Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Huỳnh Công Ân - TỪ SÀI GÒN ĐẾN MONTRÉAL, NỔI TRÔI THEO VẬN NƯỚC (Chương III)

09 Tháng Tư 20191:02 SA(Xem: 14924)
GS. Huỳnh Công Ân - TỪ SÀI GÒN ĐẾN MONTRÉAL, NỔI TRÔI THEO VẬN NƯỚC (Chương III)

Chương 3 - Ba năm đại học

 

Năm 1962, 800 người có bằng Tú Tài 2 thi vào ban toán trường đại học sư phạm Sài Gòn và chỉ có 40 người được vào. Tỷ lệ đậu là 5%. Thủ khoa là Cù An Bình em của giáo sư Cù An Hưng. Ông Hưng là một giáo sư nổi tiếng ở Sài Gòn và giảng nghiệm viên cho lớp chứng chỉ MGP (Mathématiques Générales, Physique: Toán đại cương, Lý) ở trường đại học khoa học Sài Gòn. Nhưng Bình không vào học vì được học bỗng đi du học bên Pháp. Tôi đậu hạng 9, Trần Ngọc Ẩn và Thái Quang đều đậu trên hạng tôi. Trong số những người dự thi có nhiều người đã đậu Tú Tài 2 một vài năm trước và đang học đại học khoa học.

Khoa trưởng trường đại học sư phạm lúc bấy giờ là giáo sư Bùi Xuân Bào. Năm sau giáo sư Trần Văn Tấn, tiến sĩ toán từ Pháp về thay thế.



image001Giáo sư Trần Văn Tấn (ảnh của Võ Hiếu Nghĩa)


Chúng tôi được gởi sang học toán chung với các sinh viên chứng chỉ MGP. Thời đó, ở trường đại học khoa học vẫn còn sử dụng tiếng Pháp, ngoài ra ngành giáo dục đại học miền Nam lúc đó còn thiếu giáo sư nên phải nhờ nước Pháp gởi một số giáo sư người Pháp sang phụ trách dạy một số môn học. Ở chứng chỉ MGP, chúng tôi học Analyse (Giải tích) với với thầy Monavon, Algèbre moderne (Tân đại số) với thầy Proule, Géométrie analytique (Hình học giải tích) với thầy Nguyễn Chánh. Các môn khác chúng tôi học bên trường đại học sư phạm như Vật Lý với thầy Bùi Phượng Chì, Tâm lý Sư phạm với thầy Nguyễn Huy Bảo, Pháp Văn với bà Teullière, Anh văn với cha Vỵ. Thầy Monavon còn phụ trách giờ bài tập bên đại học sư phạm.

image002

Giáo sư Bùi Phượng Chì (ảnh của son-trung.blogspot)


Tất cả những người đậu vào ban toán trường đại học sư phạm đều là học sinh các trường trung học công lập nổi tiếng ở Sài Gòn như Chu Văn An và Pétrus Ký, chỉ có một người nữ là chị Vũ Kim Dung, học sinh trường Trưng Vương. Tức là toàn bộ đều xuất thân trường Việt. Không có một học sinh trường Pháp nào lọt vô. Họ thường là con nhà giàu, nhưng chỉ giỏi tiếng Pháp chứ không giỏi các môn khác nhứt là môn toán. Thường thì họ đậu vào ban Pháp Văn trường đại học sư phạm hay học SPCN (Lý Hoá Nhiên) để thi vào Nha, Y, Dược, còn phần lớn đi học đại học văn khoa. Là học sinh chương trình Việt, phải học bằng tiếng Pháp lại gặp toàn những môn học mới mẻ, ban đầu chúng tôi không hiểu gì ráo nhứt là môn tân đại số của thầy Proule. Có một anh chàng tên H. học chứng chỉ MGP. Vốn là dân trường Tây nên anh ta nghe các bài giảng của các giáo sư người Pháp chắc hẵn là dễ hơn chúng tôi nên giờ nghỉ anh ta thường lên bảng húy hoáy viết những định lý và giải thích cho chúng tôi nghe. Ban đầu, chúng tôi rất nễ anh ta nhưng sau này khi chúng tôi quen dần với những từ ngữ toán học mới bằng tiếng Pháp, chúng tôi khám phá anh chàng H. chỉ giỏi nghe được tiếng Pháp chứ không hiểu và không giải được bài toán nào cả. Nghe nói sau này anh dạy toán đệ nhất cấp ở một trường nào miệt Rạch Giá hay Phú Quốc.

Khi thi lên năm thứ hai, hơn một nửa lớp của năm thứ nhất bị ở lại, nguyên do chính là tại vấn đề phải học toán mới mà lại bằng tiếng Pháp. Những anh này đã xui xẻo lại còn xui xẻo hơn vì qua năm sau chương trình học đổi thành 4 năm. Thành ra, nếu từ đây dù mỗi năm đều lên lớp họ cũng phải mất 5 năm mới ra trường. Còn người nào bị ở lại hai năm thì bị đuổi học mà chúng tôi gọi là “tốt nghiệp ngang hông” (sortie latérale). Thường thì họ được bổ dụng làm giáo sư đệ nhất cấp. Trong số những bạn cùng vào học chung với tôi thì có người học tới 7 năm mới ra trường. Bạn bè gọi đùa đó là các “bác sĩ sư phạm” vì thời gian học sư phạm bằng với thời gian học y khoa.

Có một câu chuyện buồn cười cho các sinh viên xuất thân trung học chương trình Việt mà phải giải toán bằng tiếng Pháp. Số là, trong giờ bài tập của thầy Monavon, mỗi người trong chúng tôi đều phải lên bảng giải một bài toán giải tích thầy cho. Thường khi chúng tôi giải xong thì được thầy chỉ cho chỗ thiếu sót và phán cho một câu: “à vendredi prochain”, Có người giải một bài toán suốt sáu tháng chưa xong. Có một bạn lên bảng giải bài khi đọc “trừ căn hai” bằng tiếng Pháp, anh đọc là ”moins căn deux”, Cả lớp phá lên cười vì tiếng Tây ba rọi của bạn mình nhưng thầy Monavon vẫn tỉnh bơ. Không biết ông có nghe một tiếng Việt chen giữa hai tiếng Pháp của bạn tôi khi anh ấy nói một cách phản xạ chữ “căn” thay vì chữ “racine”.

Tôi, Ẩn và Quang đều được lên năm thứ hai. Năm đó chúng tôi học chung toán với các sinh viên của chứng chỉ CDI (Calcul différentiel et intégral: Toán vi tích phân) của trường đại học khoa học. Chúng tôi học môn Calcul với giáo sư người Pháp tên Benneton và môn Topologie (Vị tướng học) với giáo sư Đặng Đình Áng (chú của dương cầm thủ Đặng Thái Sơn), tiến sĩ toán từ Mỹ về. Một điều tréo ngoe là thầy Áng học toán bằng tiếng Anh nhưng phải dạy toán bằng tiếng Pháp. Bắt đầu năm thứ hai, chúng tôi được thầy Tước dẫn đi thực tập dạy ở các trường trung học. Tôi được thực tập dạy 1 giờ đại số lớp đệ tam tại trường Nguyễn Trãi, lúc đó còn tạm trú ở trường tiểu học Lê Văn Duyệt, đường Phan Đình Phùng. Ngẫu nhiên thay, 14 năm sau: năm 1977 tôi về dạy chính thức ở trường Nguyễn Trãi, lúc này đã dời về quận 4. Trường Nguyễn Trãi là nơi đầu tiên và cũng là nơi sau cùng tôi đứng dạy.

image003

Giáo sư Đặng Đình Áng (ảnh của NC Long)

Khi lên năm thứ ba, chúng tôi học chung toán với các sinh viên học chứng chỉ Mécanique Rationnelle (Cơ học thuần lý), giáo sư trưởng môn là thầy Từ Ngọc Tĩnh. Đây là năm cuối, tôi cố gắng học hết sức mình. Các sinh viên đi trước cho chúng tôi một tuy dô là thầy Tĩnh sẽ lấy một bài trong cuốn toán cơ học của Marcel Yvon làm đề thi. Tôi và Ẩn tìm mượn được cuốn đó, rồi dùng giấy carbon chép thành hai bản, một người chép nửa cuốn đầu, một người chép nửa cuốn sau . Như vậy mỗi người trong chúng tôi đều có một bản sao cuốn Marcel Yvon. Chúng tôi giải hết những bài toán trong sách đó. Thật vậy, đề thi thầy Tĩnh cho ra giống như trong sách của Marcel Yvon. Tôi thấy mình “trúng tủ” mừng rỡ làm ngay. Một giờ rưỡi trôi qua, tôi sắp sửa làm xong bài. Dĩnh, bạn cùng lớp của tôi, ngồi bên cạnh tôi hỏi nhỏ: Ân, mày đưa tao xem bài mày làm coi. Tôi kín đáo hé tay cho Dĩnh nhìn. Bổng Dĩnh la nhỏ: mầy lộn dấu rồi, Ân ơi. Trong đầu bài là dấu > chứ không phải dấu <. Tôi toát mồ hôi vì biết mình chủ quan không đọc kỷ đề bài. Thầy Tĩnh đã đổi dấu để khác với bài trong cuốn Marcel Yvon. Chỉ còn một giờ rưỡi nữa tôi làm sao làm kịp. Nhưng tôi không bỏ cuộc, làm bài lại từ đầu. Dĩ nhiên là tôi không làm hết bài. Tuy nhiên, tôi vẫn đủ điểm đậu ra trường nhưng không đậu cao như mình dự tính. Đúng là “học tài thi phận “. Tôi đậu hạng 15 trong khi Ẩn và Thái Quang nằm trong số những người đậu hạng cao.

Mùa Phật Đản năm 1963, một biến cố xảy ra ở Huế: trong lúc một đám đông Phật tử tụ tập trước đài phát thanh chờ nghe một chương trình đặc biệt về ngày Phật Đản thì một tiếng nổ xảy ra, nhiều người chết và bị thương. Các vị lãnh đạo Phật Giáo lên tiếng tố cáo nhà cầm quyền đàn áp Phật Giáo. Và từ đó cuộc khủng hoảng Phật Giáo kéo dài nhiều tháng kéo theo những vụ biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu mà đỉnh cao là vụ tự thiêu của hoà thượng Thích Quảng Đức trên đường Lê Văn Duyệt, trước toà đại sứ Cao Miên. Chính quyền phải sử dụng những biện pháp đối phó như giới nghiêm, thiết quân luật và tấn công vào một số chùa, đặc biệt là chùa Xá Lợi nơi các vị lãnh đạo của phong trào Phật Giáo như Thích Tâm Châu, Thích Thiện Minh, Thích Hộ Giác, Thích Tâm Giác... đang điều hành các Phật tử hành động phản kháng chính quyền. Cuối cùng, ngày 1/11/1963 một số tướng lãnh mà đứng đầu là tướng Dương Văn Minh đứng lên làm đảo chánh lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông Diệm và em là Ngô Đình Nhu bị giết chết.


image005

Ảnh hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu(?) (Photo Malcolm Browne) 

Sau ông Diệm, những chính quyền kế tiếp không kéo dài lâu vì hết đảo chánh tới chỉnh lý, miền Nam sống trong tình trạng rối loạn. Trong tập thể sinh viên cũng chia thành nhiều nhóm khác nhau: nhóm thân chính quyền và nhóm chống chính quyền. Nhiều cuộc biểu tình của sinh viên diễn ra. Tôi và đa số sinh viên đại học sư phạm lo học để ra trường đi dạy nên không tham gia vào những sinh hoạt chính trị.

Hà Phụng đổ thủ khoa được ưu tiên chọn nhiệm sở đầu tiên nên về trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho. Các bạn đậu cao chọn nhũng nơi an ninh như Vĩnh Long, Sa Đéc, Kiến Hoà (Bến Tre). Ẩn chọn Cai Lậy, Thái Quang chọn Đức Hoà. Tôi còn chỗ trường Châu Văn Tiếp, Bà Rịa, nhưng gia đình khuyên chọn về quê ngoại là Trà Vinh nên tôi chọn trung học Vĩnh Bình, để Bà Rịa lại cho Cương mũi đỏ.

Mùa hè.năm 1965, tôi được mấy tháng rảnh rang nên lao mình vào những cuộc vui của tuổi trẻ như những party nhảy đầm tổ chức ở nhà riêng hay ở các phân khoa đại học, nhất là văn khoa hay dược khoa, nơi có nhiều giai nhân.

Nhưng cuộc vui nào cũng phải tàn. Đầu tháng 9 năm 1965 tôi phải lên xe đò đi về Trà Vinh để nhận nhiệm sở.

Trà Vinh tuy là quê ngoại nhưng tôi không có ấn tượng gì về vùng đất đó. Lúc nhỏ, khi miền Nam còn yên bình, thỉnh thoảng má tôi có dẫn tôi về chơi quê ngoại. Nhưng tôi chỉ nhớ những lúc đó, má tôi gọi tôi dậy rất sớm, độ 3 hay 4 giờ khuya gì đó, khi ấy tôi nghe tiếng xe ngựa chạy lốc cốc ngoài đường Matelot Manuel, những gì sau đó tôi không nhớ. Trà Vinh cũng chỉ được tôi nhớ tới khi chiếc xe xích lô máy chở bà ngoại tôi từ dưới quê lên thăm con cháu dừng trước cửa nhà tôi. Trà Vinh chỉ gây ấn tượng nơi tôi qua các thứ bà ngoại tôi đem lên cho gía đình tôi: những con gà bị cột chùm lại nhau kêu oang oác, hay những bao gạo nặng chịch mà ông xích lô máy vác xuống hoặc là những đòn bánh tét nhân đậu xanh ăn béo ngậy. Chỉ có vậy thôi. Và như vậy lần này tôi sẽ được nhìn rõ Trà Vinh hơn bao giờ hết vì tôi sẽ ở và dạy học ở đó một thời gian bao lâu tôi cũng không biết.

 
(còn tiếp)

28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 82343)
Người Mỹ có phong tục rất hay, có ngày Thanksgiving để tạ ơn trời, để tạ ơn gia đình, tạ ơn bạn bè, tạ ơn những người chung quanh đã giúp mình. Tôi nhận lấy phong tục nầy.
27 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124704)
“Ngày xanh tóc hãy còn xanh Bóng chim qua cửa tóc đành điểm sương Ngày xanh tươi trẻ đến trường Giờ đây sao biết người thương nơi nào?!”
26 Tháng Mười Một 2010(Xem: 96629)
Có dịp nào gặp lại bạn bè cùng lớp ngày xưa....ngồi bên nhau nhắc nhở về những kỷ niệm của Ngày xưa thân ái....bên ly cà phê,ly bia....thì vui biết chừng nào ! Một thời học sinh trong sáng....nhiều mộng mơ....nhiều ước vọng....dã qua....!
22 Tháng Mười Một 2010(Xem: 86597)
...Cũng nơi đây tôi nhận thấy tình cảm yêu thương tận tâm tận lực của các thầy cô như: thầy Bảo, thầy Lê Quý Thể, thầy Lâm Tấn Văn, thầy Mai Kiến Phúc, cô Tốt dạy Pháp văn, thầy Thành... và còn nhiều nữa,
13 Tháng Mười Một 2010(Xem: 82928)
Nhưng trong buổi chiều buồn hôm nay, bên đường vắng, trong cái nghĩa trang hiu quạnh, ông đã rơi lệ chỉ vì… tiếc thương vĩnh biệt Ly Ly!
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 117164)
Huỳnh văn Huê vào đệ thất Ngô Quyền năm 1963, đệ nhất B1 năm 1970, học cùng với Ng.x.Quang, Ph.t.Thừa, Tr.h.Phúc, Tô.a.Dũng và nhiều bạn khác nữa…
28 Tháng Mười 2010(Xem: 95785)
Và hạt giống thương yêu lan nhanh, phát tán xa hơn, vượt qua mọi biên giới của chủng tộc, mọi khác biệt cùa màu da…
27 Tháng Mười 2010(Xem: 281579)
... để thấy mùa Thu năm nay khởi sắc, lãng mạn và nồng ấm hơn bao giờ hết với đất trời vàng ươm màu áo mới và lòng người như vương vấn chút heo may... Xin bấm vào tựa bài muốn đọc:
29 Tháng Chín 2010(Xem: 124275)
Cầu mong Cô đi an bình, thanh thản. CHS NQ khóa 15, 16 và 17 luôn nhớ đến Cô
25 Tháng Chín 2010(Xem: 115665)
Mến tặng Tuấn, một người bạn ở cùng dãy phố Nhất.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 120181)
Là một trong những học sinh xuất sắc của trường Ngô Quyền, Phạm văn Xuân cùng các bạn của lớp B2 như Hồ Chí Tường, Đỗ Thái Hùng đã là niềm tự hào của các cựu học sinh khóa 7.
30 Tháng Tám 2010(Xem: 100898)
Người đàn ông với đôi mắt đen, hun hút mà ngày xưa mỗi khi nhìn vào nàng cảm thấy như có một vết dao lướt qua tim...
26 Tháng Tám 2010(Xem: 98602)
Trong những giông bão của cuộc đời, nơi trú an toàn nhất vẫn là vòng tay của mẹ.
24 Tháng Tám 2010(Xem: 97540)
Hôm nay, nhân Lễ Vu Lan xin gởi đến một cảm thông chân tình với tất cả những người phải cài hoa trắng...
07 Tháng Tám 2010(Xem: 108909)
Buổi ra mắt quyển sách “Hai Mươi Năm Miền Nam 1955-1975” của Thầy Nguyễn Văn Lục đã được giới thiệu và phổ biến rộng rãi...
30 Tháng Bảy 2010(Xem: 96891)
Một nhóm bạn bè được tin vào tối thứ sáu 23 tháng 7 năm 2010 sẽ tiếp đón anh chị Huỳnh văn Tươi khóa 6 Ngô Quyền về thăm bạn bè từ Houston Texas.
30 Tháng Bảy 2010(Xem: 94380)
... lần đầu tiên đại diện gia đình Ngô Quyền được mời tham dự trong ngày họp mặt Gia Long tại nhà hàng Paracel Seafood vào đêm 18 tháng 7 năm 2010.
13 Tháng Bảy 2010(Xem: 97579)
Một tuần đã đi qua, nhưng dư âm ngày cũ, của Ngày Họp Mặt Ngô Quyền, của càri dê ở nhà Hóa vẫn còn đâu đây.
13 Tháng Bảy 2010(Xem: 96498)
Bài viết nầy của tôi như là một lời tạ lỗi gửi đến những người bạn đã quen thân từ bao năm nay cũng như những người bạn mới quen. Tạ lỗi vì tôi đã hứa với các bạn mà không thực hiện được lời hứa, tạ lỗi vì đã bỏ mất cơ hội để nói lời “chia tay”, “tạm biệt”, “good bye my friends” hay “Au revoir mon ami”.
12 Tháng Bảy 2010(Xem: 95705)
Gặp lại Võ Hải Vương, Đặng Văn Toản, Đỗ Cao Thông, Hóa và nhiều bạn cũ của lớp 1968, lòng tôi đầy những xúc cảm nghẹn ngào. Những hình ảnh của trường Ngô Quyền năm xưa bỗng đâu lại hiện về. Những kỷ niệm của ngày tháng cũ tưởng đã yên nghĩ trong một quá khứ xa xôi nào của tiềm thức.