Mùa Đông năm nay dài quá, mãi gần cuối tháng Tư Trời mới chuyển sang Xuân, cây cốt vừa bắt đầu nẩy những mầm non tươi mát, đàn chim từ muôn phương bay về tìm nắng ấm, thiên hạ rộn ràng đón tiết Xuân sang. Những cây hồng bum búp những đóa hoa hồng thắm lung linh theo ánh Xuân vàng. Khi người và vật đang hân hoan chào đón mừng Xuân, thì bất chợt một cơn bão đổ về, suốt tuần nay mưa tầm tã, mưa như trút nước, mưa xối xả ngập khắp các nẻo đường, có hôm còn bị cả trận mưa đá nữa, sấm chớp rền vang, nhiều khu phố bị cúp điện vì cây đổ, những nơi gần bờ sông thì ngập lụt, nước tràn vào nhà lội bì bõm, chưa năm nào lại có 1 mùa Xuân ướt át như năm nay.
Cuối cùng, hôm nay mưa tạnh, bão ngừng, trả lại tiết Xuân ấm áp, bầu trời quang đãng, nắng vàng trải khắp vườn xanh, tiếng chim ríu rít gọi nhau trên cành cây soan trước ngõ, tha cỏ về xây tổ, chờ đón những chú chim con sắp sửa chào đời. Cảnh thiên nhiên đẹp lạ lùng, tôi vui lây với hạnh phúc của gia đình đôi chim uyên ương.
Bước ra sân rải thức ăn cho bầy chim, thú vui của tôi cho một ngày mới. Một buổi sáng mùa Xuân trong lành, lung linh ánh nắng. Tìm mãi không thấy cái mũ rơm hằng ngày, vào nhà kho của ông xã thì bắt gặp cái nón lá của chàng thường đội để cắt cỏ, làm vườn.
Nón lá! Đã từ lâu rồi tôi đã không còn đội nón lá nữa, cái nón quê hương, đan bằng lá dừa mà ngày xưa tôi mê từ thuở mới biết làm dáng, biết tránh nắng sợ làm đen da và che mưa để khỏi bị ướt tóc.
Năm lên 9, khi đang học lớp nhất, tôi ở trong ban vũ của nhà trường, thường biểu diễn những màn ca múa, màn nào các cô gái bé nhỏ chúng tôi cũng đều cầm nón. Từ “Khúc Ca Ngày Mùa” đến “Giọt Mưa Trên Lá” … Rồi lớn thêm tí nữa, khi được Mẹ cho mặc quần áo bà ba thay cho những chiếc áo đầm tự tay Mẹ may cắt mà Mẹ hay bắt tôi mặc, và được Mẹ mua cho 1 cái nón lá, xinh xinh. Mẹ lấy vải hoa may viền chung quanh vành nón, nhìn rất đẹp. Thật ra là Mẹ muốn nón được bền và cũng là để đánh dấu cho tôi dễ nhận, không lẫn lộn với nón của các bạn. Ngay cả chiếc quai nón cũng do Mẹ may chứ không mua ở chợ như mọi người. Tôi thích lắm, đi đâu cũng cắp nón theo. Trời nắng, nón che không bị nắng soi rám má, những hôm trời mưa, dùng nón che đầu cho khỏi ướt. Mỗi khi đi mưa về, tôi cẩn thận lau sạch sẽ trong, ngoài cho thật khô rồi treo nón lên tường.
Lớn thêm 1 tí nữa thì tôi bắt đầu để ý đến những chiếc nón của các chị lớn tuổi, các chị để mái tóc thề dài qúa vai, thướt tha trong tà áo dài, đầu đội những chiếc nón lá mỏng manh nhẹ nhàng. Ở Huế, người ta còn làm nón dứa, chiếc nón dày lại vẽ hoa bên trong, hơi nặng. À thì ra nón lá không phải chỉ là những chiếc nón giản dị mỏng manh như nón của tôi mà còn có nhiều loại.
Ở vùng quê Bắc Ninh, vào những ngày Hội Lim, ta thường thấy các cô gái nơi đây hay rủ nhau đi trẩy Hội, súng sính trong những chiếc áo tứ thân, mặc ngoài những giải yếm đào màu sắc, họ đùa vui ca hát những bài dân ca Quan Họ, và chắc chắn là không thể nào thiếu chiếc nón quai thao – một loại nón cổ làm bằng lá cọ già to gấp hai nón thường, nón hình tròn phẳng, bên trong có vòng tròn nhỏ để vừa đội lên đầu. Vành nón to che lấp cái liếc mắt dài sắc nhọn rất tình tứ của các nàng cùng nụ cười duyên ẩn giấu sau vành nón, e ấp trong bộ cánh tứ thân màu sắc làm nao lòng các chàng trai trẻ vào những ngày Hội Lim… đó cũng là điểm lôi cuốn du khách. Nón quai thao biểu tượng cho văn hóa làng Quan Họ Bắc Ninh thanh lịch. Cùng tô điểm thêm nét đẹp cho các người con gái Bắc Ninh nên các cô thường được coi là hoa khôi thời đó mỗi khi nhắc đến “Em gái Bắc Ninh”.
Nón quai thao (còn gọi nón ba tầm, nón dẹt, nón thúng, nón chủng, nón Nghệ,...) và thường được đi cùng với áo tứ thân (còn gọi áo mớ ba mớ bảy) là y phục cổ truyền nhất trong di sản văn hoá quan họ Kinh Bắc. Chiếc áo tứ thân che nửa kín nửa hở ngoài giải yếm đào đã làm xao xuyến đấng nam nhi, sự sang, đẹp của chiếc nón quai thao cũng tô điểm phần kiêu sa của người thiếu nữ Bắc Ninh ngày đó.
Ai làm chiếc nón quai thao,
Để anh thương nhớ ra vào không nguôi (Ca dao)
Tuy nhiên, nón quai thao thì qúa to chỉ đội vào những ngày Hội hè hay ngày Tết chứ không tiện cho việc di chuyển, vì vành nón qúa rộng chỉ 2 cô đội nón quai thao đi chung là đã thấy chật con đê đường làng vì 2 vành nón rộng chạm nhau.
Không chỉ làm vật dụng che nắng che mưa, chiếc nón lá Việt Nam đi vào huyền thoại như một nét đẹp văn hoá, mang tâm hồn quê hương dân tộc, gợi cảm hứng cho thi ca.
Ngày xưa, nón được sản xuất ở nhiều nơi như Hà Tây, Bắc Ninh, Quảng Bình, Nam Định…, nón đan bằng tay là một đặc sản thủ công nghệ. Ngày nay, nón được sản xuất từ các Công ty vẽ ra đủ kiểu, đủ loại, hoa văn khác nhau, với nhiều nét vẽ trang hoàng lộng lẫy, nhưng chiếc nón lá vẫn xuất hiện khắp các nẻo đường từ đồng quê đến thị thành Việt Nam như tiêu biểu cho sự trường tồn văn hóa.
Nếu nón quai thao biểu tựơng cho những nàng thiếu Nữ Bắc Ninh và những bài thơ “Quan Họ” thì chiếc nón bài thơ mảnh mai thanh thoát được biểu hiện một cách nhẹ nhàng như giọng nói ngọt ngào của các cô gái Huế.
Phụ nữ Huế dùng chiếc nón để che nắng, che mưa, lâu lâu cũng dùng nón để đựng đồ… nón bài thơ dùng để tô điểm thêm cho vẻ đẹp người con gái Huế, với áo dài tím, đôi guốc mộc đơn sơ, nón bài thơ thướt tha trên Cầu Trường Tiền mà ai nhìn cũng phải xao xuyến. Đã có rất nhiều lời thơ dùng để ca tụng về chiếc nón bài thơ Huế:
O dễ thương với nụ cười Gia Hội
Tóc Trường Tiền làm trai Huế ngẩn ngơ
Chiếc áo dài cùng với nón bài thơ
Để xao xuyến hồn sông Hương núi Ngự (Thơ Lưu Vĩnh Hạ)
Tôi thì mê chiếc nón bài thơ lắm, nhưng thời bấy giờ nón bài thơ khá đắt, lại ít có nón bài thơ nguyên thủy, đặc sản này chỉ có ở Huế, vả lại những chiếc nón bài thơ bán ở trong Nam không giống như những chiếc nón làm tại làng Tây Hồ Huế. Nón không mỏng, và lá không bóng, những câu thơ cũng dài dòng. Vì thế nên tôi chưa dám bỏ tiền ra mua, sợ không vừa ý.
Rồi một hôm, tình cờ tôi được tặng một chiếc nón bài thơ chính cống của làng Tây Hồ và một xấp vải xoa may áo dài màu tím. Món qùa tặng bất ngờ làm tôi bỡ ngỡ. Nhớ lời Mẹ dặn:
- Con gái không nên nhận qùa của đàn ông, nếu người ấy không phải là chồng hay người yêu. Có thể bị lợi dụng…
Lòng tuy thích nhưng tôi rất e ngại, thật ra người tặng qùa thì cũng chẳng thân thiết, tôi chỉ mới quen anh chàng có giọng Huế đặc sệt của miền sông Hương núi Ngự có vài tháng nên nhất định không nhận, dù lòng thì thích lắm, hơn nữa lại là chiếc nón bài thơ chính gốc Miền Sông Hương, Núi Ngự, nhưng tôi quyết liệt từ chối.
Anh phải tìm gặp chị tôi để nhờ chị nhận đem về cho tôi và cũng nhờ chị nói với Mẹ nên tôi mới không bị mắng vì nhận qùa tặng của người khác phái.
Đó là chiếc nón bài thơ đầu tiên của tôi, tôi nhớ hoài hai câu thơ trên nón:
“Ai ra xứ Huế mộng mơ
Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”.
Ban đầu, nón bài thơ được người dân Tây Hồ làm để tặng người thân, không ngờ lại được mọi người yêu thích. Từ đó, những người làm nón ở Tây Hồ bắt đầu làm nón bài thơ hàng loạt, đưa ra bán ở thị trường. Những câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng và phong phú hơn, thường là những câu thơ về Huế…
Chiếc nón lá được ca tụng thật rộng rãi, từ thơ đến nhạc…
Nón Lá Trong Ca Dao:
Nón em chẳng đáng mấy đồng,
Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham
Nón em nón bạc quai vàng
Thì em mới dám trao chàng cầm tay
Tiếc rằng vì nón quai mây
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm
Nón Lá Trong Thơ Nhạc:
Huế Thương (Anh Bằng)
Tôi có người em Sông Hương Núi Ngự
Của lũy tre Thôn Vỹ hiền từ
Của kinh thành cổ xưa thật xưa
Buổi trưa em che nón lá
Cá Sông Hương liếc nhìn ngẩn ngơ
Lũ chim quyên ngất ngây từ xa …
Bài thơ Nón lá (Nguyễn Lãm Thắng)
Mỏng manh chiếc nón, ấy mà
Che mưa, che nắng đường xa mẹ về
Từ phố thị đến làng quê
Ở đâu nón cũng nguyện che mái đầu
Nón che cái nắng qua cầu
Chị đi đến lớp mặc dầu nắng oi
Nón che từng giọt mưa rơi
Chiều đông cha vẫn ra nơi ruộng đồng
Giúp người nón mãi ước mong
Dẫu bao mưa nắng nón không ngại ngần.
Nón lá được dùng trong mọi trường hợp, từ các cô thiếu nữ thị thành, e thẹn nghiêng vành nón đến các bác phu xe xích lô oằn mình khi nhấn bi-đan đạp xe đưa khách trong mỗi cuốc xe, bác nông phu trên bờ ruộng sâu với chú trâu cày, đầu cũng đội chiếc nón lá cũ mèm, mốc meo mà vẫn che được bóng mát dưới cơn nắng gắt gay. Khi mệt mỏi, đến gốc cây ngồi nghỉ, nón còn được dùng để phe phẩy thêm một chút mát mẻ.
Tôi nhớ có lần vào cuối năm 1975 khi biết ông xã đang bị nhốt trong trại tù Cải Tạo Nhà Đỏ ở Phú Giáo Bình Dương. Lúc đó chưa được lịnh thăm nuôi, chỉ được đem thức ăn gửi cho anh thôi. Đến nơi gặp lúc các anh nghỉ trưa. Ở phía xa xa tôi nhìn thấy anh ngồi trong đám các bạn cải tạo đang ăn cơm dưới gốc cây, bên cạnh mấy tên bộ đội cầm súng đứng canh gác. Anh nhìn thấy tôi nhưng không dám mừng. Bất chợt tôi thấy anh đưa tay ra dấu như hút thuốc lá. Nhìn lên đầu thì thấy anh đang đội chiếc nón lá cũ mèm. Ra về tôi cứ ngẫm nghĩ: “không biết anh cần gì mà ra dấu như cần thuốc hút?
- Thuốc lá ư? Anh đâu có hút thuốc?
Vậy thì chắc anh cần chiếc nón lá khác để thay cho cái nón tơi tả anh đang đội. Thế là lần sau ngoài thức ăn tiếp tế, tôi còn đem thêm cho anh 1 chiếc nón lá. Và từ đó chúng tôi bắt đầu biết là những chiếc nón kia cũng là một vật cần thiết cho các anh trong những ngày tháng giam cầm, nón giúp che mưa nắng vào những ngày lao động, giãi nắng, dầm mưa.
Chiếc nón quê Hương đã gắn liền với người dân Việt Nam như một người bạn thiết, một vật dụng rất hữu ích. Hôm trước đi chợ VN, thấy họ bán nón lá, tôi lại nhớ đến ngày xưa, của một thời thơ mộng với nón bài thơ và áo dài tha thướt, tôi bèn mua 1 cái đem về treo trên tường, một hôm nhìn lên tường không thấy nón nữa? Hỏi ra thì chàng nhà tôi đã lấy nón đội ra làm vườn. Và từ đó nón lại che nắng cho chàng cắt cỏ, cắt hàng rào vào mùa Hè oi bức. Hàng xóm đi ngang thấy cái nón của chàng cứ đứng lại hỏi mua ở đâu và nhờ tôi mua dùm. Thế là tôi bất đắt dĩ trở thành bà bán nón cho các ông láng giềng trong xóm. Nhìn các ông Mỹ đội nón giống nhau ra làm vườn thấy cũng vui vui.
Bao năm qua, hình ảnh chiếc nón vẫn còn vương vấn trong tôi, dù nơi đây không còn thích hợp để đội nón lá, không có những mái tóc dài buông xõa ngang lưng, thả dài theo tà áo thướt tha nơi thành thị, và cũng chẳng có những thiếu nữ trong chiếc áo bà ba, vắng cả những bác nông phu đội trên đầu chiếc nón lá kéo cày trên luống mạ non dưới cơn nắng chói chan, nhưng tôi luôn nhớ hoài nhớ mãi những hình ảnh thân yêu ngày xưa. Giờ đây, nơi quê nhà, những chiếc nón lá đã bị biến chế màu mè, sặc sỡ hơn trước, kém phần thanh nhã, nhìn giống nón của Tàu (China) hơn là chiếc nón quê hương của mình ngày đó. Đã vậy thiếu nữ bây giờ ra đường thì trùm kín mít, còn buộc cả vải choàng qua nón nhìn chẳng ra làm sao?
Ôi! Một thời thơ mộng đã qua, kỷ niệm chỉ còn trong ký ức. Nhớ về quê Hương với bao điều xót xa, thương nhớ. Hôm nay, ngồi viết lại đôi dòng ký ức, mà ngậm ngùi. Xin mượn giòng nhạc của hai nhạc sĩ Anh Bằng và Minh Kỳ để mời qúy vị cùng thưởng thức “Huế Thương” với tiếng hát Vân Khánh, và “Thương Về Xứ Huế” qua hai giọng ca ngọt ngào của Hà Thanh và Hoàng Oanh, cùng nhau gợi nhớ lại hình ảnh những chiếc nón lá của một thời thơ mộng vào những ngày xa xưa.
Kiều Oanh, Virginia
Một ngày đầu tháng Sáu, 2018