Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Lương Thị Khá - Nhớ Về Thầy Cô Lớp Đệ Thất B1 (1956-1957)

19 Tháng Giêng 200912:00 SA(Xem: 42242)
Lương Thị Khá - Nhớ Về Thầy Cô Lớp Đệ Thất B1 (1956-1957)

 

 

Nhớ về Thầy Cô Lớp Đệ Thất B1 (1956-1957)

 

                                                     Lương Thị Khá

 

Kính Thưa Quý Thầy Cô,

 

Con luôn nhớ đến công ơn những Thầy Cô đã dạy dỗ con từ những ngày con bắt đầu bước chân vào học lớp vỡ lòng cho đến những Thầy Cô đã dạy con những năm cuối của tuổi học trò. Giờ đây, ngồi viết về công ơn Thầy Cô thì không bút mực nào tả hết được. Hôm nay, sắp đến ngày kỹ niệm 50 năm ngày thành lập trường, con xin phép Quý Thầy Cô cho con được viết đôi dòng về những Thầy Cô đã dạy chúng con trong năm Đệ Thất B1 (1956-1957) cách đây đúng 50 năm.

 

Kính thưa Quý Thầy Cô,

Ngày ấy chúng con là những học sinh lớp Đệ Thất B1, chúng con là những đứa bé vừa hơn 10 tuổi, và đến nay đã 50 năm nhưng hình ảnh Thầy Cô không thể xóa nhòa trong trí chúng con.

 

Chúng con nhớ đến Thầy Đinh Văn Sái dạy Toán Lý Hóa, Thầy Nguyễn Văn Huệ dạy Việt Văn, Thầy Dương Hòa Huân dạy Sử Địa, Thầy Phạm Văn Mẩn dạy Vẽ, Cô Trần Ngọc Anh dạy Nữ công, Thầy Trần Văn Lộc dạy Nhạc, Thầy Phạm Kim Tiếng dạy Pháp Văn, Thầy Trần Minh Đức dạy Anh Văn.

 

Giờ đây Thầy Sái, Thầy Huệ, Thầy Huân, Thầy Tiếng đã thực sự về sống nơi thế giới mới, nhưng những kỷ niệm và hình ảnh của các Thầy Cô không thể xóa mờ trong trí của chúng con. Một điều mà con nhớ gần nhứt là trong năm 1989, 1990 con còn sống ở quê nhà, con đã được nhiều lần nói chuyện với Thầy Sái trong vấn đề Thầy nên ra đi hay ở lại Việt Nam khi tuổi Thầy đã lớn, và cuối cùng Thượng Đế đã sắp xếp Thầy ở lại vĩnh viễn với quê hương Việt Nam.  Con nhớ hoài hình ảnh của Thầy với chiếc xe Thầy vẫn chạy, mỗi khi Thầy ghé lại nghĩ chân chổ con bán hàng trước khi Thầy tiếp tục đi về Tân Uyên. Ngày còn nhỏ học với Thầy con sợ Thầy bao nhiêu, tuổi lớn lên con càng thương kính Thầy bấy nhiêu.

 

Về Thầy Tiếng, con không đủ giấy để viết về công ơn và những kỷ niệm mà con có từ Thầy. Nếu không có Thầy Tiếng con sẽ không có tên trong danh sách của những học sinh lớp Đệ Thất B1(1956-1957), và không có sự thành công trong đời con.

 

Chúng con xin kính cẩn cuối đầu cầu nguyện cho linh hồn các Thầy luôn yên vui và bình an nơi cõi niết bàn.

 

Cô Trần Ngọc Anh và Thầy Trần Văn Lộc hiện giờ đang sống ở Việt Nam. Riêng Thầy Đức được coi như một Thầy trẻ nhất lúc bấy giờ.Thầy chỉ dạy chúng con trong năm Đệ Thất B1, và sau đó Thầy không tiếp tục dạy tại trường Ngô Quyền nữa, từ đó chúng con không có dịp gặp lại Thầy.   Chúng con không thể quên được hình ảnh của một người Thầy trẻ nhưng lúc nào cũng tận tụy với học sinh của Thầy.  Chúng con không thể quên được những buổi Thầy dạy thêm cho chúng con tại nhà Thầy vì tiếng Anh được coi như môn học mới của những học sinh lớp Đệ Thất lúc bấy giờ.

 

Sau 50 năm, tuổi đời chồng chất lên những học sinh lớp Đệ Thất bé nhỏ ngày nào. Các Thầy Cô cũng đã cộng thêm 50 năm tuổi nữa, nhưng một điều chắc chắn không thay đổi là chúng con luôn kính yêu Thầy Cô như những ngày chúng con còn nhỏ, và luôn mong mỏi được sự dẩn dắt của Thầy Cô.

 

Chúng con luôn hy vọng và mong rằng ngày Hội Trùng Phùng sớm đến để được gặp lại Thầy Cô của chúng con.

 

Xin cầu nguyện ơn trên cho Thầy Cô và bạn bè chúng con có đầy đủ sức khỏe và trở về họp mặt trong ngày Hội Trùng Phùng kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường.

 

                                                                        Boston, ngày 28/02/2006

 

29 Tháng Ba 2009(Xem: 69642)
Mỗi ngày em liên tưởng đến những chuyến tàu sẽ mang anh đi, sẽ trả em về, và em khóc...
27 Tháng Ba 2009(Xem: 70795)
Tình nồng hương đượm mong manh, Dẫm chân ta bước cuộc tình lỡ duyên!
23 Tháng Ba 2009(Xem: 73284)
Vẫy tay chào hang yên chi hoa đỏ Chào khuôn sân đá cuội trắng rì rào Chào hàng sao chim tụ về làm tổ Chào tượng Ngô Quyền nắng ngủ trên cao
23 Tháng Ba 2009(Xem: 73422)
Về lại Biên Hòa thăm con đường xưa Dốc học trò vẫn mang tên Kỷ Niệm
23 Tháng Ba 2009(Xem: 72659)
Vẫn là mưa nghiêng nghiêng giăng trắng Trên hàng cây bãi cỏ sân trường Sao không giống ngày xưa sâu lắng Chiều tan trường bè bạn thân thương
23 Tháng Ba 2009(Xem: 70511)
Biên Hòa em vẫn thương hoài Ngô Quyền ngày trước, áo dài màu xanh.
23 Tháng Ba 2009(Xem: 72758)
Nếu một mai tôi chết, Xin đừng khóc cho tôi. Đường đời chia đôi ngả, Hãy chôn tình phai phôi.
23 Tháng Ba 2009(Xem: 72851)
Saigon ơi, xa rồi ta vẫn nhớ Những chiều xưa hai đứa lén hẹn hò!
23 Tháng Ba 2009(Xem: 72680)
Lưu bút ngày xưa kỷ niệm đầy, Tình thân bạn cũ hãy còn đây! Ngây ngô ghi vội đôi dòng chữ Đầy ấp yêu thương mỗi phút giây.
02 Tháng Ba 2009(Xem: 72284)
ôi, mùa hè tuổi nhỏ hóa thân giữa màu hoa ôi, mùa hè êm ả phục sinh từ đôi ta!
24 Tháng Hai 2009(Xem: 33073)
  Trong tuyển tập “Giữa Hai Miền Mưa Nắng” của nhà văn Hoàng Mai Ðạt, tác giả đã kể lại một chuyến về Việt Nam vào năm 1998, đặc biệt là ở vùng đất Biên Hòa, quê vợ của anh. Sau đây là trích đoạn tác giả về thăm một nơi chốn đã khiến anh bồi hồi với bao cảm xúc, đó là trường Ngô Quyền của vợ anh cũng như của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, người viết những bài thơ tình bất hủ mà anh yêu thích từ lâu.
24 Tháng Hai 2009(Xem: 80521)
  ( Kính tặng Thầy Toán Nguyễn Văn Phố)
24 Tháng Hai 2009(Xem: 73269)
  Nay đất khách quê ngưòi: Thân biệt xứ. Áo công khanh rách nát giữ trong tim. Chút hương xưa là chút lửa êm đềm, Dùng sưởi ấm niềm riêng, chờ Hội lớn.
24 Tháng Hai 2009(Xem: 35532)
  Rời Sài Gòn tháng Tư năm 75. Đến Mỹ, Thượng Châu hợp tác với nhà văn Võ Phiến, Lê Tất Điều, ký giả Nguyễn Hoàng Đoan xuất bản tờ báo Việt ngữ đầu tiên tại Hoa Kỳ tên Hồn Việt, do nữ ca sĩ Khánh Ly làm chủ nhiệm. Sau đó, hội nhập đời sống Mỹ, đi làm việc ở SanDiego đã được 28 năm và sắp về hưu. Lâu lắm, không viết lách gì, nhưng bây giờ với tiếng gọi trường cũ Ngô Quyền, Thượng Châu rất sẵn sàng và vui vẻ đóng góp
20 Tháng Hai 2009(Xem: 81671)
Ba mươi năm chờ đợi Hoa tàn, trăng tận, sông quằn mình trăn trở Ba mươi năm nhớ mong Lá héo, sao mờ, biển cồn cào dậy sóng
20 Tháng Hai 2009(Xem: 76886)
  Đứng trước biển mùa Đông thêm cô quạnh Cánh hải âu đơn lẻ chập chờn bay Hải đăng xa nhạt nhòa trong sương lạnh Đá chập chùng, mong mỏi đợi chờ ai  
20 Tháng Hai 2009(Xem: 76832)
  Nhớ sao cứ nhớ quắt quay Ngô Quyền bạn cũ giờ đây ai còn?                  
20 Tháng Hai 2009(Xem: 76353)
Một chút mây trời, để nhớ thương, Bay qua thật nhẹ, trước cổng trường.  
16 Tháng Hai 2009(Xem: 76854)
Tặng Mai Trọng Ngãi, Đinh Hoàng Vân, Tiêu Hồng Phước, Tô Anh Tuấn và Phan Kim Phẩm.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 24509)
Sự cư xử giản dị nhưng đầy tình chân thật của em là một món quà vô giá mà không dễ gì tôi nhận được một lần thứ nhì trong đời.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 38121)
... và như thế, Ngô Quyền hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là tổ ấm của chúng ta miên viễn, đời đời...
05 Tháng Hai 2009(Xem: 91032)
Năm mươi ngọn nến hồng đang rực sáng, hân hoan mừng phút giây hạnh ngộ, trùng phùng. Hãy cùng nhau sớt chia, gìn giữ vì ngọt bùi nào rồi cũng sẽ chóng qua…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39473)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 88209)
  Con xin phép được viết đôi dòng kỷ niệm trong lứa tuổi học trò của con vớI những câu nói của Thầy mà gần 50 năm qua vẫn còn in đậm trong trí con.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 35680)
  Chúng tôi trưởng thành trong một nền giáo dục “NHÂN BẢN và KHAI PHÓNG”, mà tinh thần “Tôn sư trọng đạo” thể hiện trong câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, với Thầy, một lòng tôn kính, với bạn, một dạ chân tình, xin mượn nơi nầy thắp nén tâm hương tri ân quí Thầy đã quá vãng, tưởng nhớ quí Bạn đã qua đời.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 75729)
  Này em còn nhớ hay quên ? Lời Thầy Cô dạy chớ nên lơ là. Vì đâu mà có thân ta, Công Cha, Nghĩa Mẹ bài ca dao này;  
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39995)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 41155)
  Trường Trung học Ngô Quyền là một trường sinh sau đẻ muộn, so với các trường Pétrus Ký, Gia Long ở Sàigòn, và các trường Nguyễn Đình Chiểu (được gọi là Le Myre de Vilers thời thuộc Pháp) ở Mỹ Tho, và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ.