Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Nguyễn Trần Diệu Hương - BỤI PHẤN - BỤI ĐỜI

11 Tháng Hai 201911:50 CH(Xem: 16399)
Nguyễn Trần Diệu Hương - BỤI PHẤN - BỤI ĐỜI


BỤI PHẤN - BỤI ĐỜI 

 Nguyễn Trần Diệu Hương

 

image001

 

 

Ngôi trường đã có nhiều thay đổi khi tôi trở lại sau mười một năm. Cùng với tốc độ tăng trưởng của khoa học kỹ thuật, trường cũng trở nên hiện đại, mới mẻ hơn, nhưng những phòng học trong Business School, từ phòng học nhỏ cho những sinh viên năm cuối chỉ có hai mươi chỗ ngồi đến những giảng đường lớn cho những lớp học với trên một trăm sinh viên, thì vẫn vậy. Hành lang vẫn như xưa với những khuôn mặt thiếu ngủ  của sinh viên, luôn luôn phải dùng cà phê để giữ mắt mở to, giữ đầu óc tỉnh táo. Đó là điều đáng mừng vì ngày nào trường học còn đông người lui tới, ngày đó chúng ta còn lạc quan nhìn về tương lai.

 

Nhưng có một điều vẫn như xưa không vui chút nào, đâu đó lạc lõng trong những khuôn mặt sinh viên đa số còn trẻ, là một vài người già đầy vẻ nhẫn nhục, cam chịu, với một cái bao nylon đen to khoác vai và tay cầm dụng cụ dùng để nhặt lượm những vật nhỏ mà không cần phải khom lưng xuống. Điều buồn hơn, một vài người trong số họ lại là những ông bà cụ Việt Nam đã ngoài sáu mươi. Họ đến những phòng học trống, nhặt nhạnh trong giỏ rác những lon soda để mang bán cho những chỗ chuyên recycle lon nhôm.

 

Từ ngày chân ướt chân ráo vào trường, tôi đã chùng lòng nhận ra có những ông bà cụ Việt Nam trạc tuổi Ba Mẹ mình kiên nhẫn đi từ phòng học này đến phòng học khác, và đôi khi vào cả giỏ rác trong phòng vệ sinh để thu nhặt từng chiếc lon nhôm. Có lần, nán lại sau giờ học hỏi chuyện một bà cụ Việt Nam, tôi được bà cụ kể lại tận tình nguồn cơn tại sao mình phải đi nhặt nhanh từng chiếc lon nhôm.

 

Ít ai ngờ được ngày xưa ở Việt Nam, thời trước năm 1975, bà cụ là một cô giáo dạy Trung học ở một tỉnh miền Tây. Sau một ngày cuối tháng 4 rất buồn của miền Nam, bà cụ lúc đó hãy còn trẻ, không còn được đi dạy vì có chồng là một sĩ quan đã được "tổ quốc ghi ơn" sau một trận chiến khốc liệt vào mùa hè đỏ lửa 1972. Cô giáo mất nghề dạy học, lăn lộn ra xã hội làm đủ mọi nghề để nuôi hai con dại và nuôi thân vì cùng một lúc gia đình cô mất đi cả tiền tử tuất và tiền lương dù ít, nhưng rất ổn định của một cô giáo trung học.

 

Như đa số những người phụ nữ khác của miền Nam lúc đó, dù vất vả trăm chiều, bà cụ vẫn nuôi dạy hai người con trai nên người. Rồi định mệnh đẩy đưa, bà cụ đến được Mỹ nhờ một người em bảo lãnh, hai anh con trai đã lập gia đình vẫn còn kẹt lại ở Việt Nam.

Lúc đầu, bà cụ không chịu đi, với ý nghĩ bao nhiêu năm cơ cực, mẹ con có nhau, bây giờ bà không nở sống ở một đất nước giàu có, bỏ hai người con ở lại. Nhưng rồi người em ra sức thuyết phục, qua được Mỹ một thời gian may ra bà cụ còn có dư tiền gởi về giúp con.

 

 

Thế là bà cụ ra đi, hành trang chỉ vỏn vẹn tấm ảnh bán thân của người chồng quá cố, hình ảnh ba mẹ con chụp cùng nhau trước ngày bà qua định cư ở Mỹ, và một tấm hình từ thuở xa xưa đã ngã màu vàng ố thời bà cụ còn là một cô giáo trung niên ở một trường Trung Học ở miền Tây. Vậy mà bà cụ quý lắm, xem chừng những tấm hình đó với bà cụ còn quý hơn cả cái máy nghe nhạc Ipod mỏng dính của mấy cô mấy cậu teenager mới lớn, hay cái nhẫn kim cương sáng loáng của những cô gái mới đính hôn.

 

 

Những năm đầu ở Mỹ, chưa có quốc tịch Mỹ, không xin được trợ cấp từ quỹ an sinh xã hội để nuôi dưỡng những người già không có thu nhập, (đa số là những người già nhập cư từ những nước khác vì những người già đã đi làm đủ mười năm ở Mỹ thì đã có lương hưu trí hàng tháng), thu nhập là số không như những ngày cuối năm 1975, bà cụ tìm mọi cách để kiếm tiền gởi về giúp hai con trai. Một lần đi chợ, thấy những người Mễ, người Phi, và cả người Việt Nam đến trung tâm recycle bán lon nhôm, bà cụ nghĩ được cách kiếm tiền lương thiện, nhưng đầy vất vả. Thế là mỗi buổi trưa, dù vào giữa mùa Đông băng giá, hay đầu mùa hè nóng bức, cứ khoảng hai giờ chiều, bà cụ đón xe bus xuống down town, đến ngôi trường Đại Học lâu đời nhất ở California, đi nhặt lon ở khắp campus. Hôm nào hên, được đến ba bốn bao lon, loại bao rác màu đen, bà cụ bối rối không biết làm thế nào để mang về nhà vì xe bus đâu có chờ lâu ở mỗi trạm mà bà cụ thì đã gần bảy mươi, đâu còn nhanh nhẹn như thời còn trẻ, không thể mang lên và đặt xuống các bao nylon đen trong vòng một phút.

 

 

Lần đầu tiên nhận ra bà cụ là người Việt Nam, lại trạc tuổi Ba Mẹ mình, tôi lân la hỏi chuyện, và được nghe bà cụ kể sự tình, tôi tình nguyện dùng trunk xe của mình làm chỗ cho bà cụ gởi tạm những bao nylon đựng lon nhôm những hôm bà cụ may mắn nhặt nhanh được từ hai bao trở lên. Dạo đó, nhiều khi bà cụ cột bao không kỹ, mỗi lần lái xe qua một khúc quanh có góc nhọn, những cái lon nhôm rỗng lăn tung tóe trong thùng xe tạo nên tiếng động nghe cũng khá vui tai.

 

Một người bạn Việt Nam khi thấy xe tôi đầy hộp lon, hỏi chuyện, khi đã rõ nguồn cơn, anh nhờ tôi đem vào trường biếu bà cụ năm mươi đồng, gọi là quà gởi cho hai người con trai của cụ còn ở quê nhà. Thật bất ngờ, bà cụ một mực từ chối, viện cớ cụ còn khỏe, còn có thể "làm ra tiền" nuôi con như từ thuở nào. Bà cụ cười rất đôn hậu, nhờ tôi chuyển lại lời cám ơn đến người bạn:

 

-  Bác cám ơn cháu và bạn cháu. Thỉnh thoảng cháu cho bác gởi nhờ những bao lon trên xe để bác mang đến trung tâm recycle từ từ đã là quý hóa lắm rồi. Khi nào, cùng quẫn lắm, Bác sẽ hỏi xin cháu và bạn cháu điều khác.

 

Ấy vậy nhưng tôi cũng có cách giúp bà cụ. Dạo đó, mỗi khi có giờ rảnh, tôi nhặt lon ở thư viện (là nơi chỉ dành riêng cho Giáo sư và sinh viên, người ngoài không đượcphép vào), đem ra để ở trunk xe. Tôi chỉ đậu xe ở một khu vực thuận tiện, gần trạm xe bus và cho bà cụ tạm giữ một chìa khóa trunk xe của mình, để bà cụ có "access" dễ dàng lấy lon.

 

Ngày tôi ra trường, tôi đã tìm được "successor", một người bạn Việt Nam học lớp dưới, thay tôi giúp bà cụ dễ dàng hơn trong việc "kiếm tiền". Như một loại "job training", tôi chỉ lại người bạn chổ đậu xe đã khá thân thuộc với bà cụ, chỗ nào thường có nhiều hộp lon ở thư viện... Người bạn cũng có tấm lòng, vui vẻ "tiếp thu" việc giúp bà cụ. Và tiếng leng keng do những hộp lon chạm nhau khi qua khúc quẹo hẹp, nhỏ hơn 45 độ lại vang lên, nghe vui tai như tiếng của "đại dương trong lòng con ốc nhỏ".

 

Lần tôi giới thiệu người bạn sẽ giúp bà cụ thay tôi, bà cụ chảy nước mắt. Cầm tay chúng tôi, giọng đầy xúc động:

-  "Ngày xưa, thời còn đứng ở bục giảng, bác cũng có những người học trò hết lòng với thầy cô giáo cũ như hai cháu. Sau tháng 4/75, tưởng đã mất, mất tất cả mọi thứ liên quan đến trường học, vậy mà trong những ngày cơ cực ở quên nhà, bác cũng còn có được sự kính trọng và biết ơn từ những người học trò cũ, trên đường đầy bụi bặm. Nhưng ngay cả trong cơn mơ, bác cũng chưa bao giờ nghỉ là trên quê người, vẫn có những học sinh Trung Học ở Việt Nam ngày xưa, hết lòng với một cô giáo cũ như bác. Ngày xưa có nhiều khi bụi phấn làm bác cay mắt. Rồi những ngày lăn lóc ở lề đường, buôn bán nuôi con, bụi đời rất nhiều, nhưng không làm bác chảy được nước mắt vì cảm động như bây giờ.  Đâu có ngờ là ở trên đất Mỹ máy móc này, bác lại được sự giúp đỡ của các cháu. Các cháu biết không, bác chợt nhận ra bụi đời đôi khi cũng làm người ta nhỏ nước mắt." 

 

Dù chúng tôi không nói ra, nhưng bà cụ nhận ra chúng tôi đối đãi bà cụ như thầy cô giáo cũ của mình, với ý nghĩ ở đâu đó trên đất nước đầy cơ hội cho những người đến Mỹ dưới 30 tuổi, những "người lái đò già" ngày xưa, không còn cơ hội, phải kiếm sống bằng sức lực ở tuổi xế chiều, biết đâu có một vài thầy, cô giáo cũ đã dạy chúng tôi thời Trung Học đang mỏi mòn chạy theo guồng máy của một đất nước mới. Cũng có người giúp đỡ như chúng tôi đã giúp đỡ bà cụ trong suốt những năm còn ở Đại Học.

 

Về lại trường sau hơn mười năm, ngoài việc đi chào các thầy cô cũ người Mỹ, tôi cố ý tìm bà cụ, nhưng "cảnh cũ còn đó mà người xưa đã không còn". Ở hành lang của các lớp học, vẫn có những người già đi lượm lon nhôm, nhưng bà cũ ngày xưa của chúng tôi đã không còn. Tôi cố dò hỏi, nhưng không một ai biết tin tức gì về bà cụ đã chảy nước mắt vì cả "bụi phấn" lẫn "bụi đời".

 

Tôi cầu mong cho bà cụ có một đời sống khá hơn sau khi đã vào được quốc tịch Mỹ, và chợt nghe mắt mình cay cay không phải vì bụi phấn của ngày xưa mà là bụi đời của bây giờ...

Nguyễn Trần Diệu Hương
California, 2007

13 Tháng Bảy 2010(Xem: 97595)
Một tuần đã đi qua, nhưng dư âm ngày cũ, của Ngày Họp Mặt Ngô Quyền, của càri dê ở nhà Hóa vẫn còn đâu đây.
13 Tháng Bảy 2010(Xem: 96527)
Bài viết nầy của tôi như là một lời tạ lỗi gửi đến những người bạn đã quen thân từ bao năm nay cũng như những người bạn mới quen. Tạ lỗi vì tôi đã hứa với các bạn mà không thực hiện được lời hứa, tạ lỗi vì đã bỏ mất cơ hội để nói lời “chia tay”, “tạm biệt”, “good bye my friends” hay “Au revoir mon ami”.
12 Tháng Bảy 2010(Xem: 95732)
Gặp lại Võ Hải Vương, Đặng Văn Toản, Đỗ Cao Thông, Hóa và nhiều bạn cũ của lớp 1968, lòng tôi đầy những xúc cảm nghẹn ngào. Những hình ảnh của trường Ngô Quyền năm xưa bỗng đâu lại hiện về. Những kỷ niệm của ngày tháng cũ tưởng đã yên nghĩ trong một quá khứ xa xôi nào của tiềm thức.
29 Tháng Sáu 2010(Xem: 89406)
Vào hạ tuần tháng 5/2010, từ Cali em đã gửi email báo trước cho tôi biết tin em sẽ về thăm quê nhà ở Nha Trang khoảng hai tuần lễ kể từ ngày 23/05/2010, nhưng trong email em đã kín đáo không cho tôi biết là thân phụ em vừa mất và mục đích chuyến về Việt Nam lần này của em là để lo tang Cha.
18 Tháng Sáu 2010(Xem: 92335)
Một trong hai tai nạn lớn nhất đời người vừa xảy ra với chúng tôi khi Ba vĩnh viễn bỏ cuộc đời, bỏ Mẹ và chúng tôi, Những năm gần đây, nhiều người bạn cùng thời với Ba, những người sinh vào cuối thập niên 20s đến cuối thập niên 30s của thế kỷ hai mươi lần lượt bước sang thế giới vĩnh hằng, chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho ngày Ba về với ông bà, nhưng lòng vẫn đau như cắt.
12 Tháng Sáu 2010(Xem: 152717)
Cùng với Mẹ, Cha là người có công sinh thành nuôi nấng và dạy dỗ các con dù trải qua nhiều khó nhọc. Nhưng khác với Mẹ, Cha là đàn ông nên tính trầm lặng, ít biểu lộ tình cảm hay gần gủi con cái, nói chung, nên con cái thường ít cảm nhận lòng thương yêu từ Cha như cảm nhận tình thương từ trái tim người Mẹ. Xin bấm vào các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
11 Tháng Sáu 2010(Xem: 91883)
chợt nhớ ba tôi đã qua đời hơn 23 năm qua, tôi chỉ là một đứa con bất hiếu để quảng đời còn lại của tôi bao ân hận và tiếc nuối vì chưa một lần nói với ba rằng “con thương ba lắm ” trong việc làm hay trong tâm tưởng…
05 Tháng Sáu 2010(Xem: 101283)
Tôi là học sinh trung học Ngô Quyền, BH từ NK 1970-71 đến nay, 2010, cũng 40 năm rồi, nếu có chi tiết nào sai sót về ngày tháng, họ tên xin các anh, chị khóa trước và các bạn cùng khóa 1970 -77 giúp sửa lại cho chính xác.
07 Tháng Năm 2010(Xem: 140379)
Mẹ là đề tài xưa cũ nhưng không bao giờ lỗi thời trong Thơ Văn; nhờ thế mà hôm nay, nhân Ngày Lễ Mẹ 9/5/2010, chúng ta có dịp giới thiệu trên Trang Web Nhà những bài viết ngắn qua lời văn chân thật, những vần thơ giản dị mà tràn ngập hình ảnh, hồi ức, kỷ niệm thân thương về Mẹ . Xin bấm các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
07 Tháng Năm 2010(Xem: 91546)
Ngày nay, má tựa như ngọn đèn dầu trước gió, nếu một mai ngọn đèn tắt đi, e rằng cuộc đời còn lại của tôi sẽ mang nhiều ân hận và tiếc nuối. Ân hận vì không có những giây phút kề cận bên má lúc tuổi già, tiếc nuối vì không còn được một lần ăn lại món thịt nọng kho, cá trê chiên dầm nước mắm mỡ hành và nghe giọng nói của má với “ Hương vị ngọt ngào”.
06 Tháng Năm 2010(Xem: 80520)
Chúng ta hãy cài một hoa hồng cho những ai còn Mẹ! và một đóa bạch hồng cho những ai mất mẹ. Dù Mẹ còn hay mất, chúng ta cũng phải nên nhớ cho rằng, tất cả ai sống trên đời nầy, thân thể nầy cũng chỉ là một phần tách rời từ thân thể Mẹ mà ra.
25 Tháng Tư 2010(Xem: 93967)
Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người.
11 Tháng Tư 2010(Xem: 73010)
Bài viết như một nén nhang tưởng niệm người đã khuất. Ở môt nơi bình an nào đó, tôi tin rằng anh đang mĩm cười. Không phải nụ cười khinh bạc, ngạo mạn mà là nụ cười hồn nhiên, vô tư của tuổi học trò...
06 Tháng Tư 2010(Xem: 84115)
Ngày đầu bước vào ngưỡng cửa Trung học của tôi không được đẹp và dễ thương như các nhà văn đã miêu tả. Tuy nhiên nó vẫn cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.
31 Tháng Ba 2010(Xem: 94560)
Đêm qua thức giấc một mình, nhìn trăng sáng tôi chợt nhớ đến ánh trăng ở VN, nhất là trăng miền biển, trông rất hiền hòa và trong sáng, nơi tôi đã sống 2 năm với nghề “gõ đầu trẻ” sau năm 1975, khi tôi vừa tốt nghiệp trường Sư phạm Sài Gòn, thời gian này đã để lại trong tôi một dấu ấn khó quên.
30 Tháng Ba 2010(Xem: 84635)
Thế rồi hoàn cảnh đẩy đưa, vận người đưa đẩy, tôi xa luôn quê nhà, xa luôn cái bàn học con con cạnh cửa sổ đêm đêm được dỗ dành bởi một loài hoa quen thuộc, không vương giả, không quê muà, chỉ đủ làm xao xuyến lòng tôi khi nhớ đến.
02 Tháng Ba 2010(Xem: 65352)
Cái kinh nghiệm khổ đau của kiếp người có phải là một ấn chứng để tâm hồn vượt lên trên bão dông, để ngôn ngữ yêu nhau vẫn còn dù đã nhiều nghịch cảnh. Và, theo tôi, Nguyễn Tất Nhiên là một thi sĩ thực sự mang đời sống mình làm ví dụ cho một trường hợp của khoan dung và từ ái?
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87662)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
16 Tháng Hai 2010(Xem: 80038)
Trước hết, bước qua năm mới, Thủy xin kính chúc mọi người được một năm an khang, hạnh phúc và thịnh vượng. Nhân đây, với tư cách là mẹ của hai đứa con của anh Nguyễn Tất Nhiên, Thủy xin trân trọng gửi đến quý Thầy, quý Bạn lời tri ơn chân thành sâu đậm nhất.
06 Tháng Hai 2010(Xem: 89880)
Xin tạm biệt Xuân xưa, ngày tháng cũ. Hy vọng những chồi non, lộc mới… mang hết những ưu phiền của tôi đi thật xa, đi vĩnh viễn. Tình yêu của tôi ơi, xin ngủ yên!