Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS Trần Minh Đức - Ý Nghĩa Quan Trọng Của Việc Thành Lập Trường Trung Học Ngô Quyền Vào Năm 1956

04 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 40980)
GS Trần Minh Đức - Ý Nghĩa Quan Trọng Của Việc Thành Lập Trường Trung Học Ngô Quyền Vào Năm 1956

 

Ý NGHĨA QUAN TRỌNG CỦA VIỆC THÀNH LẬP


TRƯỜNG TRUNG HỌC NGÔ QUYỀN VÀO NĂM 1956.

 

 

thaytranminhduc-content

 

 L.S. GS Trần Minh Đức

 (Luật Sư Đoàn Thủ Đô Washington D.C).

 

 

Trường Trung học Ngô Quyền là một trường sinh sau đẻ muộn, so với các trường Pétrus Ký, Gia Long ở Sàigòn, và các trường Nguyễn Đình Chiểu (được gọi là Le Myre de Vilers thời thuộc Pháp) ở Mỹ Tho, và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ. Điều này hơi mỉa mai, vì tỉnh Biên Hòa đã được thành lập vào những ngày đầu mà Chúa Nguyễn đã đưa dân vào lập nghiệp tại Miền Nam Việt Nam, và là một trong 3 tỉnh Miền Đông Nam Kỳ bị người Pháp chiếm lấy và đặt cơ sở hành chánh vào năm 1861.

 

Vào thời đó người Pháp chú trọng đến việc tạo những trường học cho số giáo dân Thiên Chúa Giáo nhiều hơn.

 

Ngay vào năm 1861, Đô Đốc Charner cho lập Collège d'Adran, tặng học bổng cho 30 học sinh, để khuyến khích người Việt Nam đi học. Và vào năm sau, 1862, trường Nữ bậc Tiểu học do các Sơ Saint-Paul de Chartres trông nom, được thành lập và tồn tại cho đến năm 1975. Trường này thường được gọi là Trường Nhà Trắng, đặt tại Boulevard Luro (Đại lộ Cường Để). Trường Đạo Tabert khai giảng vào năm 1874, lúc đầu là để dạy những trẻ con lai Pháp.

 

Trường Chasseloup Laubat nhận các học sinh Pháp hay người Việt có quốc tịch Pháp, và sau này thu nhận cả học sinh Việt, không phân biệt quốc tịch.

 

Trường Pétrus Ký được khởi công xây cất vào năm 1926 và khánh thành năm 1927, với tên là Collège de Cochinchine. Vào học khóa năm 1928, trường được đổi tên là Lycée Pétrus Ky. Các nữ sinh đậu bằng Certificat (Cơ thủy) cấp Tiểu học, sau khi thi tuyển, được nhận vào Collège des Jeunes Filles Indigènes à Saigon, cũng thường được gọi là Trường Áo Tím, vì các nữ sinh mặc đồng phục áo dài tím. Trường này sau đổi tên là trường Gia Long.

 

Như thế, trong ba tỉnh Miền Đông Việt Nam, là Gia Định (gồm cả Sàigòn), Định Tường (Mỹ Tho), và Biên Hòa, thì cả hai tỉnh đầu đều có trường Trung học rất sớm, phần lớn là ở Sàigòn, và Mỹ Tho cũng có trường Le Myre de Vilers (sau này thành trường Nguyễn Đình Chiểu). Chỉ có Biên Hòa là chịu thua thiệt, dù Biên Hòa đã là nơi đầu tiên Chúa Nguyễn đưa dân vào lập nghiệp trong Nam, với một số đông người Hoa chạy nạn Mãn Thanh vào định cư tại Cù Lao Phố, với Đức Ông Trần Thượng Xuyên.

 

Lý do vì đâu? Câu trả lời đơn giản nhất, là vì Biên Hòa quá gần Sàigòn. Người Pháp không thấy nhu cầu lập trường Trung học tại Biên Hoà, vì cho rằng các học sinh Trung học có thể đến Sàigòn học được.

Trên lý thuyết thì như vậy. Nhưng trên thực tế, thì quả là Biên Hòa phải chịu thiệt thòi. Vì học sinh Biên Hòa mà đến Sàigòn để học, thì cũng gặp nhiều khó khăn.

 

Thứ nhất là nơi ăn chốn ở. Lên Sàigòn học, là phải ở đậu, tiền ăn ở tốn kém, gia đình những người dân bình thường cũng khó lo toan cho được. Mà gia đình các con em học sinh cũng ngại cảnh ở đậu đi học, nhất là đối với các nữ sinh.

 

Thứ hai, các học sinh có thể vào nội trú trong các trường Pétrus Ký và Gia Long. Nhưng vào được hai trường này không phải là chuyện dễ dàng, vì mỗi năm số học sinh được thu nhận phải qua một kỳ thi tuyển rất gắt gao.

 

Để lấy một thí dụ, năm 1942, là năm mà tỉnh Biên Hòa đạt được thành tích vẻ vang nhất, có 2 học sinh tỉnh nhà đậu Thủ Khoa và Á Khoa của cuộc thi tuyển gồm các sĩ tử của 21 tỉnh ở Nam Kỳ. Đó là anh Trần Minh Cảnh, đậu Thủ Khoa, sau viết báo cho tờ báo Pháp Le Combat ở Paris, và anh Trần Thượng Thủ, hậu duệ của Đức Ông Trần Thượng Xuyên, đậu Á Khoa. Anh Thủ hiện vẫn còn đầy đủ sức khỏe ở Houston, và có lúc là Giáo sư cũng tại Trường Pétrus Ký.

 

Người thầy dạy 2 anh này, đúng là ông Hồ Văn Tam, sau này làm Phó Hiệu trưởng của Trường Ngô Quyền. Qua thành tích dạy dỗ đáng khen này, ông Hồ Văn Tam được Chánh Chủ Tỉnh Biên Hòa người Pháp trao bằng ban khen.

 

Năm tôi thi vào Pétrus Ký, trường nhận lối 200 học sinh, vào Première Année, trong lúc số sĩ tử dự thi lên đến gần 6 ngàn em, tỉ số được chọn chỉ lối 5%. Như vậy, mỗi năm, chỉ có vài trăm học sinh được đậu vào hai trường Pétrus Ký và Gia Long, trong số hàng năm, bảy ngàn học sinh từ 21 tỉnh ở Nam Kỳ dự tuyển. Số còn lại, nếu có phương tiện, thì đến Sàigòn học các trường Trung học tư thục nổi tiếng như Huỳnh Khương Ninh, Lê Bá Cang, Nguyễn Văn Khuê, Chấn Thanh .....

 

Như thế, trường Ngô Quyền được thành lập năm 1956, là một điều đáng lý phải được thực hiện từ trước, vì nhu cầu của học sinh ở tỉnh nhà, ngay trong gia đình của mình, mà đi học Trung học khỏi tốn kém.

 

Lúc ấy ở Biên Hòa chỉ có 2 tư thục nhỏ, một là trường Phan Chu Trinh, ở đường Đấp Mới (nay là Quốc lộ I) do các Giáo sư người Bắc di cư 54 phụ trách, và trường Khiết Tâm, trường Công giáo nơi gần Nhà Thờ Biên Hòa. Trường Ngô Quyền mở một kỷ nguyên mới cho nền Trung học Biên Hòa.

 

VÀ TÌNH NGHĨA THẦY TRÒ TỈNH NHỎ.

 

Dù chỉ dạy ở Ngô quyền có 2 năm đầu, thời gian này đã để lại nơi tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Quên sao được những học trò chân thật, hiền hậu, và trong nhiều trường hợp, thuộc những gia đình có lợi tức khiêm nhường. Quên sao được cảnh các học sinh đi học mà phần đông đi chân đất, một số nhỏ mang dép, và các nữ sinh mặc áo bà ba, thay vì mặc áo dài trắng như sau này.

 

Qua cảnh của mấy em, tôi nhớ lại thời thơ ấu của tôi ở trường Tiểu học Biên Hòa (sau được gọi là trường Nguyễn Du) lúc ấy còn dạy tiếng Pháp, theo chương trình Pháp. Trường Tiểu học Biên Hòa lúc ấy rất nhỏ bé, trong sân trường còn trồng 2 dãy cây cao su, mà giờ ra chơi, bọn học trò chúng tôi lấy miểng chai cạo lấy mủ, bọc chung quanh giấy nhựt trình quấn tròn để làm banh đá chơi.

 

Vì tôi chỉ hơn các học sinh lối 5 tuổi, nên tôi thấy gần mấy em hơn và rất thương hoàn cảnh học hành thiếu thốn của các em, khi so với những năm tôi học tại Pétrus Ký và Yersin, Đà Lạt.

 

Ngay tháng đầu, tôi nhận thấy một học sinh (tôi tạm dấu tên) bị tật ở chân mà phải đi bộ xa lắm mới tới trường. Tôi hẹn em ra chợ Biên Hòa, mua tặng cho em một chiếc xe đạp để em đi học. Sự thân thương này kéo dài mãi cho đến ngày tôi qua Sàigòn dạy Đệ Nhị Cấp, rồi đi Pháp học lấy bằng Tiến Sĩ, và sau đó là đi lập nghiệp tại Hoa Kỳ. Tôi vẫn giữ liên lạc với các em, được biết một số đã đậu Tú Tài, một số khác được động viên, và sau đó là đi tù cải tạo. Các nữ sinh thì đi học Sư Phạm, nhưng sau 75 cũng đều nghỉ dạy, vì đồng lương quá ít.

 

Từ ngoại quốc, tôi theo dõi thăm hỏi điều kiện sinh sống của các em, trong lúc có chiến tranh, cho đến thời kỳ đổi đời.

 

Học sinh đầu tiên gặp tôi tại Hoa Kỳ là em Lý Thanh Phong, viết báo dưới bút hiệu Sông Phố. Em theo học Đại học tại Hoa Kỳ, và hiện đang làm cho chính phủ Liên Bang Mỹ. Lúc nào em cũng đối xử với tôi rất lễ phép, nhất là nhỏ nhẹ, ít ồn ào.

 

Sau 75, lần lượt tôi gặp laịï một số học trò cũ, như em Lý Khánh Hồng, ở San José, có một lúc chủ trương báo Nhân Văn, cùng với Tưởng Năng Tiến, Võ Hoàng. Đồng thời, tôi cũng bắt liên lạc được với em Trầm Hữu Tình, cùng người vợ (nay vừa qua đời) sở hữu một tiệm ăn ở San Francisco. Lúc dạy học ở Biên Hòa, tôi hay hẹn gặp em Trầm Hữu Tình và em Phạm Phú Vĩnh ra bến xe lô Biên Hòa, dẫn 2 em đi Sàigòn ăn nhà hàng Mê Kông, Đại Nam, ngồi tiệm kem Thiên Thai, Mai Hương, xem chớp bong…

 

Phía bên Nữ Học Sinh, thì tôi có 2 học trò giỏi là em Huỳnh Thị Xuân Hoa và Trần Thị Đức. Tôi chỉ dám mua sách tặng trong dịp phát thưởng của nhà trường, sau khi đã xin phép ông Hồ Văn Tam. Em Trần Thị Đức vừa mới qua đời cách đây vài tháng, trong hoàn cảnh rất đau buồn. Em Huỳnh Thị Xuân Hoa thì học Sư Phạm, lấy chồng là Giáo sư Lý, dạy Triết, nay cũng đã có cháu nội, cháu ngoại rồi. Ngoài ra em Phan Ngọc Thể, con của ông bà Phan Thành, chủ tiệm đóng bàn ghế tại Biên Hòa, và chồng là em Đông Văn Quân, hiện ở Virginia. Cũng ở tiểu bang Virginia, là em Lê Ngọc Anh, cựu nữ quân nhân, cũng từng đi tù cải tạo.

 

Một học sinh giỏi giang, nhặm lẹ, là Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Văn Cửu, ở bang Washington, sau khi đi cải tạo về được đi diện H.O. Em rất vui vẻ, bặt thiệp và rất chuộng bạn bè. Mỗi lần về Việt Nam, tôi thường nhờ em Trương Minh Sang, hiện làm Luật Sư tại Biên Hòa, liên lạc với các em học sinh cũ còn ở lại Việt Nam, đến chung vui với tôi, chừng vài mươi người, tại các tiệm ăn ở Biên Hòa. Tình Thầy trò vẫn thắm thiết như ngày nào, với các em Trọng, Diệp… và nhiều Em khác nữa. Năm nay, sau Đại Hội Trùng Phùng, vào trung tuần tháng Bảy, tôi cũng sẽ về lại Việt Nam, và có dịp gặp lại các học trò cũ, đã chiếm mất một phần lớn trong cuộc sống tình cảm của tôi.

 

 

 

 

08 Tháng Giêng 2010(Xem: 56217)
Sẽ không còn Thầy đứng trước bảng đen Không lời giảng bài giọng cao sang sảng Lớp phấn trắng từng bay theo lãng mạn Sẽ rơi nhanh, không đậu trên tóc Thầy
07 Tháng Giêng 2010(Xem: 75170)
Vạn dặm đường xa, vạn dặm xa Khói chiều vương vấn bóng quê nhà Lòng nặng lòng nghe hoàng hôn xuống Một khối tình em, một mẹ già
07 Tháng Giêng 2010(Xem: 71395)
Cho tôi nhìn thấy nụ cười, Ở trên môi những cuộc đời tối tăm. Cho mây về phố trưa nằm, Làm mưa trôi hết lỗi lầm ra sông.
27 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 76015)
Cúi xuống bờ dậu nghe nao nao Mẹ ngày hè cũng như tháng giá Ngẩng lên thấy mồ hôi ướt áo Vai mẹ gầy như cánh hạc xa
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74181)
Nhắc lại năm xưa tuổi còn thơ dại Áo trắng tan trường kẻ đón người đưa Một thoáng thầm yêu giấu trong sách vở Ấp ủ lâu ngày hoa mộng thành thơ
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 75337)
Mùa xuân nghiêng bờ vai Ngắ m đào mai rực rỡ Trắng tinh chùm hoa đại Tỏa ngan ngát mùi thơm
19 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 32601)
Có những cá tính, những sở thích hôm nay bắt nguồn từ thời còn ngồi ở ghế Trung học được các Thầy Cô truyền dạy nhiều kiến thức. Như lớp Tứ 1 (9/1) nk 69-70 của chị Võ Thị Ngọc Dung chẳng hạn cả lớp mê thơ và đã tập tành làm thơ từ một giờ Quốc Văn sôi nổi, lý thú của Thầy Nguyễn Văn Phú.
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 76917)
Anh về cõi trời mây Niết bàn muôn tia sáng Nghiệp chướng hết buộc ràng Nơi phương trời giải thoát
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74485)
Mỗi người một hướng đi Tôi ra ngoài sương gió Trung Nam phân nhị Kỳ Xuân Thu đồng nhất Ngộ
17 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 59815)
Ngày hay tin bạn mất Mây tím buồn rưng rưng Hai phương trời cách biệt Ôi tiếc nhớ vô cùng
10 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74273)
Trên đường về lặng lẽ Ôm nỗi buồn trong tay Đông ngâm bài thơ cũ Mắt lệ nhòa không hay!
09 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 77323)
Rồi cơn đau buốt niềm riêng Anh sa trường bước vào miền chiến chinh Chờ anh mòn mỏi chờ anh    Bóng khuya vàng khuyết nửa vành trăng nghiêng
04 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 83438)
Áo trắng bây giờ xa thật xa, Gối mộng em vào giấc mơ hoa, Anh vẫn cô đơn đời sương gió, Vàng Thu áo trắng đã nhạt nhòa....
03 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 84536)
Sông buồn vẫn bóng hàng dừa Sóng tình lạc lõng đong đưa nỗi sầu   Mình em ngồi đếm vì sao Sương khuya bạc áo hồn đau khóc thầm
01 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 82762)
Mười bảy năm sau tôi trở lại Nhà cũ, vườn xưa ̣đổi khác rồi Giòng sông thơ ấu không còn nửa Trăng buồn lơ lững...bóng ̣đơn côi...
29 Tháng Mười Một 2009(Xem: 86406)
Em nghĩ cô như dòng sông rộng Ôm nước về chở nặng phù sa Đắp vào em chỗ bờ nông cạn Kiệt sức mình sông vẫn thiết tha
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 92300)
Có một người gõ cánh cửa thời gian* Thấy tháng ngày qua bỗng nhiên dừng lại Thấy nắng hè không còn trên đường cũ Một chút mùa vàng đã bước vào thu.
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 88630)
Tôi trở về đây vào cuối Thu Phi Trường còn đó, gió vi vu Rừng cao su nắng xuyên cành lá Đất đỏ hôm nào thấm giọt mưa
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82605)
Mùa thu nắng hao gầy trên tán lá Hong chưa khô tóc cỏ ướt sương mù Mây bay về chập chùng không vội vã Gió heo may qua đường vắng vi vu
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82640)
buổi sáng mùa thu bất ngờ về phố chở buồn ren rén quá giang chở ký ức xa chở mất mát chìm
23 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63203)
Em về, bỏ lại vầng trăng Cho tôi ngồi ngắm mỗi lần thu sang Bến tình lững chiếc đò ngang Bến đời tôi ngập lá vàng... chờ em!
23 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63790)
Ta vẫn trải sầu theo tiếng thơ Em đi mắt lạnh mấy thu chờ Đường tình em bước thênh thang quá Nhớ giữ dùm ta ánh mắt xưa!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 81110)
Mùa thu về hai phương trời cách biệt Lá bên nào cũng vàng úa như nhau!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82396)
Nghiêng câu lục bát cho đầy Cho Thu thêm ấm cho dài nhớ thương Đêm nầy nghiêng sợi mưa tuôn Nghiêng qua cho đổ lá buồn Thu ơi!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 83651)
Mùa thu ơi! khoan đi chờ ta với Xin ít mây, xin ít nắng hanh vàng Xin một tí hương thầm nơi hoa cúc Xin nửa vầng trăng rất đổi dịu dàng
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 84734)
nợ tình mỏng, mà nặng đeo mỗi thu như mỗi dày theo tuổi đời hơi may gợn, nhắc bồi hồi một bờ mây, đã, cuối trời quan san...
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 100236)
Chỉ còn vài ngày nữa là thành phố Adelaide, nơi tôi đang cư  ngụ sẽ vẫy tay chào mùa đông để chính thức bước vào mùa xuân. Ngày đã trở nên dài ra và trời đã bắt đầu ấm áp trở lại.
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 93900)
Cầm tờ thư của cô tôi ấp nhẹ vào ngực. Ơi! cô giáo nhân ái còn hơn bà tiên trong thần thoại đã dang tay cứu tôi trong nhiều lần khốn khó. Thời gian đi qua thật lâu rồi nhưng tất cả những gì về cô tôi đều nhớ. Bảy năm trời lớn lên từ một mái trường nên mãi mãi ngôi trường Ngô Quyền thân yêu ấy là một ngăn nhớ êm đềm trong quả tim tôi.