113-122
[4] Phillippe De Gaulle, Ibid, trang 106-108
[5] C’est terrible. Je ne vois que des généraux qui ne veulent pas se battre
[6] Trích theo tướng Spears, Témoignage sur une catastrophe, Tome II. Nhiều điều tướng Spears viết sau này De Gaulle cho là viết bịa đặt không đúng..
[7] Alain Peyrefitte, Le Mal Français, trang 424-425
[8] Paul Valéry : Aucune nation n’aime à considérer ses malheurs comme ses enfants légitimes.
[9] Xin đọc thêm những nhận xét rất xác đáng về nước Pháp của Alain Peyrefitte, Le Mal Français, nxb Plon, trang VII-XI
[10] Ngô Văn, Việt Nam 1920- 1945, chương Ngọn lửa ấp ủ giới trí thức, từ trang 27-135
[11] Theo Winston Churchill, trong cuốn hồi ký, phần Rêves de Gloire Hitler là người xây dựng và phát triển đảng Đức Quốc Xã từ lúc khởi đầu có khoảng 20 đảng viên, trở thành một đảng đảng mạnh.. Con số đảng viên lên đến 20 chục ngàn mà sau này giúp Hit ler lên nắm chính quyền,., trang 706-712
[13] Bản phúc trình của Daladier- bộ trưởng bộ chiến tranh- nộp trong vụ án Pétain, trích lại trong Raymond Tournoux, Pétain et la France, trang 19
[14] Đây là phúc trình của Darlan ngày 14 tháng năm 1941, sau khi có buổi gặp gỡ bí mật với Hitler ngày 11- tháng 5-1941. Phúc trình do Benoist-Méchin, phụ tá của đô đốc Darland trong dịp gặp gỡ giữa Darland và Hitler.
[15] Raymond Tournoux, Pétain et la France, La seconde guerre mondiale, Plon, 242-243
[16] Dépêche 17 novembre 1939. Trích trong Raymond Tourrnoux, Pétain et la France, trang 27
[17] Abetz trong Mémorandum
[18] Xem thêm Wikimedia, phần Pierre Laval
[19] Raymond Tournoux, Ibid, trang 486
[20] Sans plus de formes, Pétain dit : Cet homme-là ( Laval) nous trahit, je n’en veux plus.
[21] Trích báo Đi Tới, số chủ đề : Trả ta sông núi, số 55-56, thảng-4-2002, trang 13-14.
[22] Báo L’express : Chine-Viet Nam : Le scandale des frontières, Sylvain Pasquier, trích lại trong Đi Tới, số 55-56, 2002, trang7
[23] Thật ra trong thâm tâm, Pe1tain có một mối thù hận De Gaulle mà ông thường ví như con rắn độc và cho rằng De Gaulle đáng phải xử bắn. Lý luận cúa Pétain là nếu De Gaulle là người yêu nước, tại sao không ở lại Pháp để chịu đựng đau khổ như chúng tôi.
[24] Mạc Văn Trang, Lo ăn mày dĩ vãng, quên giặc đến nhà, danchimvietonline.net, ngày 18-6-2014
[25] National Geographic, trang 556,
[26] Ngô Đình Nhu, Chính Đề Việt Nam, trang 293-301. Tên Tác giả trong bìa sách là Tùng Phong. Dù là Tùng Phong thì cũng chính là ông Ngô Đình Nhu
[27] Trần Đức Thảo, Những lời trăng trối., Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, Tổ hợp miền Đông Hoa Ký, Phan Thanh Tâm điểm sách. Xem danchom vietonline. net
[28] Philippe De Gaulle, Ibid, trang 297-298
[29] Philippe De Gaulle, Ibid, trang 359
[30] Đọc thêm : 20 năm văn học dịch thuật miền Nam, Nguyễn văn Luc trong sách 20 năm miền Nam, trang 390-397.
[31] Philippe De Gaulle, De Gaulle, mon père, trang 295
[32] Aveuglement, turpitude, infamie, trahison. Ibid, trang 295.
[33] Raymond Tournoux, Petain et la France, 523-524
[34] Lettres de Churchill à Truman en date du 12 mai 1945, trích trong Triomphe et trage1dies, tome II
[35] Le gouvernement fai appel à vous tous, homme et femmes, citoyens de l’Union Sovie1tique, il vous invite à serrer encore davantage les rangs autour de notre glorieux parti bolchevique, des autorités et de notre grand chef, le camarade Staline. Notre cause est juste. L’ennemi sera écrasé. Nous vaincrons.’ Molotov rappelle 1812 et le sort qui attend Napoléon. Raymond Tournoux, Ibid, trang 283