Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS Nguyễn Văn Lục - Những Chuỗi Ngày Không Quên...

03 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 40388)
GS Nguyễn Văn Lục - Những Chuỗi Ngày Không Quên...

 

 

Những Chuỗi Ngày Không Quên…

 

 

hinh_1-content


 GS Nguyễn Văn Lục

 

 

 

Mãi đến năm 1970, tôi mới được đổi về Biên Hòa. Kể là trễ. Trễ đủ thứ. Trễ cho chính bản thân mình và trễ vì thời cuộc đã đến giờ Hồi chuông báo tử. Bởi vì, thật ra từ niên khóa 1966, tôi đã được đổi về Sài gòn rồi. Vậy mà chỉ vài tháng sau tôi nhận được lệnh ra Nha trang, trở về nhiệm sở cũ với một lý do chính trị, rất vu vơ. Thêm 4 năm nữa.

Nhưng 4 năm đã cho tôi có dịp được chứng kiến những xáo trộn chính trị đủ thứ suốt dọc từ 1964 đến 1966, rồi tết Mậu Thân 1968. Và ít hay nhiều cũng là vốn sống để tôi chuẩn bị viết các bài sau này như vụ thảm sát tết Mậu Thân.

Đất nước chúng ta khổ lụy nhiều, nhưng dáng đứng đau thương và tủi nhục nhất vẫn là từ miền Trung. Nó có tên là Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, ngay cả Huế. Xin hứa với lòng mình, với bạn bè và giới trẻ của tôi là tôi sẽ viết lại cảnh đời này. Với những cảm nghiệm mà đến quá nửa đời người đến bây giờ vẫn thế. Vẫn đeo đẳng mình. Vẫn vật vờ như đùa cợt.

Cảm tưởng về Biên Hòa như một giải thoát khỏi những ám ảnh chiến tranh và một lịch sử đọa đầy sắp đến hồi chung cục. Miền Trung là nơi mà cuộc sống có muốn vui, cũng không vui cho trọn. Người và thiên nhiên toa rập với nhau làm khó người. Miền Trung cho dù là Nha trang đi nữa, không khí đôi khi vẫn thấy ngộp.

Nhưng ở đây, một cuộc đời mới đã mở ra. Sáng sáng lên Biên Hòa. Từ Sài gòn qua ngã tư Hàng Xanh như một cửa ô thông ra bên ngoài. Từng đám người đủ thành phần ùa ra về ngã Thủ Đức, Biên Hòa. Nào lính Không Quân, nào dân làm sở Mỹ, nào giáo sư các trường trung học. Nào xe nhà binh phóng bạt mạng, nào xe chở hàng, đặc biệt, xe đò Minh Trung, nhãn hiệu Citroen chạy đường Sàigòn-Đàlạt mà đứng xa có cảm tưởng nó sắp rã ra từng mảnh. Xe vespa, một biểu tượng mức sống cao thành thị. Cứ như thế như xô lấn nhau đi ra khỏi thành phố.

Sài gòn như chỗ để trú ẩn, chỗ để về. Và Biên Hòa như chỗ để làm việc, chỗ trả nợ áo cơm, chỗ tạm dung.

Cái hình ảnh từng đoàn xe cộ đủ loại nối đuôi nhau chạy về hướng Thủ Đức hay Biên Hòa kể là khó quên. Nó rất đặc biệt mà cũng rất là ấn tượng chẳng nơi đâu có. Nó cho thấy hai mặt của một cuộc chiến: cái thanh bình giả tạo, ồn ào về đêm của một thành phố chiến tranh là Sàigòn và đổ về bên kia dốc cầu Thị Nghè, Hàng Xanh là không khí chiến tranh với những trại nhà binh Mỹ ở phía tay phải xa lộ. Chạy dài chẳng biết mấy cây số chỉ thấy những trại lính là trại lính. Bộ óc chiến tranh với những kế hoạch hành quân nằm ở đó. Lẽ thua được cũng nằm ở đó.

Dù rằng sự có mặt đông đảo của những trại lính Mỹ với hàng 10 ngàn công nhân Việt làm cho họ. Hình ảnh khốc liệt của cuộc chiến vẫn không rõ mặt. Mà ngược lại nó cho người ta cảm tưởng chiến tranh có đó, nhưng vẫn như ở nơi nào khác. Cũng vậy, hàng chục ngàn binh sĩ Việt Nam đủ loại của quân đoàn 3, của căn cứ không quân Biên Hòa. Nhưng nó cho ta cái cảm tưởng an bình của một hậu cứ mà chẳng bao giờ người ta có một ý niệm, dù là mơ hồ của một cuộc thua trận sắp tới.

Khắp nơi là lính, đi đâu cũng thấy họ như thể một thứ lính công chức, đánh nhau như có giờ, có thời khóa biểu nhất định. Sáng đi chiều về. Không thấy những bộ đồ trận rằn ri bám bụi. Không nón sắt hay súng ống lỉnh kỉnh với đôi giầy bốt cố hữu. Người lính chiến là không có ở đây. Chỉ có một hậu cứ an toàn nhất, ổn định nhất và đáng tin tưởng nhất.

Cứ nhìn các cô nữ giáo sư có chồng sĩ quan để thấy rằng đời lính là cuộc đời lên hương lắm. Trong số đó, chưa có nữ giáo sư nào là góa phụ. Và biết đâu chừng còn gói nhẹm một niềm hãnh diện là vợ sĩ quan cấp tá trở lên.

Quần áo các sĩ quan là phẳng phiu, gương mặt người nào cũng đóng khung một đôi kính đen trùm lấy mặt, súng lục đeo bên hông lủng lẳng như một món trang sức cho đàn ông, biểu dương phái tính hơn là vũ khí giết người. Nhiều người gọi đùa là lính kiểng.

Trong các quán ăn buổi trưa ở một thành phố hậu cứ, rất nhiều lính tráng có mặt. Phần đông là một đám sĩ quan Không Quân mặc đồ bay. Có cái đẹp và hấp dẫn của bộ đồ ấy, từ những túi là túi với nhiều fermeture. Sao nhiều túi đến thế, túi trên, túi đầu gối, túi trước ngực. Với mầu xám xanh rất là Không Quân. Họ đi lại như những tài tử ciné đóng phim trở về hơn là sau một trận đi ném bom. Họ cố tạo ra cái vẻ hào hùng, trẻ trung. Nơi họ, bản chất chiến tranh với hùng khí của nó đi liền với nam tính.

 

 *

Chẳng ai nói ra, nhưng tại ngôi trường này, tự nhiên ai cũng thấy là có hai thành phần Giáo Sư. Giáo Sư tại chỗ và Giáo Sư tại Sàigòn. Hiệu Trưởng cũng ở Sài gòn. Hình ảnh đó cũng là hình ảnh của nhiều Giáo Sư mỗi sáng thứ hai. Khi thì đi cùng các bạn như Kiều Tiên, lúc nào cũng với cặp mắt kính mầu và chiếc áo dài màu xanh lốm đốm hoa. « Long con », tên gọi vui đùa và trìu mến, hay đi với cha Yến, Hiệu Trưởng trường Khiết Tâm.

Tôi đã hội nhập rất nhanh vào đám bạn bè ấy. Nhanh đến độ chẳng hiểu từ lúc nào, tôi trở thành là họ. Buổi sáng Biên Hòa, vẫn còn đủ thì giờ để ghé làm một tô hủ tiếu khô «rất Biên Hòa» trước khi vào lớp học. Bát nước dùng mùi dầu mè, có chút hành lá điểm trang húp một cái trước khi ăn tiếp. Buổi trưa thì kéo cả đám đi ăn. Hôm nào mắc xoa mạt chược thì vội vã một miếng bánh mì thịt.

Những bữa ăn trưa là vui nhất. Cái vui nhộn một thời nay khó tìm lại. Tôi không thể quên được những món canh chua cá bông lau và cá kho tộ Biên Hòa. Thêm tí tiêu rắc hoang phí một chút và điểm trang vài miếng ớt. Cũng như những buổi tối thứ ba ở lại nhậu với Lê Quý Thể. Khó tính một chút, cầu kỳ một chút thì lái xe sang Chợ Đồn ăn thịt bò nướng ngói, ăn gà với sôi nếp phồng lên như cái nồi. Thịt rừng cũng chả chê được. Ăn nhậu ở Biên Hòa vẫn có thi vị hơn ở Sàigòn.

Đi về lại buổi chiều thì lỉnh kỉnh hơn. Có khi có thêm cả một bầu đoàn thê tử kéo nhau về như Nguyễn Thế Văn, l’homme qui en savait trop. Một Lê Quý Thể cả đời không sắm nổi đôi giày. Kiều Vĩnh Phúc, beau trai và sau này nổi tiếng một thời ở hải ngoại khi làm trưởng ban Việt Ngữ đài BBC. Và cứ mỗi lần hỏi thăm Long con thì câu trả lời vẫn là: nó vẫn thế. Lần này, chắc tôi phải xem, nó vẫn thế là thế nào. Lâm Tấn Văn khinh khỉnh, cười tủm tỉm. Trịnh Hồng Hải «Thủ Đức» bắt tôi nghĩ đến một Stanley Karnow, rất rành rẽ những truyện hành lang chính trị. Hà Tường Cát, chạy trời không khỏi nắng nên mặt cứ đen như nhọ nồi. Thật ra không hiểu tại sao, tôi thân nhiều với cái đám giáo sư từ Sài gòn lên thay vì ở tại chỗ như Mai Kiến Phúc, Dũng «con» v.v...

Cùng lắm, giáo sư tại chỗ có Nhã Ý như một bông hoa rừng ở Biên Hòa. Hoa rừng không phải để hái vì đã có chủ nên trở thành đối tượng để chúng tôi trêu chọc và để thấy mặt trời mọc lên ở phương đông. Cái hay và cái quý nhất của anh Vương Tú Toàn, chồng của Nhã Ý, anh VTT là một bác sĩ ở Biên Hòa, sống như một hiền triết bên cạnh một bông hoa rừng. Mà hoa rừng thì đâu cần chăm sóc. Mà đã là hoa rừng thì ai ngắm chả được.

Nghĩ lại cái không khí bạn bè này, tôi có cảm tưởng thật dễ chịu, mặc dầu phần lớn tôi không có dịp quen biết và nói chuyện. Bởi vì cách sắp xếp giờ thuận tiện cho Giáo Sư đi về đã đưa đến trình trạng có vị cả năm, tôi không hề gặp.

Đó là cái dở, cái thiếu của loại giáo sư Sàigòn. Cái thiệt thòi này còn thấy rõ, vì ít có cơ hội sống gần học trò. Thầy trò gặp nhau gói gọn trong 55 phút, rồi mỗi người mỗi ngả. Điều này vẫn là một trăn trở đối với tôi sau này. Một tuần có những khi 55 tiếng dạy. Chạy trường như chạy show.

Càng nổi tiếng, càng không còn là người Thầy.

Ông Hiệu Trưởng Bảo thì cũng dân Sàigòn lên mà tôi còn nhớ trong suốt những năm dạy học chưa hề tới nhà một lần. Vì bận, vì đủ thứ, vì đủ cớ để không đến thăm ông được. Sêu tết cũng không có đến là thất kính. Nghĩ lại sau này đến là ngượng. Mà cũng đến là hay. Gặp thì chào hỏi đôi câu. Nhưng vẫn có một dây liên lạc tốt đẹp bất thành văn giữa Hiệu Trưởng và Giáo Sư. Đó là thứ liên lạc bạn bè, đến độ tôi có cảm giác nó vượt khuôn khổ hành chánh. Tôi chẳng bao giờ ké né, hoặc giữ lễ với ông cả. Tôi tự nhiên và bình đẳng trong giao tiếp. Đối với các vị Giám Học, Giám Thị thì tôi lại giữ lễ nhiều hơn. Chẳng hiểu sao nữa.

Ông là người cởi mở, bỏ qua, không chấp nhiều chuyện nhỏ.

Nhưng ghi lại đây như một kỷ niệm đẹp để thấy cái đời đi dạy chẳng phải luồn cúi ai, chẳng phải biếu xén phiền hà, chẳng trên dưới bao nhiêu.

 

*

Đời Giáo Sư là tự do nhất so với tất cả các ngành nghề công chức khác.

Bởi vì một lẽ đơn giản, công chức mà không phải công chức. Bởi vì không hề có mảy may trong đầu nghĩ đến chức tước, nghĩ đến ngạch trật. Có chức tước, có quan quyền, con người dễ đâm hèn. Là có quỵ lụy, là có mất cá tính người.

Giáo Sư là Giáo Sư, suốt đời là giáo sư. Nói ra thì nó buồn cười như thế đấy. Và tất cả uy tín người Thầy nằm trong việc giảng dạy. Tất cả cái uy tín nằm trong đôi mắt của học trò.

Nói chi đến những giờ rảnh. Tuần 15 tiếng dạy chính thức, có thể gói trọn hai ngày. Còn lại là tự do. Ôi tự do, ta quý ngươi!

Sau này, khi tuổi đã nghiêng. Đã nhiều lần. Nói cho đúng hơn, nhiều đêm, tôi vẫn có những giấc mơ đi dạy. Sáng ra lại tiếc. Và lần nào mơ cũng thấy mình dạy hay cả.

Cuộc đời ông Thầy gắn liền vào thế giới học trò. Đó là cái may mắn thứ hai cho ông Thầy và đó là nguồn vui bất tận. Chả bao giờ múc cho cạn. Cho nên, làm Thầy mà không tìm thấy ở đó một niềm vui thì đó là một điều bất hạnh.

Tôi đã chẳng bao giờ nếm mùi bất hạnh cả. Và đến tuổi này, không chắc còn tuổỉ nghiêng nữa mà có thể là tuổi ngả. Tôi cảm nghiệm được rằng cái biên giới giữa Thầy trò. Quá đẹp. Tôi chả có thể nói khác được. Tôi có nhiều kỷ niệm đẹp không nói ra lời. Đối với bạn bè là những điều trân quý và đối với học trò là những kỷ niệm. Đời tôi sinh ra là như thế với nhiều mảnh vụn làm nên cuộc sống hiện sinh. Hiện sinh trong cuộc đời và hiện sinh trong đời người. Nói cho cùng, có đôi chút mơ mộng, chút tuổi trẻ, chút gửi gắm, chút nhắn nhe, chút nghịch ngợm, chút tạm dung, chút tạm thời, chút gần nhưng cũng thật xa.

Cũng vừa đầy mà cũng vừa trắng tay.

Bây giờ thì điều quan trọng không còn là lúc để tỏ bày mà cùng ngồi với nhau mà nhắc lại. Nhắc lại cả những chuyện nhỏ đến không đáng nhắc. Càng không đáng nhắc lại càng là chuyện. Chả có gì xa hoa cả, chả có gì là không cảm động.

Lúc ấy là thường, là không cảm động. Bây giờ không là thường nữa và là cảm động. Cái gì cũng làm mình cảm động hết. Lúc trẻ thì để cười, bây giờ thì rơm rớm. Đừng xua đuổi những kỷ niệm ấy, vì đôi khi, đó là những gì đẹp nhất trên đời còn lại.

Chúng ta giầu là ở chỗ đó và ai nghèo thì cũng ở chỗ đó. Và ai muốn giầu thì bây giờ vẫn có thể giầu trong cái ngày hội ngộ, trùng phùng sắp tới. Và lúc ấy, chúng ta có thể ngớ ngẩn, ú ớ: cuộc đời đẹp quá, cuộc đời ơi!

Chúc mọi người những ngày đoàn tụ vui tươi và hạnh phúc từ khắp nơi trở về.

 

 

 

04 Tháng Hai 2009(Xem: 47218)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 82021)
  Như mây xuống phố chiều nay , Nhớ về trường cũ những ngày xa xưa. Môt mình lê bước trong mưa, Mang theo kỷ niêm trường xưa Ngô Quyền .  
04 Tháng Hai 2009(Xem: 37851)
  Một ngày cuối tháng 5 năm 2004, nhóm CHS/NQ/NCA tề tựu lại làm một cuộc viễn du lên miền Bắc Cali. Trước mắt là để xả hơi sau những ngày vật lộn với miếng cơm manh áo, sau là họp mặt với nhóm CHS/NQ/BCA để cùng ra mắt cuốn Kỷ Yếu CHS/NQ 2004.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 73696)
  Bốn mươi năm lẻ: nửa bóng câu. Em biết đến ta bạc mái đầu. Lầu chiều Hoàng Hạc còn đứng đợi. Mang hết niềm riêng tới muôn sao.    
04 Tháng Hai 2009(Xem: 77503)
Mưa rơi trên phố vắng, Mưa rơi trên đường xưa Ta, nỗi buồn sâu lắng, Ngồi quạnh hiu, nghe mưa!
04 Tháng Hai 2009(Xem: 36140)
  Dù biết rằng viết những lời tán tụng nhan sắc của cô, tôi đã làm một việc quá thừa, nhưng tôi vẫn muốn cô biết những ý nghĩ của tôi và biết đâu của nhiều bạn khác cùng lứa đã “say mê” cô như tôi vậy!    
03 Tháng Hai 2009(Xem: 75494)
  Gặp nhau truyện cũ vui như tết, Nhắc lại ngày xưa, đẹp tựa hoa.  
03 Tháng Hai 2009(Xem: 39188)
  Cho đến nay 50 năm trôi qua với bao nhiêu biến động khủng khiếp của lịch sử, được diễm phúc là một học sinh lớp B3 của trường Ngô Quyền thuở sơ khai tôi xin ghi lại đây bằng ký ức của mình và vài bạn trong ba lớp Ngô Quyền I hình ảnh Trường Ngô Quyền chúng ta được khai sanh giữa thời đất nước chuyển tiếp từ chế độ thuộc địa Pháp sang nền Đệ Nhất Cộng Hòa
03 Tháng Hai 2009(Xem: 34064)
  Tất cả kỷ niệm về trường Ngô Quyền là nỗi ngậm ngùi của những cựu học sinh, vì trường cũ còn đâu!
03 Tháng Hai 2009(Xem: 36882)
  Thế hệ chúng tôi ăn sinh nhật tuổi 18 của mình ngay năm 1975, bài viết này xin dành cho những bạn học, từ lớp 6 đến lớp 12 của trường Ngô Quyền năm 1975. Bao nhiêu người đã như một đàn chim tung cánh, bước ra khỏi cổng trường và bay đi tứ phương. Có những người hạnh phúc và thành đạt, có những người lầm than và khắc khoãi.
03 Tháng Hai 2009(Xem: 69140)
  Ta vẫn là ta tự thủa nào Môi hồng, mắt sáng, mộng trăng sao… Trùng Phùng mở hội, mười phương nhạc , Xuân ngát một trời, tình vời cao !                                
03 Tháng Hai 2009(Xem: 39307)
  . Mười ba năm đi dạy, là mười ba năm tôi sống hạnh phúc nhất đời tôi. Người thầy là con đò chở các em sang bờ khác. Cuộc hành trình không nhàm chán, rất thú vị và “tích lũy” kỷ niệm.
03 Tháng Hai 2009(Xem: 80535)
  Trong những giây phút thiêng liêng ấy, tôi sực nhớ lại hình bóng người Ông khả kính: ông ngoại PHAN VĂN NGA, nguyên Trưởng Ty Tiểu Học tỉnh Đồng Nai (trong chế độ cũ).
03 Tháng Hai 2009(Xem: 74010)
  Tôi bắt đầu lên tỉnh học từ 1960. Ba mất sớm, nhà quá nghèo, anh chị em lại đông. Trong suốt thời gian đi học, tôi đã làm rất nhiều nghề để có tiền sinh sống, nổi bật nhất là nghề dạy kèm.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 65687)
  Tôi chỉ viết về những năm đầu tiên mà ký ức của tôi còn lưu giữ. Sau này, khi tập hợp được các anh em ở những niên khóa sau, lần lượt chúng ta sẽ đúc kết thành một bản danh sách hoàn chỉnh.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 33839)
  Phải chi dòng sông Đồng Nai chảy ngược, có thể tôi đã thấy lại mình trong sân trường ngày trước, thuở học trò vô tư
02 Tháng Hai 2009(Xem: 42888)
Trong đời làm việc của tôi, từ dân tới lính, ông là vị chỉ huy duy nhất mà tôi còn nhớ tới, với lòng kính trọng.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 38586)
  Một ngọn gió dịu mát của mùa Xuân đã đưa tư tưởng tôi bỗng dưng trở về nơi chốn cũ, nơi đó có bày chim con chưa ra ràng nhưng đã muốn tập tễnh bay lượn, vỗ đôi cánh non nớt như muốn tung bay ra khỏi tổ ấm êm đềm và sự che chở thương yêu của chim mẹ, muốn tìm hiểu chân trời ngoài kia bao la rực rỡ muôn màu ra sao .
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46353)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 71710)
Ngày nay con đã là cô giáo, "Mộng" đã thành rồi!...Mẹ thấy đâu? Đầu xanh bao mái nhòa trong mắt, Vẳng nghe tiếng mẹ ở nơi nao?...
02 Tháng Hai 2009(Xem: 34523)
  Năm đó, tôi về Việt Nam ăn Tết và cũng để mừng má tôi tròn một trăm tuổi. Đó là lần thứ hai tôi về Việt Nam . Kỳ trước về với vợ con nên đi đâu chúng tôi cũng dùng xe nhà của thằng em bà con cho mượn với tài xế (Thằng em này "biết làm ăn" nên bây giờ nó khá lắm). Kỳ này về một mình, tôi định nếu có dịp sẽ dùng xe công cộng một lần cho biết.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 78452)
  "Khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi, rơi trên bục gỗ, rơi trên tóc thầy...” Tiếng nhạc từ phòng con gái của tôi vọng sang, làm tôi hồi tưởng lại những bàn ghế cũ, phấn trắng, bảng đen...
30 Tháng Giêng 2009(Xem: 68752)
Cũng nhờ vậy rất nhiều cánh chim NQ lạc loài ở phương trời xa tìm về liên lạc được quý Thầy Cô và bạn học năm xưa. Điển hình chúng tôi ở Âu Châu mừng quá khi nhận và đọc được 2 quyển báo học trò đó, tưởng chừng như thấy lại thời NQ xa xưa.   Đặc biệt tìm thấy trong đó có cả một vườn thơ Tao Đàn đủ sắc hoa rực rở.
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 66843)
*   Viết kính tặng thầy Nguyễn Xuân Hoàng với lòng Yêu Thương, Kính Trọng và Cảm Thông sâu xa nhất .  
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 76188)
  Hỡi cô Cựu Nữ Sinh Ngô Quyền, hỡi cô bạn hàng xóm của tôi ơi!   Tôi rất cảm phục và trân quí cô.   Nếu giữa cô và tôi không có thứ tình cảm nào khác thì trong tôi sẵn có có một thứ tình keo sơn gắn bó với cô từ lâu, từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, kéo dài cho đến tuổi…sồn sồn bây giờ và tuổi già sắp tới, đó là tình bạn.   Còn cô thì sao?
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 38717)
Thôi thì:    “Đã mang lấy Nghiệp vào thân   Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa!” (ND).  
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 81418)
(Thân tặng các em cựu học sinh Ngô Quyền, đặc biệt các em Ban Văn Nghệ Hiệu Đoàn thời 69-71 )
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 76778)
Từ chia tay ở Tân Mai, tôi không hề biết Th giờ ra sao? Cuộc chiến qua đi thật xa. Bao thăng trầm trãi xuống cho quê hương, cho đời người. Thì thôi, hãy là những lời cầu nguyện bình an cho nhau. Dẫu mai đời có thế nào?