Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Huỳnh Công Ân - CẢI LƯƠNG, BỘ MÔN VĂN NGHÊ ĐỘC QUYỀN CỦA MIỀN NAM

19 Tháng Mười Một 20232:46 SA(Xem: 6992)
GS. Huỳnh Công Ân - CẢI LƯƠNG, BỘ MÔN VĂN NGHÊ ĐỘC QUYỀN CỦA MIỀN NAM

CẢI LƯƠNG, BỘ MÔN VĂN NGHÊ ĐỘC QUYỀN CỦA MIỀN NAM


 

Tin ông vua cải lương Thành Được qua đời sáng ngày 16/11 vừa qua tại thành phố San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ làm những người miền Nam không khỏi tiếc nuối một trong những biểu tượng của bộ môn cải lương miền Nam.

 

image002

Nhân đây cũng nên nhắc qua tiểu sử của người nghệ sĩ tài danh của bộ môn cải lương này. Thành Được (8 tháng 9 năm 1934 - 16 tháng 11 năm 2023) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng thành danh cùng thế hệ nghệ sĩ Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Thanh Nga... Ông từng được mệnh danh là "Ông vua không ngai" hay "Kép hát thượng thặng" trong làng sân khấu cải lương miền Nam.
 
Thành Được tên thật là Châu Văn Được, sinh năm 1934, tại An Mỹ, Kế Sách, Sóc Trăng, trong gia đình phú nông.
Sau khi học xong tiểu học, ông theo cậu ruột là bầu gánh hát cải lương Thanh Cần, để học hát và lên sân khấu diễn lần đầu tiên vào năm 1954 trong gánh hát của người cậu. Sau đó 2 năm, ông đã nổi bật trong vai Tô Điền Sơn (tuồng Khi hoa anh đào nở). Năm 1958, Thành Được về Đoàn Kim Chưởng, sau đó tới Đoàn Thanh Minh – Thanh Nga, rồi trở lại Kim Chưởng.
Năm 1961, ông kết hôn với nghệ sĩ cải lương Út Bạch Lan. Hai người cũng trở thành đôi giọng ca vàng qua các vở Con gái chị Hằng, Tấm lòng của biển, Bọt biển, Chuyện tình 17, Tình Xuân muôn tuổi nhưng đặc biệt hơn cả là vở Nửa đời hương phấn. Đến năm 1964, hôn nhân của họ tan vỡ.
 

Năm 1966, Thành Được đoạt huy chương vàng giải Thanh Tâm với vai diễn tướng cướp Thi Đằng (tuồng Tiếng hạc trong trăng).

Năm 1984, Thành Được đi lưu diễn tại Đức, nhân đó xin tị nạn chính trị tại đây. Thành Được sống bằng nghề nhà hàng tại Đức và năm 1995 di dân đến Hoa Kỳ mở nhà hàng Thành Được tại Milpitas, California, một thành phố nhỏ sát San Jose, California và sống ở đây tới ngày mất.



image003Thanh Nga

Nếu bên những nữ nghệ sĩ tài danh có Thanh Hương, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết, Lệ Thuỷ, Mỹ Châu… và nhứt là Thanh Nga thì bên cạnh những nam nghệ sĩ nổi tiếng như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Tấn Tài, Thanh Sang, Minh Cảnh….thì phải nói đến Thành Được, một nghệ sĩ đẹp trai, hát hay và diễn giỏi.


image006

Út Trà Ôn

Trước năm 1975, ở miền Nam bộ môn cải lương rất được mọi người ưa thích. Những nghệ sĩ cải lương nổi tiếng rất được quần chúng hâm mộ và các bầu gánh săn đón. Tiền “chuộc” đào kép chánh lên đến bạc triệu nên các tài danh cải lương rất giàu có. Thành Được nổi tiếng là tay sưu tập xe hơi. “Vua vọng cỗ” Út Trà Ôn đánh bi -da cá độ mỗi bàn hàng chục ngàn đồng (tiền thời đó).

 

Nếu bài vọng cỗ “Tình anh bán chiếu” không ai ca qua mặt được đệ nhứt danh ca Út Trà Ôn thì bản ”Đêm lạnh trong tù” mang dấu ấn của kép đẹp Thành Được.

 

Nói về lịch sử bộ môn cải lương xin trích lại ý của nhà khảo cổ Vương Hồng Sển: "có người cho rằng cải lương đã manh nha từ năm 1916, hoặc là 1918", nhưng theo ông thì kể từ ngày 16 tháng 11 năm 1918, khi tuồng Gia Long tẩu quốc được công diễn tại Nhà hát Tây Sài Gòn, cách hát mới lạ này mới "bành trướng không thôi, mở đầu cho nghề mới, lấy đờn ca và ca ra bộ ra chỉnh đốn, thêm thắt mãi, vừa canh tân, vừa cải cách... nên cải lương hình thành lúc nào cũng không ai biết rõ.”

 

Giải thích chữ "cải lương" (改良) theo nghĩa Hán Việt, giáo sư Trần Văn Khê cho rằng: "Cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn", thể hiện qua sân khấu biểu diễn, đề tài kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc và bài bản. Ở đây là đã cải lương (cải cách, đổi mới) nghệ thuật hát bội. Từ 1 động từ theo nghĩa thông thường đã trở thành 1 danh từ riêng. Sau khi cải lương thì nghệ thuật Cải Lương đã khác hẳn với nghệ thuật hát bội cả về nội dung và hình thức.

Đêm 16 tháng 11 năm 1918, tại Rạp Hát Tây Sài Gòn, có diễn tuồng Pháp – Việt nhứt gia (tức Gia Long tẩu quốc) đánh dấu thời kỳ phôi thai của cải lương.

Sau đêm này, André Thận trước và Năm Tú sau, đã đưa cải lương lên sân khấu thiệt thọ. Năm 1922, tuồng Trang Tử thử vợ và tuồng Kim Vân Kiều diễn tại rạp Mỹ Tho rồi lên diễn tại rạp Chợ Lớn và rạp Moderne Sài Gòn... lúc này hát cải lương mới thành hình thật sự

Theo Tự điển bách khoa Việt Nam:

Những năm 1920 – 1930 là thời kỳ phát triển rực rỡ, nhiều gánh hát ra đời, nổi tiếng nhất là hai gánh Phước Cương và Trần Đắc có dàn kịch gồm ba loại: các tuồng tích ủa Trung Hoa loại xã hội và loại phóng tác (như "Tơ vương đến thác", "Giá trị và danh dự").

Trong thời kỳ 1930 – 1934, nghệ thuật cải lương lan truyền ra ngoài Bắc và nhiều nghệ sĩ xuất sắc xuất hiện như Năm Phỉ, Phùng Há, Bảy Nhiêu, Năm Châu... Thời kỳ kinh tế khủng hoảng, nhiều gánh hát tan rã. Dựa vào tâm lý của dân chúng ngả về tôn giáo, các gánh hát đua nhau diễn các tích về Phật, tiên, đi đầu là gánh hát Tân Thịnh.

Từ 1934, xuất hiện phong trào "kiếm hiệp", đi đầu là gánh Nhạn Trắng và soạn giả Mộng Vân người Bạc Liêu vói những vở tuồng nổi tiếng: "Chiếc lá vàng", "Bích Liên vương nữ", "Bảo Nguyệt Nương".

 

Tại Việt Nam Cộng hòa, thập niên 1960 là thời kỳ hưng thịnh nhất của cải lương miền Nam, lấn át cả tân nhạc. Các sân khấu cải lương được đông khán giả đến xem hàng ngày, nên ngày nào cũng có diễn xuất, nhờ đó, các soạn giả và nghệ sĩ có cuộc sống khá sung túc, và một số ca sĩ tân nhạc phải tìm cách chuyển nghề sang hát cải lương để tìm kiếm thành công như Hùng Cường. Riêng tại vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định đã có trên 39 rạp hát cải lương và 20 nơi luyện cổ nhạc (gọi là "lò"), trong đó có những "lò" nổi tiếng như của Út Trong (từng là trưởng dàn cổ nhạc của gánh Thanh Minh suốt 13 năm, và là người đã huấn luyện Thanh Nga từ lúc còn thơ ấu), Văn Vĩ, Duy Trì, Huỳnh Hà, Tư Tân, Yên Sơn, Ba Giáo,...trong những giải thưởng của ngành Cải lương thời đó, nổi tiếng và uy tín có Giải Thanh Tâm, do ông ký giả Thanh Tâm (tên thật là Trần Tấn Quốc) thành lập, hoạt động từ năm 1958 đến năm 1968, mà người nhận giải đầu tiên là nữ nghệ sĩ Thanh Nga .

Những soạn giả tuồng nổi tiếng trong thời này có Năm Châu, Điêu Huyền, Hà Triều, Hoa Phượng, Bảy Cao, Thế Châu, Thiếu Linh, Yên Lang, Nguyên Thảo, Mộc Linh, Yên Bình, Nguyễn Phương, Kiên Giang, Thu An, Viễn Châu (sáng tạo hình thức tân cổ giao duyên, tức là hát cải lương chung với tân nhạc),... Những gánh hát cải lương nổi tiếng thời này có đoàn Hoa Sen, Thanh Minh – Thanh Nga, Kim Chưởng, Thống Nhứt, Kim Chung, Dạ Lý Hương.

 

Một điều cần nhấn mạnh ở đây, cải lương là sản phẩm của người miền Nam nên dù ông bà bầu Long là người miền Bắc và là chủ của công ty cải lương Kim Chung gồm đến 6 đoàn hát đánh số từ 1 tới 6 nhưng đào kép đều là người miền Nam. Ban đầu khi mới di cư vào Nam, đoàn Kim Chung còn dựa vào các đào kép người Bắc như Huỳnh Thái, Kim Chung, Bích Thuận, Bích Sơn… nhưng cũng như khi hát tân nhạc người ta phải sử dụng giọng Bắc, hát vọng cỗ phải dùng tiếng Nam, những nghệ sĩ nói trên dù diễn xuất rất hay nhưng giọng ca vẫn không đủ chinh phục khán giả. Như vậy có thể nói nghệ thuật cải lương là độc quyền của các nghệ sĩ miền Nam.

 

Sau ngày 30/1975 các gánh cải lương giải tán, chánh quyền CS cho lập những đoàn hát quốc doanh như Trần Hữu Trang, Sài Gòn 1, Sài Gòn 2... Tuồng tích được soạn theo định hướng tuyên truyền của chế độ nên không được khán giả tán thưởng, đào kép được trả lương như công nhân không đủ sống nên bộ môn cải lương càng ngày càng lụn bại và ngày nay chỉ còn là một hoài niệm về quá khứ.

 

Nhưng thiển nghĩ, cũng như nhạc vàng, những gì có giá trị dù hiện bị mai một nhưng một ngày nào đó cải lương sẽ sống lại vì nó đã nằm trong tâm hồn chất phác, thiện lương nhưng không thiếu tình cảm của người miền Nam.

 

(Viết nhân tin nghệ sĩ Thành Được qua đời)

Huỳnh Công Ân

18/11/2023

* Tài liệu tham khảo :

- Wikipedia tiếng Việt

- Vương Hồng Sển

- Trần Văn Khê

- Tự điển Bách Khoa Việt Nam

 

03 Tháng Hai 2009(Xem: 83138)
  Tôi bắt đầu lên tỉnh học từ 1960. Ba mất sớm, nhà quá nghèo, anh chị em lại đông. Trong suốt thời gian đi học, tôi đã làm rất nhiều nghề để có tiền sinh sống, nổi bật nhất là nghề dạy kèm.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 74101)
  Tôi chỉ viết về những năm đầu tiên mà ký ức của tôi còn lưu giữ. Sau này, khi tập hợp được các anh em ở những niên khóa sau, lần lượt chúng ta sẽ đúc kết thành một bản danh sách hoàn chỉnh.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 87482)
  "Khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi, rơi trên bục gỗ, rơi trên tóc thầy...” Tiếng nhạc từ phòng con gái của tôi vọng sang, làm tôi hồi tưởng lại những bàn ghế cũ, phấn trắng, bảng đen...
30 Tháng Giêng 2009(Xem: 77414)
Cũng nhờ vậy rất nhiều cánh chim NQ lạc loài ở phương trời xa tìm về liên lạc được quý Thầy Cô và bạn học năm xưa. Điển hình chúng tôi ở Âu Châu mừng quá khi nhận và đọc được 2 quyển báo học trò đó, tưởng chừng như thấy lại thời NQ xa xưa.   Đặc biệt tìm thấy trong đó có cả một vườn thơ Tao Đàn đủ sắc hoa rực rở.
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 84462)
  Hỡi cô Cựu Nữ Sinh Ngô Quyền, hỡi cô bạn hàng xóm của tôi ơi!   Tôi rất cảm phục và trân quí cô.   Nếu giữa cô và tôi không có thứ tình cảm nào khác thì trong tôi sẵn có có một thứ tình keo sơn gắn bó với cô từ lâu, từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, kéo dài cho đến tuổi…sồn sồn bây giờ và tuổi già sắp tới, đó là tình bạn.   Còn cô thì sao?
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 86448)
Từ chia tay ở Tân Mai, tôi không hề biết Th giờ ra sao? Cuộc chiến qua đi thật xa. Bao thăng trầm trãi xuống cho quê hương, cho đời người. Thì thôi, hãy là những lời cầu nguyện bình an cho nhau. Dẫu mai đời có thế nào?
28 Tháng Giêng 2009(Xem: 82199)
  “Muốn sang phải bắt cầu Kiều, Muốn con hay chữ phải yêu kính Thầy”  
28 Tháng Giêng 2009(Xem: 83465)
( Tựa bài được đặt theo hai câu thơ của nhà thơ Vũ Đình Liên “ Người muôn năm cũ bây giờ ở đâu?” để thành kính thắp nén hương lòng tưởng nhớ đến các Thầy Cô đã về với “hạc nội mây ngàn”, và các Cựu học sinh NQ đã vĩnh viễn “bỏ cuộc chơi”).
28 Tháng Giêng 2009(Xem: 80561)
    Có lẽ mọi người đang thắc mắc tại sao lại gọi là đứa con nuôi của trường Ngô Quyền? Bởi vì hầu hết các học sinh được vào học bắt đầu từ lớp 6 và trưởng thành ở lớp 12 rồi vào đại học, nên được xem như con đẻ...
28 Tháng Giêng 2009(Xem: 79960)
    * Bài viết cho linh hồn thầy Nguyễn Phong Cảnh, một tinh thần đáng học hỏi cho toàn thể hội viên Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Ngô Quyền Biên Hòa.      
24 Tháng Giêng 2009(Xem: 83830)
  Qua những hình ảnh, các bài viết của thầy cô bạn bè, chúng ta đang thấy lại từng khuôn mặt, dáng hình, tính cách của các ân sư, đưa chúng ta trở về con đường phát triển của mái trường xưa. Qua đó, câu nói “Cơm Cha-Áo Mẹ-Công Thầy” càng mang ý nghĩa sâu đậm hơn!
24 Tháng Giêng 2009(Xem: 82272)
Dẫu cho ngày tháng có phôi pha, buồn vui dù ít hay nhiều đều là những kỷ niệm đẹp của một thời áo trắng…Hy vọng những cuộc tương ngộ, trùng phùng của ngày hôm nay sẽ nhắc nhở chúng ta một quá khứ ươm bằng mật ngọt, và mãi cầu mong một tương lai đến cho vừa đẹp lòng người.
24 Tháng Giêng 2009(Xem: 88571)
  Có những sự việc tình cờ suy gẫm lại hình như được sắp xếp sẵn. Y và tôi ngồi cạnh nhau, từ ngày học Thất 2 cho đến khi ra trường. Ban đầu tôi rất ghét cái tính thật thà   thẳng tánh của Y, vì nó dám nói rằng trường tiểu học Trần Quốc Tuấn ở Tam Hiệp, nơi tôi đi học, chưa hề nghe nói đến. Trái lại Y là học sinh giỏi của trường Nữ Tiểu Học Biên Hòa .
22 Tháng Giêng 2009(Xem: 83883)
Học sinh Ngô Quyền ngày xưa, lưu lạc bốn biển năm châu, với đời sống rất riêng của mỗi người, nhưng hình như chúng tôi vẫn có một tập hợp giao, giống nhau ở chỗ chúng tôi vẫn kính trọng và biết ơn tất cả các thầy cô như từ thuở nào, chúng tôi còn nhỏ dại, ngồi ở ghế học trò của trung học Ngô Quyền.
22 Tháng Giêng 2009(Xem: 85318)
Thật ra, nói bạn tôi là bà mai không đúng mà cũng không sai. Không đúng vì làm gì có chuyện Ngọc Dung giới thiệu tôi với anh Nhiên. Nhưng không sai vì nếu không chơi thân với Dung thì không chắc tôi vướng lụy lưới tình...
22 Tháng Giêng 2009(Xem: 78619)
  Những thằng bạn ấy bây giờ ra sao rồi nhỉ? Mới chỉ có hơn ba mươi năm, lớp Tứ Bốn giờ đây có bạn sắp sữa hồi hưu, có bạn đã làm ông nội, ông ngoại, có bạn đã vĩnh viễn ra đi, nhìn lại mình, mái tóc muối đã có phần nhiều hơn tiêu.
22 Tháng Giêng 2009(Xem: 83005)
         Ngày vui sao qua mau!   Cuộc vui rồi cũng đến lúc chia tay. Những ngày qua, bọn chúng tôi như sống lại thuở học trò vui vẻ, vô tư không chút gì vướng bận. Có lẻ không ai phủ nhận thiên đường học sinh trong mỗi chúng ta ai cũng có...
22 Tháng Giêng 2009(Xem: 78069)
  Đến rồi đi, đó là lẽ vô thường sống động nhất của tạo hoá không dành một biệt lệ cho ai.
22 Tháng Giêng 2009(Xem: 74028)
  “Hãy đến với nhau một lần vì sợ rằng sẽ không còn được thấy nhau nữa” .  
19 Tháng Giêng 2009(Xem: 80745)
Hãy cho Tôi lại ngày xưa ấy Tôi sẽ là Tôi của dạo nào, Để nhìn Em khuất sau khung cửa, Để làm lưu bút, mỗi Em ghi .