Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS Huỳnh Công Ân - Biên Hòa, Ngô Quyền Và Tôi.

07 Tháng Mười Một 20141:00 SA(Xem: 69249)
GS Huỳnh Công Ân - Biên Hòa, Ngô Quyền Và Tôi.
Tùy bút
          Biên Hòa, Ngô Quyền và Tôi
              *Kính tặng ông Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo
 

 

 28__Thay_HuynhCongAn-content

GS Huỳnh Công Ân

Nhà Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về

(Ca dao miền Nam)

 

Dường như tỉnh Biên Hoà là một phần định mệnh của cuộc đời tôị. Tuy tôi sinh ra ở tỉnh Thủ Dầu Một (thời VNCH gọi là Bình Dương), một tỉnh giáp ranh với Biên Hòa, nhưng lạ lùng thay trong khai sinh tôi lại ghi nơi sinh là Thủ Dầu Một, Biên Hòa. Thành ra khi khai lý lịch tôi không biết mình phải ghi nơi sinh là Thủ Dầu Một hay Biên Hòa cho đúng. Tôi đành ghi cả hai tỉnh là nơi sinh của mình cho hợp với khai sinh để tránh tội khai man lý lịch. Tôi có hỏi ba tôi về việc này thì ông cho biết vì ngày trước, tỉnh Thủ Dầu Một không có tòa án hòa giải nên ba tôi phải sang Biên Hòa để lập khai sinh cho tôi . Lại nữa, trong 5 năm liên hệ với Biên Hòa (1969-1975) tôi đã làm thầy giáo và lính chiến (lính thực sự chứ không phải là lính biệt phái) cho thủ phủ miền Đông này. Vì vậy, tôi đã có khá nhiều kỷ niệm vui, buồn với Biên Hòa qua chức vụ quân nhân của tiểu khu Biên Hòa cũng như giáo chức của trường trung học Ngô Quyền.

 

Tuy khai sinh tôi có ghi nơi sinh là Biên Hòa nhưng mãi đến khi đi trình sự vụ lệnh thuyên chuyển từ một tỉnh xa tít miền Tây về trường trung học Ngô Quyền tôi mới đến Biên Hòa lần đầu tiên vào mùa khai trường niên khóa 1969-1970. Thành phố Biên Hòa tuy có lớn hơn thị xã Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Bình, nơi tôi dạy học 4 năm đầu của cuộc đời thầy giáo, nhưng vốn lớn lên và sống ở thủ đô Sài Gòn nên tôi vẫn cảm nhận đây cũng chỉ là một tỉnh lỵ không phải là nơi phồn hoa, náo nhiệt như Sài Thành hoa lệ, thành ra tôi tự nhủ mình nên dè dặt trong lối sinh hoạt để giữ cho đúng tác phong thầy giáo.

Khi gặp ông Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo, một người đứng tuổi, to lớn, có dáng dấp một võ sư hơn là một giáo sư (nghe nói ông tập tạ hàng ngày), tôi cảm thấy thoải mái vì ông ấy rất cởi mở và thông cảm. Được biết tôi là một sĩ quan biệt phái, từng phục vụ ở đơn vị tác chiến và đã bị thương ở chiến trường , ông ân cần hỏi thăm vết thương của tôi. Lại biết nhà tôi ở Sài Gòn và có giờ dạy trường tư dưới đó, nên ông bảo tôi yên tâm, ông sẽ nói ông Giám Học xếp 15 giờ chính thức của tôi vào hai ngày đầu tuần.

 

Từ đó, hàng tuần tôi lái lambretta từ Sài Gòn  lên Biên Hòa dạy hai ngày thứ hai và thứ ba, đêm thứ hai ở lại Biên Hòa ngủ ở nhà người anh họ, chiều thứ ba trở về Sài Gòn coi như đã là weekend, những ngày còn lại thì dạy tư và vui chơi ở Sài Gòn. Đây thật là một giai đoạn hạnh phúc nhất của đời tôi . Đồng nghiệp và học tròở Ngô Quyền cũng rất dễ chịu. Ban giám đốc trường: ông  Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo dễ dãi, ông Giám Học Phạm Khắc Thành ca va, ông phụ tá giám học Hoàng Đôn Trịnh thì hơi reglo một chút. Học sinh thì đa số rất chăm học và học giỏi không thua sút các trường lớn Pétrus Ký, Chu Văn An, Gia Long, Trưng Vương ở Sài Gòn. Cũng tại trường Ngô Quyền Biên Hòa, tôi có vinh hạnh phụ trách một lớp 12 B  mà trong số học sinh có nhà thơ tài hoa Nguyễn Tất Nhiên và nhân vật nữ tên Duyên đã đi vào giai thoại văn chương Việt Nam qua các bài thơ tình tuyệt tác của Nguyễn Tất Nhiên. Tôi còn nhớ ngày anh chàng Hải (tên thât của Nguyễn Tất Nhiên) rụt rè tới bàn thầy, trao tặng tôi tác phẩm đầu tay của anh tựa là "Thiên Tai”, không ngờ về sau  anh chàng này lại trở thành một trong những thiên tài của văn thơ hiện đại Việt Nam .

 

Nhưng, ngày vui qua mau, định mênh đưa đẩy tôi trở lại quân đội sau một đêm nhậu nhẹt với bạn bè và ấu đả với một nhân vật có thế lực ở Sài Gòn mà hậu quả là tôi bị bộ Quốc Phòng  trả về đời sống quân nhân bằng một quyết định quân kỷ. Khi lên nhận sự vụ lệnh trả về Quân Đội tôi được cho một đặc ân chọn đơn vị. Định mệnh lạ khiến tôi chọn tiểu khu Biên Hòa. Khi được tin này, ông Hiệu trưởng dắt tôi vào Tiểu Khu gặp thiếu tá Thành, tham mưu trưởng tiểu khu gởi gắm. Tôi đuợc đưa về đại đội 3/463 DPQ trấn giữ cầu Đồng Nai trên xa lộ Sài Gòn Biên Hòa. Nhờ sự giúp đỡ sốt sắng của ông Hiệu Trưởng, tôi không bị đẩy ra chiến trường trong mùa hè đỏ lửa năm 1972. Nếu không, chắc gì tôi còn sống đến ngày hôm nay để viết những dòng chữ này. Vì vậy ân nghĩa này của ông Hiệu Trưởng suốt đời tôi không quên được. Sau biến cố 1975, được tin ông bị nạn, tôi rất lo lắng, nhưng nay qua tin của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Ngô Quyền biết ông vẫn còn mạnh khoẻ và có thể qua Hoa Kỳ dự Buổi Hội Ngộ Trùng Phùng năm 2006 tôi rất mừng cho ông.

 

"Hai năm trấn thủ lưu đồn, ngày thì việc nước, tối dồn việc quan" 1972-1973 của tôi ở cầu Đồng Nai cũng qua mau. Ngày thì đánh bi da, cá độ uống bia với các sĩ quan cùng đơn vị, tối đến đi đốc canh các vọng gác ở vòng rào và chân cầu. Thỉnh thoảng dẫn một trung đội theo xe tiểu khu đi hộ tống các đoàn xe chở đạn tiếp tế các đơn vị hay chở tân binh đi thụ huấn ở quân trường Vạn Kiếp khi các đoàn xe này đi qua lãnh thổ tiểu khụ vào mùa thi, tôi được tiểu khu cắt dẫn lính bảo vệ trường thi. Mấy ông cảnh sát lem nhem lợi dụng nhiệm vụ trật tự, mưu toan ném bài giải vào phòng thi bị tôi chận lại tịch thu hết.

 

Cuối năm 1973, tôi nộp đơn lên bộ Quốc Gia Giáo Dục xin cứu xét can thiệp với bộ Quốc Phòng cho tái biệt phái tôi về dạy học. Đơn được giải quyết và tôi được trả lại ty Giáo Dục Biên Hòa mà Trưởng Ty bấy giờ là ông Phạm Đức Bảo. Lúc đó vào giữa niên khóa, để khỏi làm xáo trộn thời khóa biểu các đồng nghiệp, tôi xin ở lại Ty làm việc . Ông Trưởng Ty xếp tôi làm ở phòng Học Vụ mà trưởng phòng là ông Lê Hồng Sanh. Niên khóa sau, chán công việc hành chánh tôi xin ông Trưởng Ty về lại trường Ngô Quyền đứng lớp. Đầu năm 1975, tôi có giấy thuyên chuyển về Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng Sài Gòn. Tuy nhiên, hàng tháng tôi vẫn còn lên Biên Hòa lãnh lương. Gần cuối tháng tư năm 1975, nhân lên Biên Hoà lãnh lương, tôi ghé một quán nhậu gần rạp Biên Hùng lai rai vài chai bia với món chem chép xào tiêu. Khi đó phòng tuyến Xuân Lộc đã vỡ, cộng quân đang uy hiếp Biên Hòa, qua men bia tôi nhìn thành phố Biên Hòa trong những giờ phút yên tĩnh mong manh trước khi cơn đại hồng thủy ập đến.

 

Sau biến cố 75, tôi đã lên Biên Hòa hai lần. Một lần trước khi đi tù cải tạo để chứng kiến cảnh  không, đường trống của thành phố Biên Hoà thân yêu đã đổi chủ. Lần thứ hai, sau khi đi tù cải tạo về, tôi ngơ ngác giữa thành phố Biên Hòa xa lạ, trước trường trung học Ngô Quyền đổi thay da thịt. Ôi cảnh cũ đây mà người xưa giờ ở đâu? Ký ức đưa tôi về những kỷ niệm cũ: còn đâu những buổi trưa ở phòng giáo sư tranh thủ binh xập xám với các bạn đồng nghiệp Lê Văn Túy, Lê Quý Thể, Lâm Tấn Văn… để chờ giờ lên lớp. Còn đâu những đêm ở nhờ nhà anh Lê Quý Thể chứng kiến "quý thầy" xoa mạc chược, có lần cảnh sát đến xét sổ gia đình, cũng làm lơ bỏ đi khi biết các Thầy là Giáo Sư Ngô Quyền. Tình nghĩa trước năm 75 là thế ấy. Làm sao tìm được những thứ ấy trong xã hội Viêt Nam bây giờ?

 

Những gì tôi viết ở đây là tự đáy tâm hồn, không màu mè, che đậy. Thầy giáo cũng là con người, nhiệm vụ là truyền thụ kiến thức, nếu có những khuyết điểm xin mọi người thông cảm bỏ qua. Ở hoàng hôn của cuộc đời, sống lại với kỷ niệm cũ là những giây phút hạnh phúc nhất còn lại .

 

  Montreal, Canada đầu Xuân 2006

 (Trích Tuyển tập NQ 2006)

17 Tháng Năm 2010(Xem: 54290)
Thơ: Võ Thị Tuyết Nhạc: LmST Hòa âm: Cao Ngọc Dung Ca sĩ: Tâm Thư
15 Tháng Năm 2010(Xem: 76179)
Gặp nhau siết mạnh tay một chút Thiêng liêng tình bạn đã lên ngôi Giá như chưa hết bao nuớc mắt Chắc ngàn giọt lệ vội tuôn rơi
14 Tháng Năm 2010(Xem: 82994)
26 năm nghiệt ngã Kết thúc cuộc tình buồn Em trở thành nước lã Anh trở thành người dưng!
13 Tháng Năm 2010(Xem: 86559)
Lục bình theo con nước Vui nở tím triền sông. Đồng lúa xanh mênh mông Cò vui bòn tôm cá
13 Tháng Năm 2010(Xem: 81183)
Bờ giếng khơi lan cỏ Mặt nước trong ngời ngời Chứa trăm làn mây nhỏ Vầng nhật nguyệt chơi vơi.
07 Tháng Năm 2010(Xem: 140014)
Mẹ là đề tài xưa cũ nhưng không bao giờ lỗi thời trong Thơ Văn; nhờ thế mà hôm nay, nhân Ngày Lễ Mẹ 9/5/2010, chúng ta có dịp giới thiệu trên Trang Web Nhà những bài viết ngắn qua lời văn chân thật, những vần thơ giản dị mà tràn ngập hình ảnh, hồi ức, kỷ niệm thân thương về Mẹ . Xin bấm các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
07 Tháng Năm 2010(Xem: 61884)
Tháng Năm Lễ Mẹ, mẹ ơi! Con không về được xin Người thứ tha Thêm mùa Lễ Mẹ xa nhà Nhớ lòng biển cả mẹ già dấu yêu!
07 Tháng Năm 2010(Xem: 91118)
Ngày nay, má tựa như ngọn đèn dầu trước gió, nếu một mai ngọn đèn tắt đi, e rằng cuộc đời còn lại của tôi sẽ mang nhiều ân hận và tiếc nuối. Ân hận vì không có những giây phút kề cận bên má lúc tuổi già, tiếc nuối vì không còn được một lần ăn lại món thịt nọng kho, cá trê chiên dầm nước mắm mỡ hành và nghe giọng nói của má với “ Hương vị ngọt ngào”.
06 Tháng Năm 2010(Xem: 75103)
Giờ muốn khóc, tự nhiên con thèm khóc Như lăn vòng khỏi võng, khóc hụt hơi Ước chi Má một bên bồng con dậy Khóc một đêm rồi xa Má muôn đời!
06 Tháng Năm 2010(Xem: 80310)
Chúng ta hãy cài một hoa hồng cho những ai còn Mẹ! và một đóa bạch hồng cho những ai mất mẹ. Dù Mẹ còn hay mất, chúng ta cũng phải nên nhớ cho rằng, tất cả ai sống trên đời nầy, thân thể nầy cũng chỉ là một phần tách rời từ thân thể Mẹ mà ra.
06 Tháng Năm 2010(Xem: 65505)
Để con lạnh Mẹ sợ ghê Chiều Đông mưa gió não nề lạnh căm Mẹ ôm con chặt trong lòng Lời ru Mẹ hát, ấm vòng tay êm
30 Tháng Tư 2010(Xem: 79655)
tháng tư về, một thoáng bâng khuâng chút nắng tan, chợt nồng mắt đỏ ai trả lời em điều chưa bày tỏ rằng một thời ta đã yêu nhau?
29 Tháng Tư 2010(Xem: 79796)
Vòng eo áo nhỏ mồ côi Chờ vòng eo thật của người mình thương Lao xao gió bụi mười phương Những hàng khuy bấm giận hờn bung ra
28 Tháng Tư 2010(Xem: 82422)
Xa sông Đồng Nai rồi thấy nhớ Bìm bịp kêu con nước lớn ròng Một bên bồi phù sa màu mỡ Bờ bên kia sóng cuộn thành dòng.
25 Tháng Tư 2010(Xem: 93658)
Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người.
17 Tháng Tư 2010(Xem: 76155)
Vẫn em, áo, với tóc thề, Nghìn xa vẫn một tình quê đậm đà. Đã đành xa vẫn còn xa, Áo em vẫn nét mượt mà Việt Nam!
17 Tháng Tư 2010(Xem: 75751)
Xưa mình đi học về Qua đường đê quanh co Tím màu hoa mắc cỡ Đồng xanh trắng cánh cò.
16 Tháng Tư 2010(Xem: 77068)
Khắc khoải niềm tâm sự Sầu trọn kiếp chưa nguôi Biết ai người tri kỷ Chia xẻ những ngậm ngùi?
15 Tháng Tư 2010(Xem: 59694)
Kể lại để cùng nhớ Cau trầu nhai với vôi Thành màu son đỏ ối Thắm tình nghĩa thiêng liêng.
12 Tháng Tư 2010(Xem: 73453)
Ru em khúc tình sầu Anh quên lời ca cuối Bên ngoài trời mưa vộ i Em hãy ngủ cho ngoan
07 Tháng Tư 2010(Xem: 73130)
Đẹp như màu áo em Nữ sinh trường Ngô Quyền Đạp xe theo Quốc Lộ Che chiếc nón nghiêng nghiêng
06 Tháng Tư 2010(Xem: 83763)
Ngày đầu bước vào ngưỡng cửa Trung học của tôi không được đẹp và dễ thương như các nhà văn đã miêu tả. Tuy nhiên nó vẫn cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.
05 Tháng Tư 2010(Xem: 75082)
Mỗi một mùa gió lộng Mươi bài hát phiêu du Cò xưa gầy bay trắng Rừng lá phủ sương mù .
05 Tháng Tư 2010(Xem: 71964)
Tình em là biển cả Tình anh là mây trôi Hai nẽo đời khác lạ Đành gọi cố nhân thôi!
05 Tháng Tư 2010(Xem: 73899)
Thêm mùa hoa bưởi tháng ba Lòng tôi nhớ đến Biên Hòa ngày qua Bao mùa hoa bưởi xa nhà Nhớ về quê cũ hương hoa thơm nồng
04 Tháng Tư 2010(Xem: 61794)
Mồ hôi chan vào đất Cho dâu lá xanh rờn Trải dài xa tít tắp Dáng mẹ càng gầy hơn.
04 Tháng Tư 2010(Xem: 70949)
bất ngờ phố cổ chiều vàng nắng xao xuyến lòng ai chợt bâng khuâng tôi đã gặp em từ lâu lắm, hay mới hôm nào giữa phố xuân?
04 Tháng Tư 2010(Xem: 72414)
Yêu nhau tha thiết giữ gìn nhau Tình ngát hương trinh tự thuở nào Cố giữ trong lòng hương kỷ niệm Cho tình đẹp mãi đến ngàn sau…