Bắc Kỳ 9 nút và Bắc Kỳ 2 nút
"Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ
"Này cô em tóc demi garcon"
(thơ Nguyễn Tất Nhiên, nhạc Phạm Duy)
Thời Pháp thuộc, để thi hành chính sách chia để trị, thực dân Pháp dựa vào đạo dụ của vua Minh Mạng năm 1834 về hành chánh để chia nước ta thành 3 kỳ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochichine) hợp với hai nước Cao Miên (Cambodge) và Lào (Laos) thành liên bang Đông Dương. Thời Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa gọi 3 miền là Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần còn chính quyền cộng sản gọi là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.
Sau hiệp định Genève, Việt Nam bị chia đôi, phía Bắc vỹ tuyến 17 là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo chế độ cộng sản và phía Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa theo chế độ tự do.
Tàu chở người Bắc di cư năm 1954
Tiếp theo đó là cuộc di cư vĩ đại của gần 1 triệu người miền Bắc vào miền Nam tìm tự do.
Trước đó, người miền Bắc theo tập quán thôn làng rất ít khi chịu rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún của mình trừ trường hợp bất đắc dĩ như gia tộc Nguyễn Hoàng vào Nam để tránh bị Trịnh Kiểm bách hại thời Lê Mạt, hay những người nghèo khổ ứng tuyển vào Nam làm phu đồn điền cao su thời Pháp thuộc. Do vậy, lúc đó ở miền Nam cỏ rất ít người miền Bắc đến định cư.
Tuy nhiên, sau khi cộng sản tiếp quản miền Bắc thì người dân ở đó đã có những kinh nghiệm đau thương trong thời gian sống trong các vùng cộng sản chiếm đóng nên năm 1954, họ bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn, tài sản để vào Nam bằng mọi phương tiện: tàu thủy, tàu hỏa, tàu bay... cả đến việc bơi qua sông Bến Hải.
Chính quyền của thủ tướng Ngô Đình Diệm lập phủ Tổng Ủy Di Cư và Tỵ Nạn để định cư số lượng khổng lồ người di cư đó ở khắp miền Nam từ miền duyên hải Trung Phần, cao nguyên Trung Phần đến miền Đông, miền Tây Nam Phần và cả ngay tại Sài Gòn và các tỉnh phụ cận như Gia Định; Biên Hòa, Phước Tuy...
Những khu định cư tập trung đông đảo người Bắc di cư nổi tiêng là Cái Sắn ở ranh giới hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, Phước Tĩnh ở Phước Tuy, Hố Nai ở Biên Hòa, Xóm Mới ở Gò Vấp…
Vốn bản tính cần cù, từ bàn tay trắng rất nhiều người Bắc di cư đã thành công trong nghề nghiệp, kinh doanh và trở nên giàu có. Những năm đầu của thập niên 1970, tôi dạy học ở Biên Hòa có dịp đi ngang qua khu Hố Nai tôi trông thấy sự sung túc của người dân di cư ở đây qua những căn nhà khang trang mà trước sân có cả xe hơi của họ.
Có rất đông người Bắc di cư khi có đầy đủ phương tiện họ về Sài Gòn lập nghiệp và thành công không thua gì người Tàu ở Chợ Lớn, Lúc học ở trường Nguyễn Văn Khuê tôi có người bạn học tên Hà là em của chủ tiệm giày Gia nổi tiếng khắp Sài Gòn, ông ta cũng là một ngưòi Bắc di cư, Một người bạn học khác, Phùng Quốc Bộ là con của tiệm giày Phùng Đinh ở đường Hồ Văn Ngà, con đường thời đó tập trung các tiệm đàn của người Bắc di cư, Đường Lê Thánh Tôn và Gia Long là nơi có nhiều tiệm giày và tiệm bánh của người Bắc di cư. Khi tôi học lớp đệ nhứt ở Chu Văn An, nơi đa số học sinh là người Bắc di cư thì được biết có bạn học là con của nhà may Tụ Bảo, cơ sở mai táng Tô Bia, quán chè Hiển Khánh là những thương hiệu nổi tiếng ở Sài Gòn .
Người Bắc di cư cũng thành công trong việc học hành và trở thành những người nồng cốt trong hệ thống hành chánh và quân sự của Việt Nam Cộng Hòa.
Ngoài ra họ cũng đã đóng góp cho mièn Nam về mặt văn hóa, giáo dục và y tế: đa số những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, giáo sư, bác sĩ của đất Hà Nội ngàn năm văn vật đều tìm nơi đất lành chim đậu miền Nam. Nhờ đó dù chỉ tồn tại có 21 năm nhưng miền Nam có một gia tài đồ sộ về các mặt đó. Suốt thời gian học ở hai bậc trung học và đại học đa số thầy dạy tôi là người Bắc di cư. Sau này, khi đi dạy tôi cũng có rất nhiều đồng nghiệp người Bắc di cư.
Dần dà, người Bắc di cư tự coi mình là người miền Nam nhứt là sau khi miền Nam sụp đổ. Họ không muốn người ta đánh đồng mình với người miền Bắc vào Nam sau 1975.
Dù rằng trước 1975 đôi khi có người gọi người Việt đến từ miền Bắc là người Bắc Kỳ hay nói tắt là Bắc Kỳ có hàm ý kỳ thị nhưng thật ra cách gọi đó tự thân không có ý xấu gì cả, chỉ nói đến nguồn gốc của người đến từ miền Bắc (chữ Kỳ có nghĩa là vùng, miền), có khi được sử dụng một cách “âu yếm” như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên đã dùng.
Bộ đội 75 mang “chiến lợi phẩm” về Bắc
Tuy nhiên, sau khi đoàn quân xâm lăng đến từ miền Bắc với xe tăng, đại pháo của Liên Xô, Trung cộng chiếm được miền Nam thì một đợt người từ miền Bắc ồ ạt tràn vào miền Nam. Lần này không như năm 1954, họ vào để cướp bóc, vơ vét tài sản của người miền Nam. Nếu người Bắc di cư vào miền Nam năm 1954 đã góp phần xây dựng miền Nam thành một quốc gia văn minh, phồn thịnh thì người Bắc vào miền Nam sau 1975, ngoài một số người dân nghèo vào để kiếm sống thì người ta thấy những quan chức đảng viên cộng sản năm giữ những chức vụ chủ yếu để tiếp tục khai thác “con gà đẻ trứng vàng” miền Nam. 85% ngân sách của thành phố Sài Gòn được đưa ra sử dụng ở miền Bắc. Những biệt thự nguy nga ở Sài Gòn ngày nay chủ nhân đều là người Bắc vào Nam sau 1975.
Vì vậy người miền Nam đã phân biệt người Bắc di cư năm 1954 là Bắc Kỳ 9 nút (1+9++5+4=19-10=9) và người Bắc “bên thắng cuộc» năm 1975 là Bắc Kỳ 2 nút (1+9+7+5=22-20=2). Một bên góp phần xây dựng và một bên rút rỉa tài lực của người miền Nam.
Ai chơi bài cào đều biết nếu bắt được 9 nút là hên còn 2 nút là xui. Cả miền Nam ta đang nắm lá bài 2 nút.
Huỳnh Công Ân
7/12/2022