Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Đỗ Trung Quân - Năm Ấy Khai Sinh Trường Trung Học Ngô Quyền Biên Hòa.

03 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 38612)
Đỗ Trung Quân - Năm Ấy Khai Sinh Trường Trung Học Ngô Quyền Biên Hòa.

 

NĂM ẤY KHAI SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC NGÔ QUYỀN BIÊN HÒA

 

                Đỗ Trung Quân (NQI 1956-1963)

 

 

Tỉnh lỵ Biên Hòa vào giữa thập niên năm mươi, các sĩ tử sau khi đỗ văn bằng Tiểu Học từ trường Nguyễn Du để bước lên Trung Học nếu muốn được tuyển vào trường công  phải đi Saigon dự thi vào trường Petrus Ký hoặc Gia Long với sĩ số đậu rất thấp nên đa số phải tìm một trường tư thục để nối  tiếp việc học. Nổi bức xúc đó thúc đẩy một nhóm giáo sư người Bắc di cư thành lập trường tư thục Phan Chu Trinh nằm trên Quốc Lộ I năm 1954, trường Trần Lãm trên đường Phan Đình Phùng (1955), sau đó thêm trường Khiết Tâm 1956 trong khu Nhà Thờ Biên Hòa cũng không đủ vào đâu, rồi thêm trường Minh Tân trên đường Hàm Nghi (1957), trường Tiến Đức (1961) trên đường Phan Đình Phùng. Trước tình hình đó Chánh quyền, Giáo chức, Phụ huynh học sinh, nhân sĩ nhanh chóng quyết định xin phép thành lập kịp thời trong năm 1956 Trường Trung học Công Lập Ngô Quyền lấy tên vị anh hùng dân tộc đánh đuổi quân Nam Hán. Hội đồng cho tổ chức ngay kỳ thi tuyển lấy 150 học sinh chia làm 3 lớp, 50 cho một lớp nữ B1, 100 cho hai lớp nam B2 và B3 xếp theo thứ tự điểm đậu từ cao xuống thấp.

Chưa có cơ sở, trường phải mượn tạm của trường Nguyễn Du dãy lớp cũ bên trái, có hành lang chạy suốt, đối xứng qua sân cột cờ là dãy lớp mới hơn cho nữ sinh Nguyễn Du, học sinh ra vào bằng một cổng phụ vừa đủ cho một người đẩy xe đạp qua, đến cuối dãy là bãi để xe đạp dưới một tàng cây phượng vĩ, ngăn cách với khu vệ sinh qua hàng rào dâm bụt dưới tàng cây dáy ngựa to lớn tạo bóng mát cho mấy gánh bán hàng ăn vặt cho học sinh Nguyễn Du trong giờ ra chơi. Trường Nguyễn Du từ nay là chiếc nôi của Trường Ngô Quyền. Một năm sau, Trường rời chiếc nôi chuyển sang Trường Nữ Công Gia Chánh đối diện với Bệnh viện Biên Hòa, nằm cạnh Sở Thủy Lâm nhìn ra Công Trường Sông Phố.

Buổi khai giảng diển ra trong niềm phấn khởi của cả tỉnh thật cảm động vào một buổi sáng cuối mùa mưa, Thầy Giám Học Hồ Văn Tam thay mặt Hiệu Trưởng Phan văn Nga trang trọng đọc diễn từ khai giảng cùng giới thiệu Ban Giáo Sư, từng học sinh được gọi tên xếp thành ba lớp, lớp nữ B1 vào phòng trong cùng, kế đến là lớp B2 sau cùng là B3 sát  bên đường Hàm Nghi. Buổi học đầu tiên với sự hướng dẩn của Thầy Bùi Quang Hụê cho lớp B3 chúng tôi, một thời khóa biểu gần như đầy cả sáu ngày hai buổi sáng chiều đầy đủ các môn học do Bộ Giáo Dục quy định, chương trình xem ra quá nặng đòi hỏi học sinh phải cực lưc mới kham nổi nhưng với ánh mắt hiếu học và lòng hãnh diện là những đứa con đầu lòng được chăm chúc từng bước của Thầy Cô đã nhanh chóng vào nề nếp, từ nay không còn bị quở phạt như còn “vị thành niên” như trước kia ở Tiểu Học.

          Mặc dù là một trường Trung Học, nhưng đa số gia đình còn nghèo do chiến tranh vừa kết thúc nên đồng phục chưa có, nam sinh còn mặc quần sọt hay xà lỏn áo sơ mi, đi chân đất, nữ sinh áo bà ba quần lảnh chân đi guốc hoặc dép, riêng lễ phục thì bắt buộc theo mẫu ấn định nam áo áo sơ mi tay ngắn, quần sọt, nữ áo sơ mi tay dài trắng, quần tây dài trắng, tất cả đeo phù hiệu “Hiệu Đoàn Ngô Quyền” bằng kim khí trên túi áo bên trái, đầu đội berret xanh da trời, chân đi giày bata trắng. Nhiều học sinh chưa có xe đạp phải cuốc bộ ngày bốn bận dù nhà xa như  Tân Vạn, Bữu hHòa, Hiệp Hòa, Hãng Dầu, Kỷ Niệm, Máy Cưa, Tân Mai, xa hơn là Tân Uuyên, Tân Ba, Tân Hạnh, Bữu Long, Trị An v.v.

Ban giáo sư đa số được đề cử từ các vị Thầy từ trường Nguyễn Du trước đã tốt nghiệp trường sư phạm Saigon ( École Normal Supérieure) với vài vị đang dạy từ Saigon chuyển về. Hình ảnh những vị Thầy đầu tiên với những bài học đầu tiên không được ghi lại một tấm ảnh nào nhưng vẫn nằm trong ký ức của học sinh Ngô Quyền I.

 Thầy Phạm Văn Tiếng dáng tròn trịa hồng hào với mái tóc bạc, trước Thầy dạy lớp Tiếp Liên ở Nguyễn Du đã bãi bỏ, môn Pháp Văn của Thầy học sinh đã có căn bản từ tiểu học, với những bài texte, grammaire, version, thème, rédaction nhất là récitation với mấy bài La main, Mon village v.v… không bao giờ quên, khi nghĩ hưu Thầy về căn nhà mới cất đối diện trường Phan Chu Trinh, bệnh tiểu đường làm mắt mờ rồi Thầy qua đời đươc hỏa táng khoảng năm 1980. Xin ghi nhớ ơn Thầy  khi đọc một tài liệu Pháp ngữ vẫn còn thông dụng trên Đai Học về sau này. Nối tiếp môn Pháp văn từ lớp Đệ Lục về sau là các Thầy Trương Phan Nam Minh với cách dạy đặc sắc, rất tiếc Thầy chỉ về trường năm Đệ Lục, nửa năm sau dạy thêm môn Lý Hóa và chuyển về Saigon, Thầy Phan Thông Hảo về thay thế cho đến hết năm đệ tứ với quyển “Cours de langue de la civilization francaise” nên được gọi là Monsieur Vincent, sau đó Thầy Huỳnh Quốc Tuấn gốc quân đội về làm Hiệu Trưởng (1959-1961), dạy thêm môn Pháp Văn vài giờ trước khi lớp Đệ Tam được mở ra, Thầy Tuấn cũng đã đề nghị bài “ Ngô Quyền Hành Khúc”với lời ca hùng hồn trước khi Thầy trở về với quân đội:

 

“Hồn non nước đang dục ta tiến lên,

Gắng nghiên bút sách đèn chúng ta xây đời mới

Lòng anh dũng Ngô Quyền xưa chớ quên

Gắng nghiên bút sách đèn  cho vinh danh Rồng Tiên 

Học sinh nâng cao tài ba

Học sinh tương lai về ta

Học sinh tươi thắm như đóa hoa

Học sinh cương quyết gắng công sách đèn vẽ vang người Việt Nam.”

 

Sau năm đó ba lớp đều chọn sinh ngữ Anh Văn làm sinh ngử I vì số học sinh chọn Pháp Văn quá ít, từ Đệ Tam, Pháp văn là sinh ngữ II do Thầy Phan Thông Hảo phụ trách. 

Có khoảng thời gian vài tháng vì phải sửa chữa mái trường cho mùa mưa, các lớp phải tạm mượn vài lớp trên trường Nữ Tiểu học ở Cây Chàm rồi trở về lại sau đó. Cuối năm Đệ Tam (1961) ba lớp mới được dời lên cơ sở mới vừa được xây dựng và cơi thêm lầu đựợc hai dãy, gần đài Kỷ Niệm các chiến sĩ Đồng Minh, đất đai rộng rải khang trang, nhập chung lại với các lớp niên khóa sau đã may mắn về cơ sở mới này trước đàn anh.   

          - Thầy Bùi Quang Huệ với cặp kính trắng và giọng nói lớn đảm nhận môn Việt Văn, từ Cổ văn đến Kim văn, bước vào văn học cổ với nhiều điển tích gốc Hán Việt tới những áng văn mới, tất cả đều cần yếu để hiểu  tiếng Việt đến nơi đến chốn. Thầy hướng dẩn lớp B3 chúng tôi, cũng hăng hái lo lập đội bóng tròn cho học sinh vận động thể dục, Thầy liên tục dạy nhiều năm,  sau 1970 về hưu ở Thủ Đức và mãn phần  tại đó. Xin ghi nhớ công lao tận tâm của Thầy đã truyền đạt sự phong phú của tiếng mẹ đẻ phải mất nhiều công để thông suốt cho suốt học trình sau này. Qua năm sau lên Đệ Lục, Cô Phạm thị Kim Thanh từ Saigon về dạy  được một năm bàn giao lại cho Thầy Hoàng Phùng Võ đảm nhận hai năm Đệ Lục và Đệ Ngũ. Thầy Thân Trọng Hưng tốt nghiệp Văn khoa Việt Hán về dạy Đệ Tứ, chuẩn bị cho các đề thi luận đề văn chương và luân lý trong kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp lần đầu tiên tổ chức tại Biên Hòa. Lên đệ nhị cấp có thêm Thầy Phạm Đức Bảo vừa làm Hiệu Trưởng dạy Đệ Tam, Thầy Nguyễn Thế Văn dạy Đệ Nhị, đến lớp Đệ Nhất môn Triết có Thầy Nguyễn Xuân Hoàng vừa tốt nghiệp Sư Phạm Triết Viện Đai Học Đà Lạt về.

          - Thầy Đinh Văn Sái, dáng Thầy cao lớn, nghiêm nghị, Thầy phụ trách nhiều môn : từ môn Vạn Vật về các loài động vật có vú với những con tương cận tới thực vật về các loại hiển hoa bí tử, hiển hoa khỏa tử, môn Vật Lý, Hóa Học về các kim loại và chất vô cơ, môn toán Số Học về các số mã. Xin ghi nhận công ơn nơi Thầy các môn khoa học căn bản cho sau này, nhớ nét nhìn nghiêm khắc của thầy với học trò nào cần khiển trách, bắt lớp học phải luôn chăm chú vào lời giảng .Thầy qua đời tại tư gia đối diện với bệnh viện Đồng Nai. Môn Vạn Vật lên năm Đệ Lục và kế tiếp có Thầy Phạm Văn Quảng đến Thầy Nguyễn Thất Hiệp. Môn Toán có Thầy Dương Quang Lộc đến Thầy Nguyễn Phi Hùng, Nguyễn Bát Tuấn. Với Ban B khoa học Toán về sau nhiều Thầy Toán về tăng cường cho lớp Đệ Nhất mới đủ như Thầy Cù An Hưng, Hoàng Đức Phương, Tôn Thất Long. Môn Lý Hóa ba năm sau được các thầy Trương Phan Nam Minh, Hoàng Quý Nam, Phan Thanh Hoài, lần lượt phụ trách. Lên Đệ nhị cấp có Thầy Trần Tấn Lộc dạy Đệ Tam, Đệ Nhị, Nguyễn Trường Hải dạy Đệ Nhất.

- Thầy Dương Hòa Huân, dáng người mập mạp tươi cười, về thay cho Thầy Hồ Văn Vinh dạy môn Sử Địa liên tiếp  đến năm Đệ Tứ gồm cả Thế Giới Sử và Địa Lý thế giới để thi Trung Học Đệ nhất cấp, môn học tuy hệ số 1 nhưng kiến thức này được dùng suốt đời, với phương pháp hấp dẩn Thầy bắt phải thuộc từng giai đoạn  lịch sữ chống xâm lăng của dân tộc qua các triều đại. Ngoài ra Thầy còn đảm trách môn Công Dân Giáo Dục về các quyền tự do căn bản của công dân một nước tự do dân chủ như quyền tư hữu, quyền tự do cư trú, đi lại, tự do tư tưởng như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do  tín ngưỡng, tự do kinh doanh, biểu tình đình công bãi thị, tự do lập hội gia nhập hội v.v… Thầy đã mệnh chung năm 2005 vừa qua tại quê nhà. Xin ghi nhớ công ơn những kiến thức vô giá Thầy đã truyền lại cho nhiều lớp Ngô Quyền suốt thời gian dài. Môn Sử Địa lên Đệ nhị cấp có Thầy Đặng Quốc Toản vừa tốt nghiệp Đai Học Sư Phạm về gánh vác,  môn Công Dân Giáo Dục do cô Bùi Thị Ngọc Lan vừa đảm nhận lớp Hiệu Đoàn, đến Thầy Phạm Gia Hưng nối tiếp với chương trình “Cơ cấu chánh quyền trong chế độ tự do dân chủ” với thuyết phân quyền: Lập pháp-Tư pháp- Hành pháp theo Montesquieu và J.J. Rousseau qua hai tác phẩm nổi tiếng Le contrat social và L’esprit de loi.

- Thầy Phạm Văn Mẫn, với dáng nghệ sĩ mảnh khảnh, tóc chải tém ra sau ót, phụ trách môn Vẽ, nổi tiếng với nét chử rất đẹp hiện trên văn bằng Tiểu Học của mỗi người, Thầy cũng là người phác họa ra chiếc phù hiệu kim loại cho trường với chiếc thuyền buồm trên sóng nước Bạch Đằng Giang. Thầy vừa mệnh chung năm vừa qua 2005 tại quê nhà. Xin ghi nhớ ơn Thầy qua những giờ vẽ thoãi mái: vẽ truyền chân, vẽ trang trí, vẽ theo trí nhớ.

- Thầy Trần Văn Lộc phụ trách môn âm nhạc, lúc Thầy đang dạy lớp Nhất E Nguyễn Du nên chỉ dành ngày thứ năm hằng tuần cho Ngô Quyền, nhờ Thầy học trò có được kiến thức về ký âm pháp (solfege) nhưng dể ghi nhớ nhất tiếng đàn violon của Thầy réo rắc những bản nhạc trong tiếng hòa ca những bài tuổi học trò như “Chia tay mùa Hè ” hay những bài chọn lọc như “ Chuyến tàu thống nhất”  hoặc những màn trình diển như vũ điệu “Jambalaya” dí dỏm hay vở hài kịch “Nồi cơm cháy khét” cho tới nay còn phải nhắc tới khi gặp lại Thầy. Sau chuyến du lịch qua Cali năm vừa qua, chúc Thầy luôn bình an sức khỏe nơi quê nhà với nhóm học trò nội địa.

- Thầy Trần Minh Đức, với dáng trẻ trung thường trong chiếc áo carreau khi đứng giảng bài giữa hai dãỵ bàn. Thầy đem về cho học sinh một ngôn ngữ mới, những bài học vỡ lòng lý thú từ quyển “L’anglais vivant cinqième bleu” của Carpentier Fialipp. Thầy dạy thật nhanh bắt hoc sinh phải chạy theo một năm mà tiến bộ không ngờ, theo đà đến hè Thầy tiếp tục mở lớp dạy miển phí tại nhà cho đám học trò quá hiếu học. Hiện nay, Thầy vẫn định cư bên Washington sau thời gian dài làm phóng sự cho đài VOA sau 1975, thầy về hành nghề luật sư. Chúc Thầy vẫn trẻ trung như ngày nào để góp sức bảo tồn truyền thống quý giá của trường Ngô Quyền. Xin ghi nhớ công lao ban đầu Thầy đặt căn bản Anh ngữ vững chắc cho ba lớp Ngô Quyền đầu tiên cho tớí nay cuộc sống tha hương cần đến hơn bao giờ hết. Nối tiếp những năm sau, được các thầy Phan Thanh Hoài về từ Saigon và Nguyễn Hữu Thiệu vừa du học bên Mỹ về. Thầy Hoài còn lại gắn bó và đảm nhận thêm những môn Lý Hóa, Hiệu đoàn cho tới lớp Đệ Tứ và giữ môn Anh Văn cho tới lớp Đệ Nhất với quyển “ La vie en Amérique”(1963).

Càng về sau với cơ sở mới, đội ngũ giáo sư càng hùng hậu, nhất là lúc mở thêm Trường Bán công Trần Thượng Xuyên, đứa em thân thiết nằm bên cạnh, lúc ấy những cánh chim Ngô Quyền I đã tung bay khắp muôn phương (1963). Sau này Trường Trần Thượng Xuyên tách rời về khu trường Khiết Tâm nhường lại toàn bộ cơ sở cho Ngô Quyền. 

Cho đến nay 50 năm trôi qua với bao nhiêu biến động khủng khiếp của lịch sử, được diễm phúc là một học sinh lớp B3 của trường Ngô Quyền thuở sơ khai tôi xin ghi lại đây bằng ký ức của mình và vài bạn trong ba lớp Ngô Quyền I hình ảnh Trường Ngô Quyền chúng ta được khai sanh giữa thời đất nước chuyển tiếp từ chế độ thuộc địa Pháp sang nền Đệ Nhất Cộng Hòa trong hoàn cảnh đất nước bị qua phân. Trường Ngô Quyền lớn lên không ngừng trong bối cảnh đó, từ Đệ Nhất  Cộng Hòa sang  Đệ Nhị Cộng Hòa với chủ trương một nền giáo dục “Nhân Bản và Khai Phóng”. Đến biến cố 1975, bao nhiêu đổi thay xảy đến cho Ngô Quyền, cũng như bao nhiêu trường Trung Học miền Nam, học sinh gốc Ngô Quyền phân tán khắp nơi trên thế giới, số còn ở lại quê nhà với cơ sở vừa xây lại mới, nhưng dù ở nơi nào học sinh Ngô Quyền quyết giữ truyền thống hiếu học với tinh thần “tôn sư trọng đạo” với Thầy Cô, một dạ chân tình với bằng hữu, xin được kính cẩn nghiêng mình thắp nén tâm hương để tưởng nhớ các vị Thầy đã quá vãng, hoài niệm các Bạn đã qua đời của niên khóa đầu tiên 1956-1957. Mãi mãi ghi nhớ công ơn giáo dục của tất cả các vị Thầy đã đem hết lương tâm chức nghiệp từ lớp Đệ Thất đến lớp Đệ Nhất với bao kỷ niệm suốt học trình đã kết tinh thành chuổi hạt kim cương long lanh dưới mái trường Ngô Quyền thân yêu của chúng ta.   

 

                                                Nam Cali Tháng Tư 2006

 

24 Tháng Mười 2020(Xem: 11341)
Căn nhà như chiếc áo rách toang Mưa tuôn, gió thổi sẽ tan hoang Tôi thân các cháu chờ người cứu Xin trời thương xót kiếp cơ hàn.
18 Tháng Mười 2020(Xem: 12039)
Khi xe lửa rời bến, tôi đứng ở cửa sổ để nhìn lại Huế một lần cuối thì khói xe lửa tạt vào mặt tôi và từ đó bụi khói vào mắt tôi làm tôi chảy nước mắt suốt một đoạn đường dài.
18 Tháng Mười 2020(Xem: 11536)
vẫn cằm vuông. vẻ cương nghị nét phong trần, theo thời gian, phủ dầy vai áo chiếc chemise carreaux thầy thường mặc như một chọn lựa dấn thân ngày tuổi trẻ cho tuổi trẻ lần cuối cùng tôi gặp lại thầy, đã quá tám năm...
18 Tháng Mười 2020(Xem: 12178)
Thế đành... dang dở... âu đành thế Thôi vậy... ngậm ngùi... cũng vậy thôi Bạn hỡi! Hãy quên đi bạn hỡi Đời vui như thuở mới vui đời!
10 Tháng Mười 2020(Xem: 10065)
Màu da ngâm ngâm hơi rám nắng, mũi không cao, mắt mí lót, mặt có những nốt tàn nhang li ti. Nụ cười cũng chẳng làm nghiêng nước nghiêng thành nhưng biểu cảm sự thành thực và thân thiện.
10 Tháng Mười 2020(Xem: 12488)
Thôi nhé! Nghìn thu em ngủ yên Nỗi đau chị không muốn khêu thêm Tiễn em bàn phiếm buồn rưng rức Những dòng chữ viết cũng ưu phiền.
09 Tháng Mười 2020(Xem: 12362)
Thôi thì trước mặt sông sâu Lá xuôi dòng nước biệt sầu thế gian Đẹp thay chiếc lá thu vàng Bềnh bồng trên nước thênh thang giữa trời...
04 Tháng Mười 2020(Xem: 11469)
Những giọt nước mắt của mùa thu yêu thương và hoài niệm. Rồi mọi thứ sẽ qua, rồi tôi cũng sẽ đi vào hư vô. Mọi vật đều vô thường. Hãy nghĩ như vậy để yên vui.
30 Tháng Chín 2020(Xem: 13104)
Dĩ vãng chợt về ta đứng lặng. Chuyện của ngày xưa, thu của Thu. Ta đến giữa mùa thu lá vàng. Ta đi màu sắc vẫn ngập tràn. Giữ mãi trong tim vàng, tím, đỏ Như giữ một thời đã sang trang.
30 Tháng Chín 2020(Xem: 12641)
Người đi vượt chốn ba đào Mùa thu ở lại ngắm sao nguyên cầu Thời gian cõi tạm bao lâu? Mùa thu ở lại ngậm sầu lá rơi! Mong người đến chốn đúng nơi Thành tâm chung sức giúp đời an yên
24 Tháng Chín 2020(Xem: 13807)
Trăng viễn xứ trở về trên bến đợi Lòng thuyền xưa rời bến đã lâu rồi Trăng viễn xứ mờ mờ trên bến cũ Lòng thuyền nào đã chứa nửa vầng trăng?!
24 Tháng Chín 2020(Xem: 12140)
Trăng Thu đủng đỉnh qua vườn Chén trà hỏi bánh người thương đâu rồi? Gió thu lùa vạt mây trôi Để trăng in đậm dáng người phương xa
19 Tháng Chín 2020(Xem: 11171)
Nguyện cầu cho sân si con người dịu lại, thấy được sự vô thường của cuộc sống. Nguyện cầu cho lửa mau tàn, cho người dân trở về nhà sinh sống bình an. Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.
19 Tháng Chín 2020(Xem: 12846)
Từ biệt Portland về Cali Hai nơi cháy lớn ở và đi Tàn tro mắt đỏ tôi xoa mãi. Tháng chín năm nay thật ai bi.
12 Tháng Chín 2020(Xem: 11924)
Viết vài dòng này để tạ tội với dì tôi đã một thời mù đôi mắt vì tình lụy và nhất là tạ tội với ông Nghị Nguyễn Bá Kỳ vì tôi đã hiểu lầm ông. Hắt hơi là tình hận chứ không phải muốn hù dọa, khoe danh.
05 Tháng Chín 2020(Xem: 14620)
..Mỗi người sống chết an bài? Tin buồn loan tới Anh Hoài đã đi Một tuần Vĩnh biệt chia ly Thanh Hoài, Tường Cát viết chi, nói gì? Sinh hữu hạn, tử vô kỳ? Bạn hiền thân ái sầu vì mất Anh.
05 Tháng Chín 2020(Xem: 11354)
Gió Thu nhè nhẹ vẫy tay chào Nàng Thu xinh đẹp đã bước vào Lá đỏ nghiêng mình soi dòng nước Trăng vàng lộng lẫy giữa ngàn sao
05 Tháng Chín 2020(Xem: 12138)
Xuân đi, Xuân tới bao lần, Nhớ mùa Xuân cũ tần ngần ngóng trông Đất Trời, Biển rộng mênh mông? Niềm vui, hy vọng sẽ không phai mờ.?
04 Tháng Chín 2020(Xem: 10946)
Bây giờ Tháng Chín Mùa Thu Trăng treo đỉnh núi vọng mù tóc bay Biển đời gió đọng mưa lay Cầu mong được phút giây này bình yên...
29 Tháng Tám 2020(Xem: 11077)
. Các Tăng Ni dù không được tập trung cầu nguyện như những mùa Vu Lan trước, nhưng năm nay bà Tâm tin tưởng Thầy, Sư Cô và các vị Sư sẽ trì chú tụng kinh nhiều hơn ở mỗi đêm.
27 Tháng Tám 2020(Xem: 12833)
Cám ơn cháu cho ta giác ngộ Một lạy thôi rực rỡ hào quang Cử chỉ khiêm cung bát ngát sen vàng Ta học Phật, học từ đứa bé.
26 Tháng Tám 2020(Xem: 12672)
Rất muốn ngắm biển đêm bằng đôi mắt Tìm những điều ẩn ý dưới hoang mang Và muốn thấy giữa vô cùng tịch mịch Trăng lạc đường vì gió mãi lang thang.
23 Tháng Tám 2020(Xem: 9327)
Buổi tưởng niệm kết thúc qua phần tri ơn của gia đình “Chúng con vô cùng tri ơn quý Thầy Cô và quý anh chị cựu học sinh Ngô Quyền đã mang đến cho ba chúng con một cuộc đời, một cuộc sống đầy ý nghĩa”.
22 Tháng Tám 2020(Xem: 8746)
Chiếc ghế trang trọng dành cho Thầy vẫn luôn nằm trong lòng mỗi người học sinh Ngô Quyền xa xứ. Chúng con xin hứa sẽ làm tốt để xứng đáng với sự dạy dỗ và thương yêu của Thầy.
22 Tháng Tám 2020(Xem: 13184)
Khủng khiếp ngoài trời lửa bốc nhanh Cali hỏa hoạn đã tung hoành Mây đen chế ngự vùng trời rộng Lửa cháy tràn lan khắp núi xanh
14 Tháng Tám 2020(Xem: 14009)
Ta đã mệt nhoài bao năm tháng Buông tay rủ sạch, ta rút lui. Ta nghe văng vẳng những hồi chuông. Tiếng mõ ngân nga vọng vô thường Khoan thai ta bước vào vô tận Một kiếp phù du chẳng vấn vương.
12 Tháng Tám 2020(Xem: 12567)
Tai nghe chim hót ngất ngây. Hồ Thu in bóng rừng cây muôn mầu. Vui lên xin chớ u sầu! Hẹn ngày tái ngộ bắt đầu thu sang ? Viễn du thế giới thênh thang . Ngày Xưa Thân Ái kiên gan đợi chờ...
09 Tháng Tám 2020(Xem: 11811)
Con tạ ơn Thầy Cô đã cho chúng con qua sông yên bình, cho chúng con có căn bản đạo đức và kiến thức làm người hữu dụng. Ở nơi xa không thể về đốt hương tưởng niệm. Con xin kính gửi đến Thầy cô tất cả lòng kính yêu trân trọng nhất.