Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

MGTT 16 – Các Thầy Cô dạy QUỐC VĂN

04 Tháng Mười 201012:00 SA(Xem: 40236)
MGTT 16 – Các Thầy Cô dạy QUỐC VĂN

  MGTT 16 – Các Thầy Cô dạy QUỐC VĂN

Sau loạt bài về các Thầy dạy Triết, BBT nhận được nhiều lời khích lệ từ quý Thầy Cô, và nhiều chs NQ. Đặc biệt hơn hết, chs NQ khóa 11 Trương Đức Hoàng đã “nhắm măt cho tôi tìm về một thoáng hương xưa”, và đã ghi lại cả một đoạn đời Trung học của anh, từ lớp Đệ Thất 4 (6/4) đến lớp 12B1 rất chân tình, trung thực và truyền được cảm xúc từ người viết sang người đọc .

Mời các chs NQ (nhất là các anh chị khóa 11, đã mang phù hiệu NQ từ năm 1966 đến năm 1973) cùng trở về Ngô Quyền xưa, như chúng ta chưa từng có trên dưới bốn mươi năm ngăn cách mình với thời mới lớn.

Lắng nghe kỷ niệm của chs Trương Đức Hoàng với các Thầy Cô giáo dạy Văn: Nguyễn Thị Nguyệt, Hà Bích Loan, Trần Thị Hương, Đoàn Viết Biên, Vương Chân Phương, Trần Văn Kế; Triết : Trương Hữu Chí, Vũ Khánh Thành để thấy là các nam sinh NQ ngày xưa đã “xuất khẩu thành thơ” và đã “dám xướng họa” với những tên tuổi lớn trong Cổ Văn VN như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Đoàn Thị Điểm... như thế nào?

Và cũng để thấy học trò Trung học công lập trước năm 1975 được giáo dục đa dạng, và biết thưởng thức thể thơ song thất lục bát, thấu hiểu những nỗi niềm mà tiền nhân đã gởi lại cho thế hệ hậu sinh.

Cuối cùng, xin được cùng với các chs NQ khóa 11, chúng ta đốt lên nén hương lòng tưởng nhớ Thầy Trần Văn Kế, Cô Vương Chân Phương, và chs NQ Vũ Mạnh Tiến.


  

   KỶ NIỆM BUỒN VUI THỜI TRUNG HỌC

 Trương Đức Hoàng


Đã lâu rồi tôi cứ thao thức vì muốn viết về những kỷ niệm khó quên thời Trung học. Ngày xưa dù có những môn rất thích và có môn... “nuốt” không vô nhưng lúc nào tôi cũng kinh mến và nhớ thương quý Thầy Cô của mình. Bây giờ với đầu óc già cỗi, tôi xin bắt đầu với hai môn Việt văn và Triết học.


Năm tôi tập tểnh bước chân vào Trung học thì có vài đổi mới là mình ăn mặc chỉnh tề và có vẻ chải chuốt hơn! Chị Hai tôi đã dẫn thằng em qua tuốt bên phố Đa Kao ở Sài Gòn để mua một đôi dép da mới. Thú thật suốt thời gian học Tiểu học từ lớp Năm đến lớp Nhứt (lớp Một đến lớp Năm bây giờ), tôi chỉ thích đi chân không đi học! Còn mặc quần áo thì thiệt là quê, tôi chỉ biết bỏ áo trắng vào bên trong quần xanh sát rạt, làm tăng thêm vòng hai béo ụ của mình chứ không biết kéo một chút áo cho nó phùng lên như các anh lớn. Với phong cách khá chửng chạc như vậy, tôi và đám bạn bè bát nháo được xếp vào lớp Đệ Thất 4.

huecuatoi_img2-thumbnailTrong năm này môn tôi vừa thích mà cũng vừa sợ là giờ Việt văn học với  Nguyễn Thị Nguyệt. Thích vì cô hiền từ, cười như hoa nở khi giảng bài nhưng sợ vì với giọng Huế của cô, mỗi lần viết chính tả tôi đã bị không biết bao nhiêu lỗi! Có một lần cô đọc "chậm xuộng hàng", tôi nghe không rõ nên thêm chữ "chầm" rồi viết thành "chầm chậm xuống hang", sau khi cô chấm điểm thì ra đó là... chấm xuống hàng, nghĩa là xuống hàng để viết qua một câu mới! Đến một bài nói về miền quê ngoài Bắc, tôi ngẩn ngơ khi nghe hai chữ "mịa muội", không biết đây là từ quái quỷ gì nên đành bỏ trống. Rốt cuộc tôi bị hai lỗi mới biết "mía mùi" là một loại mía rất ngon! Khi học với cô, trong lớp tôi có một bạn tên Châu trắng trẻo, bảnh trai đã bị bạn bè đặt chết tên là "Châu chấu ma" từ bài "Bọ ngựa và Châu chấu ma". Tụi tôi cũng thay phiên nhau vuốt mũi anh chàng này cho đỏ chót khi nghe cô giảng: "mèo mũi đỏ là mèo hay ăn vụng!"

 

co_habichloan-thumbnailSang năm Đệ Lục 4 lớp tôi học với Hà Bích Loan. Cô đã dạy cả đám "phàm phu tục tử" viết chữ Hán, nét nào phải đá lên, nét nào cần uốn móc câu... Trong giờ này tôi mắc cười khi nhìn đám bạn vì có đứa thì bặm môi, đứa thì méo miệng để viết cho đẹp! Ông ơi, tôi cứ tưởng tượng nếu cô bắt dùng bút lông loại lớn thì chắc tôi sẽ đau khổ cầm cán viết như là... cán cuốc vì mỏi tay! Cô đã khiến tụi tôi mơ mộng đủ thứ khi giảng "Bích Câu Kỳ Ngộ". Nghe giọng thao thao bất tuyệt của cô, tôi cứ ngỡ mình là "Tú Uyên" và không biết khi nào gặp được người đẹp trong tranh "Giáng Kiều" đây! Lúc đó tôi mới biết hèn gì bà chị kế (học trên tôi 5 lớp) phục lăn khi nghe cô giảng về "Chinh phụ ngâm" của Đoàn Thị Điểm. Sau năm này tụi tôi không còn dịp học với cô, vì hình như cô đã chuyển về trường Lê Quý Đôn ở Sài Gòn!

 

co_tran_thi_huong-_edit-thumbnailNăm học lớp Đệ Ngũ 4 với Trần Thị Hương, đám bạn tôi đã chấm cô là "người có mái tóc đẹp nhứt trường!". Năm này có một biến cố khiến tôi không bao giờ quên. Có một lần khi được cô kêu lên trả bài, đang đứng trên bục gỗ thì tự dưng tôi thấy đầu óc choáng váng, đầu va vào tấm bảng sau lưng rồi ngất xỉu hồi nào không hay. Đám bạn đã dìu tôi (hay khiêng nhưng tôi không biết) xuống nằm trên băng ghế dài. Đến chừng nghe tiếng thằng bạn loáng thoáng: "thằng Hoàng giả bộ x
u nó muốn được cô thương hơn tụi em đó cô!", tôi bật cười và mở mắt ra thì thấy cô mỉm cười dịu dàng như một cô tiên!

Tụi tôi đã mơ làm chuyện nghĩa hiệp khi nghe Lục Vân Tiên (nực cười lũ kiến chòm ong) giải cứu tiểu thơ Nguyệt Nga. Lũ học trò nghịch ngợm của cô đã sửa từ

"Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái ta là phận trai"

thành

 "Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng chờ trong đó ta từ từ vô!".

Nhờ cô tôi mới biết "Hồn Cách Mạng" là tờ báo của phong trào "Việt Nam Quốc Dân Đảng", và năm 1945 Mỹ đã thả bom nguyên tử xuống hai đảo "Trường Kỳ" và "Quảng đảo" là Hiroshima và Nagasaki của Nhật... Vài năm sau tụi tôi nghe tin Thầy mất, cho đến bây giờ tôi vẫn hối tiếc vì không viếng thăm cô được trong những ngày đau buồn này!


thay_doan_viet_bien-thumbnailQua năm sau, lớp tôi được đổi thành lớp Chín 4 và học với thầy Đoàn Viết Biên. Thầy rất vui vẻ nhưng trông oai nghiêm với cái roi mây, bất kể tụi tôi đã "trổ mã" và to sầm nhưng đứa nào lạng quạng vẫn được thầy ưu ái tặng vài roi như thường! Hồi đó thầy dạy hai môn Cổ văn và Kim văn, bắt học trò phải học thuộc lòng tiểu sử tác giả như Nguyễn Du hay Phạm Quỳnh... Khi "được" kêu trúng tên, tụi tôi phải đọc phần nói về tác giả trước rồi mới trả bài (dĩ nhiên cũng phải học cho thuộc).

Thầy đã chia lớp tôi thành sáu đội, mỗi đội hai bàn. Trước giờ của thầy, thành viên trong đội có nhiệm vụ phải kiểm tra xem bạn mình có thuộc bài hay không. Nếu trong đội nào có người không thuộc bài, đội trưởng phải cho thầy biết tên, nếu không lỡ thầy gọi trúng anh chàng đó thì cả đội sẽ lãnh đủ và ăn... roi mây! Hồi đó có những cảnh cười ra nước mắt, nhứt là khi tụi tôi học phần Kim văn, vì bài của các học giả còn phôi thai nên văn viết dài lòng thòng và khó thuộc. Vào một buổi trưa tôi phải ôn bài "Hai Con Đường" của Phạm Quỳnh cho một người bạn tên Trung, anh này đi một đường tiểu sử tác giả ngon như ăn cháo. Sau đó Trung cũng trả một hơi đến nửa bài, tôi thấy chắc ăn rồi mới nói: "Thôi được rồi, tao với mày đi chơi !".

Khi thầy Biên mở sổ vàng kêu tên thì xui khiến làm sao Trung được chiếu cố tới! Tôi rất tin tưởng thằng bạn mình ai ngờ sau khi đọc đến nửa bài thì "xe" bị trục trặc, Trung ú ớ và thầy nhắc một hai chữ. Anh chàng đọc mấy chữ này rồi cứ lặp đi lặp lại hoài trong khi tôi muốn thót tim! Sau đó thầy hỏi: "Đứa nào khảo bài cho thằng này?". Tôi đành đau khổ đứng lên nhận tội và đi lên bảng, cả đội riu ríu đi theo tôi rồi nằm sắp lớp trên bục gỗ như... cá mòi. Lúc đó mỗi tên lãnh ba roi, tuy không đau nhưng thiệt là tức vì có mấy đứa con gái học khác buổi đi trực, sau khi thầy ký vô sổ điểm danh các "ả" không chịu đi cho rồi, cứ đứng ở ngoài cửa cười khúc khích hoài!
Cũng trong buổi chiều đó đến đội 6 thì đội trưởng báo cáo có bạn Tiến không thuộc bài. Tiến bèn tức tối đứng lên nói: "Thưa thầy, bửa nay trong đội có tới mấy đứa không thuộc bài chứ không phải một mình em!". Thầy Biên cười cười và không chờ các bạn khác nói "oong đơ" (un- deux) gì hết, đã kêu cả đội lên bảng nằm xuống để lãnh ơn mưa móc của thầy!

Nói về giảng bài thì khỏi nói, thầy đã truyền cho lớp tôi hào khí bừng bừng của ông Nguyễn Công Trứ. Nào là "Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc, Nợ tang bồng vay trả trả vay, Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây, Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể", hay là tuy nghèo nhưng không sờn lòng qua "Hàn Nho Phong Vị Phú", trong đó có câu

 "Chém cha cái khó, chém cha cái khó!"

nhưng tụi tôi đã sửa thành

"Chém cha con chó, chém cha con chó!"

và hai câu

“Đêm năm canh an giấc ngáy o o, Thời thái bình cửa thường bỏ ngõ”

trở thành

“Đêm năm canh an giấc ngày o o, Bừng tỉnh dậy thấy đồ bay mất hết!”

 Ngoài ra, cả lũ học trò non nớt cũng say sưa khi nghe thầy giảng truyện Kiều để cảm thương cho thân phận long đong của nàng.

 
cophamnhay-thumbnail-covcphuong-thumbnailBước lên năm lớp 10B4, không biết tại sao tụi tôi chỉ học với PhạmThị Nhã Ý có một buổi, sau đó thì được học với cô Vương Chân Phương. Có lẽ vì cô Nhã Ý thấy trong lớp tôi, tên nào cũng có vẻ nghịch ngợm quá quắt chăng ?! Năm này tôi thật sự mê thơ "Song thất lục bát" trong "Chinh phụ ngâm" vì cô Chân Phương giảng bài thật tuyệt vời với những hình tượng rất đẹp như: "Ngòi đầu cầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non" hay "Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in" và "Hồn tử sĩ gió ù ù thôỉ, Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi"... Cô cũng giải thích tâm sự não nùng của người chinh phụ qua "Đưa chàng lòng dặc dặc buồn, Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền", "Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu, Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?" hay "Dấu chàng theo lớp mây đưa, Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà"...


thay_ke2-thumbnailNăm cuối tôi học Việt văn là lớp 11B4 với thầy Trần Văn Kế. Nhờ thầy tụi tôi đã có dịp "thâm cứu" thêm về sự thâm thúy của môn học này. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ phong cách đỉnh đạc với giọng ngâm sang sảng của thầy:

"Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên,
 Có giang sơn thì sĩ đã có tên
 Từ Chu Hán vốn sĩ này là quí.."
 ("Kẻ sĩ" / Nguyễn Công Trứ)


Năm đó cũng nhờ thích bài này mà tôi "trúng tủ" khi thi Tú tài 1 vào ngày 02/08/1971. Sau khi đọc đề bài, tôi mừng hết lớn và cứ cắm cúi viết ro ro môt mạch chứ không cần suy nghĩ gì nhiều (sau này tôi đoán có lẽ các anh chị khác học cùng thời cũng may mắn như vậy!)

 
thay_chi_2-thumbnailthayvukhanhthanh-thumbnailCuối năm 1971 lớp tôi bị tan bầy xẻ nghé: có bạn vào quân trường, vài người thi làm thầy giáo, hai bạn chuyển qua học lớp 12A4 còn số còn lại và tôi lên lớp 12B1. Năm cuối bậc Trung học tụi tôi bắt đầu làm quen với những khái niệm về Triết học. Lớp tôi đã học "Đạo đức học" với thầy Trương Hữu Chí và "Luận lý học" với thầy Vũ Khánh Thành. Tôi và các bạn đã học bộ môn Công dân với thầy Thành từ năm lớp 11B4 nên cảm thấy rất thân quen. Trong khi giảng bài với phong cách hòa nhã, từ tốn, thỉnh thoảng thầy cho mấy đệ tử những lời khuyên thật dí dỏm, ý nhị. Tôi vẫn còn nhớ từ buổi học đầu tiên với thầy Chí, đám học trò "lớn" rất thích thú qua lối giảng dạy sinh động của thầy.

 

Bây giờ sau gần 40 năm, cô Vương Chân Phương và thầy Trần Văn Kế đã ra đi. Bạn Vũ Mạnh Tiến “hay hút thuốc lá trong giờ cô Bích Loan" (lời thầy Hiệu trưởng Phạm Đức Bảo) và "bị báo cáo" trong giờ học với thầy Đoàn Viết Biên cũng không còn nữa! Xin thắp một nén hương lòng. Dù qua biết bao vật đổỉ sao dời, tôi vẫn nhớ tình cảm thắm thiết của bạn bè xưa và nguyện khắc ghi trong lòng công ơn, ân tình của quý Thầy Cô suốt đời.

 tdhoang-thumbnail  Trương Đức Hoàng - Australia

 Trưởng Khối Xã Hội Học Tập- Ban ĐHHS NQ (nk72-73)

 18/09/2010

 

  

27 Tháng Bảy 2009(Xem: 75733)
Con lớn lên đi về đâu muôn nẻo Vẫn nhớ quặn lòng tiếng mẹ thương yêu.
22 Tháng Bảy 2009(Xem: 92004)
Tôi như lang thang trên những con phố Biên Hoà, những con đường dẫn tôi đến sân trường cũ, ở đó lời Thầy Cô còn vang vọng, tiếng lao xao của bạn bè còn nghe rõ như in, tà áo dài ai trắng đến tinh khôi...
20 Tháng Bảy 2009(Xem: 34565)
Trong số những "nhà thơ học trò" này, có hai anh Hồ Văn Tân và Hà Xuân Son mà sáng tác từ tâm tình của hai anh thời mới lớn đã bày tỏ được lòng biết ơn Thầy Hoàng Phùng Võ, thầy giáo Việt văn lớp Đệ Ngũ B2 (nk 1958-1959 )
19 Tháng Bảy 2009(Xem: 65378)
Ngô Quyền về gặp nhau đây Hạ vàng lên kỷ niệm đầy trường xưa
18 Tháng Bảy 2009(Xem: 65297)
Con đường phố nhỏ dòng sông Biên Hòa tỉnh lẻ mãi trong tim mình
17 Tháng Bảy 2009(Xem: 75318)
Chuyến bay VN 7640 của Hàng Không Việt Nam cất cánh đúng 6 giờ 30 sáng ngày 13 tháng 9 năm 1994, trên đường bay đến Hong Kong. Trong đám đông thân nhân đang nhốn nháo vẩy tay trên sân thượng kia có đủ mặt bốn đứa con của chúng tôi, mặc dầu, qua cửa sổ máy bay, tôi không còn nhận ra chúng nữa.
15 Tháng Bảy 2009(Xem: 69997)
Nắng rưng rưng trên cổ thành đại nội Hoài niệm về lối cũ đã rêu phong
15 Tháng Bảy 2009(Xem: 68826)
Ở một nơi xa nhớ quê nhà Cái nhớ trong lòng thật thiết tha
12 Tháng Bảy 2009(Xem: 161995)
Năm nay, tiệc mừng họp mặt Truyền Thống kỳ thứ 8 được tổ chức tại nhà hàng Seafood Kingdom: 9802 Katella Ave, Anaheim, CA trưa ngày chủ nhật 05 tháng 7, 2009.
04 Tháng Bảy 2009(Xem: 84355)
(Để tưởng nhớ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, nhân ngày giỗ th ứ 15 của anh / tháng Tám, 2008) Giờ đây, dưới những tàn cây, bóng mát trong nghĩa trang này, tôi đến thăm mộ anh, thắp nén hương lòng hoài niệm về một thời quá khứ buồn nhiều hơn vui giữa chúng tôi, dù không biết rằng những việc làm trước kia đối với anh là đúng hay sai, nhưng tôi cũng muốn nói với anh lời tạ lỗi.
02 Tháng Bảy 2009(Xem: 64377)
Trầm Mặc Hoa Huyền tên thật Trần Bửu Hòa, sanh năm 1949 quê quán Nhơn Trạch, Biên Hòa, là Cựu học sinh Trung Học Long Thành và Trung Học Ngô Quyền (Trong Giai Phẩm Xuân Ngô Quyền năm Bính Ngọ 1965 có đăng bài kịch thơ “Quán Vắng Chiều Xuân” và “Sớ Táo Quân”).
02 Tháng Bảy 2009(Xem: 68653)
Họp mặt năm nay không về được Nằm nhớ bạn bè như đã quên
02 Tháng Bảy 2009(Xem: 76054)
Với lòng biết ơn của Cựu HS Ngô Quyền với những “người lái đò” xưa đã đưa chúng em đến bến bờ thành công Kính tặng Thầy Nguyễn Phi Long, kính tưởng nhớ Thầy Phùng Thái Toàn
01 Tháng Bảy 2009(Xem: 68207)
Về ngang thành phố cũ Hương bưởi rộn ràng bay
30 Tháng Sáu 2009(Xem: 67184)
Về Cầu Mát nghe sóng tình than thở Dòng sông buồn còn in bóng đôi ta
28 Tháng Sáu 2009(Xem: 41896)
Ân sâu nghĩa nặng tình dài Khóc Thầy khóc mãi biết đời nào nguôi
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93343)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Sáu 2009(Xem: 70382)
Các bạn ơi! Hơn bốn mươi năm gặp lại Biết bao nhiêu nước chảy qua cầu.
19 Tháng Sáu 2009(Xem: 70946)
Em, áo trắng bay bên hàng sao im bóng Ơi bông sao buồn như trốt xoáy hồn anh
15 Tháng Sáu 2009(Xem: 69030)
Mùa hè bên ấy có vui không? Ngày xưa em nhớ mãi trong lòng
12 Tháng Sáu 2009(Xem: 68791)
Khi anh đến không còn chi nghi ngại, Bởi thiên đàng, địa ngục… cũng gần nhau!
12 Tháng Sáu 2009(Xem: 70007)
Làm sao dám quay về - Dù rất nhớ Căn nhà xưa dàn hoa tím hiền hòa
12 Tháng Sáu 2009(Xem: 71575)
Sóng gió đệm đàn cho biển hát Khúc hạ ca ấm áp nắng vàng
11 Tháng Sáu 2009(Xem: 73077)
Con đường ấy em qua ngày hai bận Rất bình thường như sáng nắng chiều mưa
10 Tháng Sáu 2009(Xem: 146832)
Ngày họp mặt Truyền Thống Ngô Quyền năm nay đã được dời lại vào ngày lễ Labor Day 31 tháng 8 tại nhà hàng Hong Kong Seafood Buffet,
04 Tháng Sáu 2009(Xem: 71331)
Đi về phía anh là về phía biển Có thùy dương bãi cát sóng xô bờ
04 Tháng Sáu 2009(Xem: 70268)
Buồn vui là những đóm lửa. Những đóm lửa nhen nhóm hồn tôi. Tro tàn là những bài thơ này. Làm sao khơi dậy những đóm lửa rực rỡ bằng chút tro tàn đong đầy niềm đam mê, chung thủy của một thời đã xa xôi không thể tìm lại được.
03 Tháng Sáu 2009(Xem: 69965)
Tình đầu sương khói mong manh Nhặt gom kỷ niệm để dành tặng nhau...