Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS Huỳnh Công Ân - Biên Hòa, Ngô Quyền Và Tôi.

07 Tháng Mười Một 20141:00 SA(Xem: 69462)
GS Huỳnh Công Ân - Biên Hòa, Ngô Quyền Và Tôi.
Tùy bút
          Biên Hòa, Ngô Quyền và Tôi
              *Kính tặng ông Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo
 

 

 28__Thay_HuynhCongAn-content

GS Huỳnh Công Ân

Nhà Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về

(Ca dao miền Nam)

 

Dường như tỉnh Biên Hoà là một phần định mệnh của cuộc đời tôị. Tuy tôi sinh ra ở tỉnh Thủ Dầu Một (thời VNCH gọi là Bình Dương), một tỉnh giáp ranh với Biên Hòa, nhưng lạ lùng thay trong khai sinh tôi lại ghi nơi sinh là Thủ Dầu Một, Biên Hòa. Thành ra khi khai lý lịch tôi không biết mình phải ghi nơi sinh là Thủ Dầu Một hay Biên Hòa cho đúng. Tôi đành ghi cả hai tỉnh là nơi sinh của mình cho hợp với khai sinh để tránh tội khai man lý lịch. Tôi có hỏi ba tôi về việc này thì ông cho biết vì ngày trước, tỉnh Thủ Dầu Một không có tòa án hòa giải nên ba tôi phải sang Biên Hòa để lập khai sinh cho tôi . Lại nữa, trong 5 năm liên hệ với Biên Hòa (1969-1975) tôi đã làm thầy giáo và lính chiến (lính thực sự chứ không phải là lính biệt phái) cho thủ phủ miền Đông này. Vì vậy, tôi đã có khá nhiều kỷ niệm vui, buồn với Biên Hòa qua chức vụ quân nhân của tiểu khu Biên Hòa cũng như giáo chức của trường trung học Ngô Quyền.

 

Tuy khai sinh tôi có ghi nơi sinh là Biên Hòa nhưng mãi đến khi đi trình sự vụ lệnh thuyên chuyển từ một tỉnh xa tít miền Tây về trường trung học Ngô Quyền tôi mới đến Biên Hòa lần đầu tiên vào mùa khai trường niên khóa 1969-1970. Thành phố Biên Hòa tuy có lớn hơn thị xã Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Bình, nơi tôi dạy học 4 năm đầu của cuộc đời thầy giáo, nhưng vốn lớn lên và sống ở thủ đô Sài Gòn nên tôi vẫn cảm nhận đây cũng chỉ là một tỉnh lỵ không phải là nơi phồn hoa, náo nhiệt như Sài Thành hoa lệ, thành ra tôi tự nhủ mình nên dè dặt trong lối sinh hoạt để giữ cho đúng tác phong thầy giáo.

Khi gặp ông Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo, một người đứng tuổi, to lớn, có dáng dấp một võ sư hơn là một giáo sư (nghe nói ông tập tạ hàng ngày), tôi cảm thấy thoải mái vì ông ấy rất cởi mở và thông cảm. Được biết tôi là một sĩ quan biệt phái, từng phục vụ ở đơn vị tác chiến và đã bị thương ở chiến trường , ông ân cần hỏi thăm vết thương của tôi. Lại biết nhà tôi ở Sài Gòn và có giờ dạy trường tư dưới đó, nên ông bảo tôi yên tâm, ông sẽ nói ông Giám Học xếp 15 giờ chính thức của tôi vào hai ngày đầu tuần.

 

Từ đó, hàng tuần tôi lái lambretta từ Sài Gòn  lên Biên Hòa dạy hai ngày thứ hai và thứ ba, đêm thứ hai ở lại Biên Hòa ngủ ở nhà người anh họ, chiều thứ ba trở về Sài Gòn coi như đã là weekend, những ngày còn lại thì dạy tư và vui chơi ở Sài Gòn. Đây thật là một giai đoạn hạnh phúc nhất của đời tôi . Đồng nghiệp và học tròở Ngô Quyền cũng rất dễ chịu. Ban giám đốc trường: ông  Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo dễ dãi, ông Giám Học Phạm Khắc Thành ca va, ông phụ tá giám học Hoàng Đôn Trịnh thì hơi reglo một chút. Học sinh thì đa số rất chăm học và học giỏi không thua sút các trường lớn Pétrus Ký, Chu Văn An, Gia Long, Trưng Vương ở Sài Gòn. Cũng tại trường Ngô Quyền Biên Hòa, tôi có vinh hạnh phụ trách một lớp 12 B  mà trong số học sinh có nhà thơ tài hoa Nguyễn Tất Nhiên và nhân vật nữ tên Duyên đã đi vào giai thoại văn chương Việt Nam qua các bài thơ tình tuyệt tác của Nguyễn Tất Nhiên. Tôi còn nhớ ngày anh chàng Hải (tên thât của Nguyễn Tất Nhiên) rụt rè tới bàn thầy, trao tặng tôi tác phẩm đầu tay của anh tựa là "Thiên Tai”, không ngờ về sau  anh chàng này lại trở thành một trong những thiên tài của văn thơ hiện đại Việt Nam .

 

Nhưng, ngày vui qua mau, định mênh đưa đẩy tôi trở lại quân đội sau một đêm nhậu nhẹt với bạn bè và ấu đả với một nhân vật có thế lực ở Sài Gòn mà hậu quả là tôi bị bộ Quốc Phòng  trả về đời sống quân nhân bằng một quyết định quân kỷ. Khi lên nhận sự vụ lệnh trả về Quân Đội tôi được cho một đặc ân chọn đơn vị. Định mệnh lạ khiến tôi chọn tiểu khu Biên Hòa. Khi được tin này, ông Hiệu trưởng dắt tôi vào Tiểu Khu gặp thiếu tá Thành, tham mưu trưởng tiểu khu gởi gắm. Tôi đuợc đưa về đại đội 3/463 DPQ trấn giữ cầu Đồng Nai trên xa lộ Sài Gòn Biên Hòa. Nhờ sự giúp đỡ sốt sắng của ông Hiệu Trưởng, tôi không bị đẩy ra chiến trường trong mùa hè đỏ lửa năm 1972. Nếu không, chắc gì tôi còn sống đến ngày hôm nay để viết những dòng chữ này. Vì vậy ân nghĩa này của ông Hiệu Trưởng suốt đời tôi không quên được. Sau biến cố 1975, được tin ông bị nạn, tôi rất lo lắng, nhưng nay qua tin của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Ngô Quyền biết ông vẫn còn mạnh khoẻ và có thể qua Hoa Kỳ dự Buổi Hội Ngộ Trùng Phùng năm 2006 tôi rất mừng cho ông.

 

"Hai năm trấn thủ lưu đồn, ngày thì việc nước, tối dồn việc quan" 1972-1973 của tôi ở cầu Đồng Nai cũng qua mau. Ngày thì đánh bi da, cá độ uống bia với các sĩ quan cùng đơn vị, tối đến đi đốc canh các vọng gác ở vòng rào và chân cầu. Thỉnh thoảng dẫn một trung đội theo xe tiểu khu đi hộ tống các đoàn xe chở đạn tiếp tế các đơn vị hay chở tân binh đi thụ huấn ở quân trường Vạn Kiếp khi các đoàn xe này đi qua lãnh thổ tiểu khụ vào mùa thi, tôi được tiểu khu cắt dẫn lính bảo vệ trường thi. Mấy ông cảnh sát lem nhem lợi dụng nhiệm vụ trật tự, mưu toan ném bài giải vào phòng thi bị tôi chận lại tịch thu hết.

 

Cuối năm 1973, tôi nộp đơn lên bộ Quốc Gia Giáo Dục xin cứu xét can thiệp với bộ Quốc Phòng cho tái biệt phái tôi về dạy học. Đơn được giải quyết và tôi được trả lại ty Giáo Dục Biên Hòa mà Trưởng Ty bấy giờ là ông Phạm Đức Bảo. Lúc đó vào giữa niên khóa, để khỏi làm xáo trộn thời khóa biểu các đồng nghiệp, tôi xin ở lại Ty làm việc . Ông Trưởng Ty xếp tôi làm ở phòng Học Vụ mà trưởng phòng là ông Lê Hồng Sanh. Niên khóa sau, chán công việc hành chánh tôi xin ông Trưởng Ty về lại trường Ngô Quyền đứng lớp. Đầu năm 1975, tôi có giấy thuyên chuyển về Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng Sài Gòn. Tuy nhiên, hàng tháng tôi vẫn còn lên Biên Hòa lãnh lương. Gần cuối tháng tư năm 1975, nhân lên Biên Hoà lãnh lương, tôi ghé một quán nhậu gần rạp Biên Hùng lai rai vài chai bia với món chem chép xào tiêu. Khi đó phòng tuyến Xuân Lộc đã vỡ, cộng quân đang uy hiếp Biên Hòa, qua men bia tôi nhìn thành phố Biên Hòa trong những giờ phút yên tĩnh mong manh trước khi cơn đại hồng thủy ập đến.

 

Sau biến cố 75, tôi đã lên Biên Hòa hai lần. Một lần trước khi đi tù cải tạo để chứng kiến cảnh  không, đường trống của thành phố Biên Hoà thân yêu đã đổi chủ. Lần thứ hai, sau khi đi tù cải tạo về, tôi ngơ ngác giữa thành phố Biên Hòa xa lạ, trước trường trung học Ngô Quyền đổi thay da thịt. Ôi cảnh cũ đây mà người xưa giờ ở đâu? Ký ức đưa tôi về những kỷ niệm cũ: còn đâu những buổi trưa ở phòng giáo sư tranh thủ binh xập xám với các bạn đồng nghiệp Lê Văn Túy, Lê Quý Thể, Lâm Tấn Văn… để chờ giờ lên lớp. Còn đâu những đêm ở nhờ nhà anh Lê Quý Thể chứng kiến "quý thầy" xoa mạc chược, có lần cảnh sát đến xét sổ gia đình, cũng làm lơ bỏ đi khi biết các Thầy là Giáo Sư Ngô Quyền. Tình nghĩa trước năm 75 là thế ấy. Làm sao tìm được những thứ ấy trong xã hội Viêt Nam bây giờ?

 

Những gì tôi viết ở đây là tự đáy tâm hồn, không màu mè, che đậy. Thầy giáo cũng là con người, nhiệm vụ là truyền thụ kiến thức, nếu có những khuyết điểm xin mọi người thông cảm bỏ qua. Ở hoàng hôn của cuộc đời, sống lại với kỷ niệm cũ là những giây phút hạnh phúc nhất còn lại .

 

  Montreal, Canada đầu Xuân 2006

 (Trích Tuyển tập NQ 2006)

07 Tháng Giêng 2010(Xem: 75171)
Vạn dặm đường xa, vạn dặm xa Khói chiều vương vấn bóng quê nhà Lòng nặng lòng nghe hoàng hôn xuống Một khối tình em, một mẹ già
07 Tháng Giêng 2010(Xem: 71395)
Cho tôi nhìn thấy nụ cười, Ở trên môi những cuộc đời tối tăm. Cho mây về phố trưa nằm, Làm mưa trôi hết lỗi lầm ra sông.
27 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 76017)
Cúi xuống bờ dậu nghe nao nao Mẹ ngày hè cũng như tháng giá Ngẩng lên thấy mồ hôi ướt áo Vai mẹ gầy như cánh hạc xa
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74182)
Nhắc lại năm xưa tuổi còn thơ dại Áo trắng tan trường kẻ đón người đưa Một thoáng thầm yêu giấu trong sách vở Ấp ủ lâu ngày hoa mộng thành thơ
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 75355)
Mùa xuân nghiêng bờ vai Ngắ m đào mai rực rỡ Trắng tinh chùm hoa đại Tỏa ngan ngát mùi thơm
19 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 32603)
Có những cá tính, những sở thích hôm nay bắt nguồn từ thời còn ngồi ở ghế Trung học được các Thầy Cô truyền dạy nhiều kiến thức. Như lớp Tứ 1 (9/1) nk 69-70 của chị Võ Thị Ngọc Dung chẳng hạn cả lớp mê thơ và đã tập tành làm thơ từ một giờ Quốc Văn sôi nổi, lý thú của Thầy Nguyễn Văn Phú.
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 76921)
Anh về cõi trời mây Niết bàn muôn tia sáng Nghiệp chướng hết buộc ràng Nơi phương trời giải thoát
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74486)
Mỗi người một hướng đi Tôi ra ngoài sương gió Trung Nam phân nhị Kỳ Xuân Thu đồng nhất Ngộ
17 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 59818)
Ngày hay tin bạn mất Mây tím buồn rưng rưng Hai phương trời cách biệt Ôi tiếc nhớ vô cùng
10 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74274)
Trên đường về lặng lẽ Ôm nỗi buồn trong tay Đông ngâm bài thơ cũ Mắt lệ nhòa không hay!
09 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 77328)
Rồi cơn đau buốt niềm riêng Anh sa trường bước vào miền chiến chinh Chờ anh mòn mỏi chờ anh    Bóng khuya vàng khuyết nửa vành trăng nghiêng
04 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 83444)
Áo trắng bây giờ xa thật xa, Gối mộng em vào giấc mơ hoa, Anh vẫn cô đơn đời sương gió, Vàng Thu áo trắng đã nhạt nhòa....
03 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 84536)
Sông buồn vẫn bóng hàng dừa Sóng tình lạc lõng đong đưa nỗi sầu   Mình em ngồi đếm vì sao Sương khuya bạc áo hồn đau khóc thầm
01 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 82763)
Mười bảy năm sau tôi trở lại Nhà cũ, vườn xưa ̣đổi khác rồi Giòng sông thơ ấu không còn nửa Trăng buồn lơ lững...bóng ̣đơn côi...
29 Tháng Mười Một 2009(Xem: 86408)
Em nghĩ cô như dòng sông rộng Ôm nước về chở nặng phù sa Đắp vào em chỗ bờ nông cạn Kiệt sức mình sông vẫn thiết tha
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 92302)
Có một người gõ cánh cửa thời gian* Thấy tháng ngày qua bỗng nhiên dừng lại Thấy nắng hè không còn trên đường cũ Một chút mùa vàng đã bước vào thu.
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 88632)
Tôi trở về đây vào cuối Thu Phi Trường còn đó, gió vi vu Rừng cao su nắng xuyên cành lá Đất đỏ hôm nào thấm giọt mưa
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82607)
Mùa thu nắng hao gầy trên tán lá Hong chưa khô tóc cỏ ướt sương mù Mây bay về chập chùng không vội vã Gió heo may qua đường vắng vi vu
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82640)
buổi sáng mùa thu bất ngờ về phố chở buồn ren rén quá giang chở ký ức xa chở mất mát chìm
23 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63203)
Em về, bỏ lại vầng trăng Cho tôi ngồi ngắm mỗi lần thu sang Bến tình lững chiếc đò ngang Bến đời tôi ngập lá vàng... chờ em!
23 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63791)
Ta vẫn trải sầu theo tiếng thơ Em đi mắt lạnh mấy thu chờ Đường tình em bước thênh thang quá Nhớ giữ dùm ta ánh mắt xưa!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 81112)
Mùa thu về hai phương trời cách biệt Lá bên nào cũng vàng úa như nhau!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82398)
Nghiêng câu lục bát cho đầy Cho Thu thêm ấm cho dài nhớ thương Đêm nầy nghiêng sợi mưa tuôn Nghiêng qua cho đổ lá buồn Thu ơi!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 83654)
Mùa thu ơi! khoan đi chờ ta với Xin ít mây, xin ít nắng hanh vàng Xin một tí hương thầm nơi hoa cúc Xin nửa vầng trăng rất đổi dịu dàng
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 84735)
nợ tình mỏng, mà nặng đeo mỗi thu như mỗi dày theo tuổi đời hơi may gợn, nhắc bồi hồi một bờ mây, đã, cuối trời quan san...
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 100242)
Chỉ còn vài ngày nữa là thành phố Adelaide, nơi tôi đang cư  ngụ sẽ vẫy tay chào mùa đông để chính thức bước vào mùa xuân. Ngày đã trở nên dài ra và trời đã bắt đầu ấm áp trở lại.
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 93902)
Cầm tờ thư của cô tôi ấp nhẹ vào ngực. Ơi! cô giáo nhân ái còn hơn bà tiên trong thần thoại đã dang tay cứu tôi trong nhiều lần khốn khó. Thời gian đi qua thật lâu rồi nhưng tất cả những gì về cô tôi đều nhớ. Bảy năm trời lớn lên từ một mái trường nên mãi mãi ngôi trường Ngô Quyền thân yêu ấy là một ngăn nhớ êm đềm trong quả tim tôi.
16 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63638)
                       Đông về lá rụng sương rơi Nhớ anh em thấy bồi hồi ngày qua......