Lời Giới Thiệu:
Chúng tôi nhận được bài viết Cha Tôi của tác giả Quang Nguyễn vài ngày trước đây.
Nhận thấy đây là bài văn theo lối Tự Sự với cách hành văn trôi chảy với nhiều chi tiết sống thực trong những ngày xưa cũ mà tác giả khéo léo lồng trong bối cảnh gia đình và xã hội gây nhiều cảm xúc nên chúng tồi muốn dành một khoảng riêng để đăng theo Chủ đề NGÀY LỄ CHA vào tháng tới cho thích hợp.
Tuy nhiên, theo lời yêu cầu của anh Quang Nguyễn muốn được đăng sớm để may ra khi Cụ Ông còn tại thế có thể đọc hay “nghe thấy” nỗi lòng của Người Con đang xa xứ nhớ về thân phụ mình. Khi chuẩn bị đăng bài nầy trong lọat bài cuối tuần về Lễ Mẹ thì được tin Cụ Ông vừa qua đời ở trong nước và anh Quang đang có mặt ở Việt Nam thọ tang Cha.
Dù không kịp lúc, nhưng chúng tôi mong là bài viết sẽ chuyển tãi tấm lòng của tác giả làm mọi người hiểu anh hơn và trong cõi hư vô, thân phụ anh sẽ mỉm cười trước tình cảm của con mình!
Xin góp lời cầu nguyện cho hương hồn Cụ Ông sớm Siêu Linh Thoát Độ và Mãi Bình An nơi Cõi Vĩnh Hằng!
CHA TÔI
(Viết riêng cho Cha, trong những ngày ông đang yếu tại Việt Nam)
Những ngày này tuy đã bước qua tháng Năm nhưng tiết trời Canada vẫn còn lạnh, buổi sáng và chiều tối vẫn còn những cơn gió hú mang theo cái lạnh của phương Bắc, nhưng mọi người đều cảm nhận được sự ấm áp của mùa xuân vừa trở lại sau khi thoát qua mùa đông giá buốt khắc nghiệt. Những trảng cỏ không còn tuyết phủ được thay một lớp áo mới xanh thẫm, nhiều cành cây nhú những mầm xanh đón chào mùa nắng ấm trở về, và từng đàn chim di trú cũng quay trở lại líu lo hát vang những giai điệu, có giai điệu nghe thật khó ưa nhưng mang lại nhiều điều thú vị cho những người đang sống nơi đây.
Qua những thay đổi của thời tiết và cây cỏ, mình càng cảm nhận sự tồn tại vĩnh
cửu của thiên nhiên và cảnh vật, cứ hết mùa đông giá lạnh thì chúng lại đâm
chồi và nở hoa trở lại. Phải chi con người được như cảnh bất biến của cỏ hoa
tại Canada, chúng ta sẽ không bao giờ phải tiếc nuối và than khóc khi những
người chung quanh, bạn bè và người thân của mình về cõi vĩnh hằng.
Mấy ngày nay, mình luôn sống trong cảm giác lo sợ và bất an, sợ tiếng điện
thoại từ Việt Nam gọi qua và luôn nguyện cầu những điều mình mong mỏi nơi cha
mình: là ông luôn mạnh khỏe, bình an, chứ không phải là một giọng nói trĩu nặng
báo tin. Dù trong lòng mình phải chấp nhận quy luật của trời đất, với vòng luân
hồi của một kiếp người. Trong vũ trụ có mặt trời và mặt trăng, trong vòng quay
của trái đất có ngày và đêm, có thủy triều lên xuống và có sinh tử như lời Phật
dạy.
Mình không được sinh ra trong một gia đình giàu có, nhiều phước lộc để các con thừa
hưởng sự sung túc, giàu sang, được học hành tới nơi tới chốn như nguyện ước của
cha mẹ. Nhưng đến bây giờ và mãi về sau, mình luôn cảm nhận có nhiều may mắn và
đặc ân của bề trên ban cho. Mình được học hành hơn những đứa em, tuổi thơ cũng
có vất vả và thiếu thốn, lớn lên có những lúc gần với cái chết nơi chiến trường
nhưng vẫn bình an vô sự. Cuộc đời tuy có gian nan, ngược xuôi và thăng trầm
nhưng chưa bao giờ vào ngõ cụt, trong bế tắc vẫn có người nương tay giúp đỡ, có
lúc tưởng chừng trên đầu sóng, ngọn gió mình vẫn có lối thoát, không bằng ai
nhưng cuộc sống vẫn còn nhiều hạnh phúc ấm áp và tuyệt diệu. Có được những cơ
may như thế đều nhờ vào hồng đức của ông bà, cha mẹ, đây là điều đã giúp mình
vượt qua tất cả.
Bây giờ mình đã trên 50 tuổi, tóc đã điểm tuyết trắng nhưng có diễm phúc là cha
mẹ vẫn còn đầy đủ dù đã 84 tuổi, mà người Việt Nam gọi là thượng thọ. Trong
những ngày này, mình cảm thấy không một chút bình yên vì ở bên nhà cha mình
đang yếu lắm. Mình muốn ghi lại những dòng chữ này, không phải ngợi ca về cha
vì thực chất gia đình mình có nổi trội gì hơn ai, nếu không muốn nói là nhà
mình rất nghèo. Trong xã hội có ai gọi “ông” bán báo hay chỉ là “thằng bán báo”
như gọi “thằng bán vé số", có họa chăng nếu nhìn đúng sự thật là chỉ hơn
“thằng ăn mày” tìm sự bố thí của chúng sanh!
Nếu là dân Biên Hòa thì chắc nhiều người biết đến sạp báo đối diện trường Ngô
Quyền, nhất là CHS NQ và sạp báo ấy vẫn tồn tại từ năm 1970 cho đến bây giờ. Vào
những năm đầu, mình vẫn ngày đi học và chiều về chạy ra đại lý báo Huỳnh Hiệp
để lấy báo, phải dùng từ “chạy”, vì lấy càng sớm, gấp báo càng nhanh thì
mang về sạp sẽ bán càng nhiều hơn. Và người khai sinh ra sạp báo ấy là cha mình!
Có một điều mà mình cũng không biết phải giải thích ra sao, và vì căn nguyên nào mà đến bây giờ vẫn mặc nhiên gọi cha mình bằng “Bá“ là ba có dấu sắc và mẹ là “Bu“… Có lẽ đây là cách gọi của dân xứ Bắc mà đặc biệt của một vùng nào đó, mình cũng không tìm hiểu điều đó làm gì vì thấy nó cũng ngồ ngộ.
Theo như Bá kể lại, ông là con cầu tự và độc nhất của ông Nội. Ông mình hơn ba
mươi tuổi mới có con, nên ông bỏ xứ mang cha mình lên thành để học hành. Thời
Pháp thuộc mà được học tiểu học thôi cũng đã là số dách rồi, nhất là ở cái xứ
Bắc kỳ nghèo khổ. Sau khi nghỉ học, ông đi lính Pháp tại sân bay Cát Bi-Hải
Phòng rồi đến năm 1954, ông quá giang máy bay đưa gia đình vào ở sân bay Biên
Hòa và định cư luôn thành dân xứ Bưởi. Có lẽ do học tiếng Pháp và làm việc với
người Pháp quá lâu nên đến bây giờ ông vẫn nói trôi chảy tiếng Pháp. Hồi còn
khỏe mạnh, gặp lại bạn bè, những người thân quen như Giáo sư Lê Văn Quý dạy
Pháp văn ở trường Minh Tân là ông xổ tiếng Pháp mà không độn một chữ tiếng
Việt, ông có thể hát quốc ca Pháp và những bài hát Pháp một cách nhuần nhuyễn.
Và cũng có lẽ ông “ghét” thằng con hư hỏng nhất nhà là mình hay sao mà duy nhất
trong nhà, khi vào trường Ngô Quyền ông bắt mình chọn sinh ngữ chính là Pháp
văn, và đến bây giờ chỉ còn nhớ mang máng vài chữ ”moi-toi“ mà thôi.
Là một công chức (nhân viên đánh máy) thuộc phòng hành chính của Không đoàn 23
(sau này là Sư đoàn 3 Không quân), ông mẫn cán với công việc và trách nhiệm được
giao phó. Có lẽ ảnh hưởng từ sự giáo dục thuần khiết thời bấy giờ, ông chỉ chú
tâm với nhiệm vụ và chưa bao giờ có một hành động hoặc việc làm trái đạo lý, để
những người chung quanh ta thán hoặc xỏ xiên, mặc dù thời đó nhất là trong cơ
quan ông làm, có khá nhiều người mơ ước ngồi chỗ đó vì an nhàn, không vướng vào
chiến sự. Rồi sau này chỗ ông coi luôn bộ phận “quân tiếp vụ” thì việc trục lợi
và ăn chặn, ăn chia các tiêu chuẩn của mấy anh lính ma, lính kiểng rất dễ dàng
(vì danh sách cả sư đoàn ông đều biết). Tuy nhiên ông không vướng vào bất cứ
điều tiếng gì, không vụ lợi và không tham lam. Mình nghĩ theo thời cuộc bây giờ
thì chính cái “Sạch“ đó đã làm ông nghèo, để đến những năm đầu thập niên 1970
khi viện trợ Mỹ cắt giảm, đời sống binh sĩ, công chức lúc bấy giờ quá khó khăn,
đồng lương không đủ bảo trợ gia đình và nuôi sống con cái, nên ông đã phải khai
sinh ra cái nghiệp bán báo từ đó! Cũng cần nói rõ, ông có cốt cách rất khỏe có
lẽ nhờ ăn đồ ăn Pháp. Ông bà có đến 9 người con, gặp thời khốn đốn lo ăn, lo
học cho bao nhiêu đấy con thì phải xoay ra đủ cách mà thôi, không những bán báo
mà còn thêm bán dép ở chợ Kỷ niệm (đối diện trường Ngô Quyền) và sau năm 1975
còn bán đủ thứ…
Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình được sự cưng chiều của ông bà Nội,
nên chắc có ảnh hưởng đến sự bướng bỉnh và hơi ương ngạnh và trọng cái tôi.
Ngoài ra, được giáo dục trong học đường thời Pháp thuộc và rèn tập trong quân
đội Pháp, nên ông luôn ngay thẳng và trung thực, cộng một chút gì đó hơi ngang
ngang và khó diễn tả… Và cái bản chất ấy còn được ông thể hiện rất rõ ràng
trong đời sống hàng ngày, ông sẵn sàng tuôn ra những lý luận sắc bén để đả phá
bất cứ ai đi ngược lại lẽ phải và chính kiến của ông, mặc dù người đó có chức
quyền cao hơn ông hoặc người đó hàng ngày đến mua báo chỗ ông bán. Đó có thể
coi là gàn, là dễ gây mất lòng với người khác nhưng ông mặc kệ sự khó chịu và
chấp nhận bị khinh ghét nếu có một cách thản nhiên…, âu đây cũng là bản chất
chính trực đã ảnh hưởng trong ông và có lẽ cái “gen” này tồn tại đến con ông là
anh Hai mình, Sau năm 1975 thì ai cũng khổ, nhưng ông anh mình giống cha là
trung thực, thanh liêm, mẫn cán… và đến bây giờ đã 60 tuổi cũng vẫn vậy.
Có lẽ lớp tuổi mình và sau này khó có thể bắt chước được lối sống ngăn nắp,
trật tự như một thời khóa biểu của ông. Sau này đã yếu nhiều chứ cách đây khoảng
3 năm ông vẫn sáng tập thể dục, chân chạy thình thịch hoặc vươn vai làm động
tác thể dục buổi sáng, trong khi miệng ông vẫn hát vang vang những bài ca Pháp,
hoặc các bản hùng ca như bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước…, rồi ông
mới ăn sáng, đọc báo, nghe thời sự mà ông thích nhất là đài BBC từ lúc mình
biết cho đến tận bây giờ. Sau đó ông mới đi làm ở sở, đến trưa về nhà ăn cơm
cùng gia đình. Chiều từ sở về nhà không tụ tập bất cứ nơi nào, tắm rửa xong là
ông lôi sổ sách ra ghi ghi, chép chép, cập nhập hàng ngày cứ như một nhà buôn
lớn… rồi ăn cơm cùng gia đình, sau đó là mở cái radio ra nghe BBC tiếp cho đến
khi đi ngủ.(sau này có truyền hình thì coi xong thời sự là ông cũng đi ngủ) và
đều đặn ngày này qua ngày khác, đặc biệt là ông không bao giờ thích bia rượu
nên vì vậy mà ông không la cà quán xá như nhiều người khác. Cái hay là ông
không cảm thấy nhàm chán với cái nguyên tắc sống ấy, dù ai có khuyên ông phải
thay đổi chút ít.
Có lẽ với tích cách này nên ông rất ít bạn bè và không giao du nhiều, cho đến
bây giờ mình vẫn không giải thích được! Dù môi trường ông sống thời đó chung
quanh anh em là binh sĩ, công chức... hầu hết đều biết vui chơi trong cuộc sống
chụp giựt thời chiến tranh, nhưng ông không thích thú và tha thiết gì, không tụ
tập nơi quán xá hoặc ghé nhà ai đó, ngồi lê la làm vài chai bia hay cốc rượu để
mở lòng. Ông ít quan hệ chung quanh, một năm chỉ duy nhất trong mấy ngày tết là
ông có đi thăm viếng và chúc tết gia đình bạn bè. Còn ngày thường ngoài giờ làm
và sau này đi bán báo, hết công việc là ông quay trở về nhà. Cho đến khi ông
làm sui gia rồi cũng vẫn vậy, quan hệ ngoại giao là giao cho vợ, có đi đâu vì
chuyện hệ trọng thì ông chỉ ngồi cho đủ tụ và nhường phần phát biểu cho người
khác. Ai cũng tưởng ông lập dị nhưng không phải vậy, thói quen từ nhỏ đã làm
ông khác người. Ông tự cô lập không phải do mặc cảm, ông không nói không phải
là tự cao hay ít nói…và ông cũng chẳng phải là người dở, chẳng qua đó chỉ là bản
tính không thay đổi của ông mà thôi.
Cung cách sống đời thường thì vô cùng giản dị, một anh công chức quần áo chỉnh
tề là được, không se sua chưng diện và đòi hỏi gì. Từ nhỏ cho đến tận bây giờ
vẫn mái tóc húi cua, gần trọc lóc như lính tân binh hay dân xứ Đại Hàn, nên ngay
các con trai của ông học đến Trung học cũng phải cắt tóc ngắn, đi học thì mang
giày ba-ta chứ không được mang bất kỳ thứ nào khác. Có lẽ ông thích Pháp nên đi
làm cũng chỉ bằng xe Mobylett chứ không dùng Honda của Nhật, dù 2 thứ gần ngang
giá cả, kể cả sau này sắm thêm cũng là Mobylett mà thôi. Nên sau năm 1975 được gia
đình trưng dụng làm 2 chiếc xe thồ củi trên rẫy cũng tiện. Trong nhà thì mua
sách học cho con là chính chứ không thấy ông để ý mua sắm các vật dụng không
cần thiết khác. Cả một đời cung cách tiết kiệm của ông là dành phần lớn để nuôi
con ăn học thôi, nên ông hay khoe là tuy nghèo nhưng con ông học Phú Thọ và
toàn học Ngô Quyền, lại có con gái học giỏi năm nào cũng phải lấy xe Mobylett
chở con đi lãnh phần thưởng…
Đối với vợ, ông cũng không phải là người gia trưởng và trong hơn 60 năm cùng
chung chăn gối, chưa thấy xảy ra điều gì đáng phàn nàn trong cách đối xử của
ông đối với bà. Chưa bao giờ nghe một lời nói nặng nề đối với vợ. Có gì mà bà
nấu là ông ăn, coi bữa cơm chỉ là điều kiện cần thiết để sống, không câu nệ
ngon dở, sang hèn… Nhà nghèo với bữa cơm đạm bạc cũng chưa bao giờ có một câu phàn
nàn với bà, những năm cuối thập niên 1970, thậm chí có ăn độn thì ông vẫn hát
ào ào, chẳng tiếng kêu ca để làm phiền lòng bà. Nhưng có một điều là chỉ có bà
nấu thì ông ăn ngon lành, bà bận đi xa lâu ngày ai nấu ăn ông cũng chê! Nhất là
pha cà phê sáng, ông không bao giờ ra quán ngồi, sáng dậy sớm là ông kêu bà
cùng dậy, rồi nấu nước pha cho ông uống. Thậm chí bà có muốn ngủ thêm cũng
không được vì ông sẽ réo cho bằng được, vì chỉ có cà phê của bà pha là ông mới
uống mà thôi. Mình thì chưa thử cà phê bà pha thế nào lại gây nghiện cho ông
như vậy!
Đối với con cái, ông không có biểu hiện cách sống nặng tình cảm trong lời nói,
nhưng ông tập trung lo cho con về chuyện học hành. Cho con được đến lớp là gánh
nặng nhất của ông. Do chiến tranh nên sau năm 1968, ông không chịu ở trong trại
gia binh nữa mà tìm mua một căn nhà trong xóm nhỏ. Theo thời giá lúc ấy thì một
căn nhà mặt tiền phố với căn nhà trong hẻm không có chênh lệch lớn lắm, nhưng
theo cách nghĩ của ông thì ở trong xóm xa phố thị sẽ không ồn ào, và những hình
ảnh không đẹp ảnh hưởng đến chuyện học hành của các con. Ngày con còn nhỏ, ông
uốn nắn từng đứa tập viết, tập đồ chữ, đánh vần ê a, nên trong nhà mình ai cũng
viết chữ tương đối đẹp. Lớn lên một chút là ông giao lại người con lớn kèm cặp
lớp nhóc tiếp theo, điển hình là hàng tuần phải làm đủ số lượng bài tập quy
định ngoài sách giáo khoa của nhà trường. Nhà tuy chật nhưng ông cũng mua 1 bộ
bàn ping-pong để các con chơi ngoài giờ học, không cho la cà nơi khác, và sau
này cũng có ích vì bàn ping-pong được biến thành chiếc gường nằm cho bầy trẻ.
Có lẽ điều ông buồn lòng nhất là sau năm 1975, ông không còn khả năng lo cho
những đứa em mình để chuyện học hành phải dang dở, nhưng trong anh em không một
ai nhắc đến và làm ông buồn phiền về chuyện này, vì ai cũng hiểu thời cuộc đã
làm đổi thay tất cả.
Còn nhiều chuyện đáng kể về ông, kể cả chuyện bên ngoài nói ông bất hiếu không
chăm sóc cho mẹ. Sự việc là sau khi ông Nội mất năm 1968 thì bà Nội như bị bịnh
hoang tưởng, bà hay bỏ nhà ra đi về hướng mà bà bước xuống miền Nam là sân bay
Biên Hòa, với ý nguyện là chết nơi quê cha đất tổ. Lúc ấy bà Nội đã trên 70
tuổi, nhà lại bận rộn, cha đi làm, mẹ đi bán, con lớn đi học xa. Cứ vắng người
là bà bỏ đi, và một lần bỏ đi thì y như rằng có xe quân cảnh Không quân chở bà
từ sân bay ra tận phòng hành chánh giao lại cho ông (cũng hay là bao nhiêu bốt
gác vậy mà bà vẫn đi lọt, có lúc tận đường băng sân bay)… và cứ mỗi lần như vậy
là thêm những lời dị nghị… nhưng ông chấp nhận, không than van và cũng không
oán trách chuyện thị phi, đàm tiếu cho đến khi bà Nội mất năm 1972. Ngay đến
sau này, khi mình lập gia đình, cũng còn có người đặt lại vấn đề về sự hiếu
thảo và đối xử với cha mẹ của ông ra nhằm mỉa mai, cản trở hôn nhân của mình.
Hay về chuyện gõ chuông và cầu nguyện cho mình và sau đó là đứa em trai mà cả
xóm ai cũng biết và hay trêu đùa ông. Vì hơn ba năm mình và em trai (với cũng
ngần ấy thời gian) nằm ở chiến trường Kampuchia. Hàng ngày hai buổi, sáng sớm
khi mọi người còn an giấc và chiều tối là ông gõ chuông và cầu khẩn ơn trên ban
an lành cho con. Mà cái giọng của ông thì nào có nhỏ, gõ chuông thì mạnh mẻ
vang động nên láng trên, xóm dưới ai ai cũng biết. Có lẽ cũng nhờ sự thành khẩn
của ông mà ơn trên đã độ trì để anh em mình bình yên trở về nhà, dù cuộc chiến
ấy cũng khốc liệt và nguy hiểm.
Càng viết về ông, mình càng cảm thấy ân hận là một đứa con bất hiếu. Hơn 50
tuổi nhưng bước chân lang bạt vẫn chưa dừng lại, quảng thời gian bên gia đình
chỉ đếm được trên đầu ngón tay, còn lại là biền biệt xa quê và bây giờ thì sống
tha hương nơi xứ người. Chưa bao giờ mình đền đáp công ơn cha mẹ trọn vẹn, có
về chăng bên gia đình thì cũng chỉ là người ở trọ năm nào về thăm chốn cũ. Chưa
một lần chăm sóc, dưng trà hay đơm cơm cho cha mẹ. Có những ngày tháng ở Biên
Hòa, thì cũng chợt đến và chợt đi thật vô trách nhiệm. Có thể ngồi đàn đúm với bạn
bè cách nhà chẳng bao xa, có thể tiêu xài tiền ngàn, tiền triệu…nhưng cứ nhấp
nhảy theo con sóng hào nhoáng đời thường, chứ có khi nào nhớ đến việc chia sẻ
trách nhiệm và làm tròn bổn phận người con chung tay phụ giúp gia đình, chăm
sóc cha mẹ. Nỗi ân hận này của mình sẽ ray rứt mãi về sau.
Giờ đây ông đã yếu nhiều. Có điện thoại về thì cũng chỉ nghe tiếng nói không rõ
do lưỡi ông muốn cứng lại. Mình chỉ biết cầu nguyện cho ông, và nếu có một điều
ước thì mình chỉ ước nguyện ơn trên lấy đi phần đời của mình xin để trao cho
cha, mẹ đã vất vả ngược xuôi nuôi mình khôn lớn được sống mãi mãi.
Bá ơi, hãy chờ con về, con đang sắp xếp những phần việc bên này để về bên Bá. Chỉ cần con được Bá gật đầu tha lỗi cho đứa con bất hiếu này, là đời con mãn nguyện, để nỗi ân hận dần chìm tan trong con.
Con của cha
Quang Trần (Canada)
May, 04-2012