Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Đọc “Một góc ký ức và bây giờ” của Vũ Thế Thành

01 Tháng Chín 20162:31 CH(Xem: 18580)
GS. Nguyễn Văn Lục - Đọc “Một góc ký ức và bây giờ” của Vũ Thế Thành

Đọc “Một góc ký ức và bây giờ” của Vũ Thế Thành


sgNgười Pháp có Paris, Người Anh có Luân Đôn, người Tàu có Thượng Hải, người Bắc có thể có Hà Nội! Chỉ có người Sài Gòn là không có Sài Gòn. Hoặc giả vay mượn mà muôn đời vẫn xa lạ!

Chấp bút vài dòng về cuốn “Một góc ký ức và bây giờ”, tác giả Vũ Thế Thành

Cho đến bây giờ, tuổi đã hạc, tôi vẫn chưa hiểu rõ cái ý của cái anh Chí Phèo, làng Vũ Đại, nói: ‘Ở đâu có này thì ở đó có kia’ là nghĩa lý làm sao?Phải chăng đó là một chủ trương sống huề cả làng? Nếu thật sự, anh Chí Phèo của tôi chủ trương như vậy thì tôi coi thường anh lắm!

Nhưng tôi biết chắc một điều, anh Chí Phèo là người radical, chơi tới bến, thường hướng dẫn và gợi hứng cho tôi nhiều điều; ngay cả cái nhân cách Chí Phèo, ngay cả cách chửi của anh cũng là một triết lý sống. Này nhé, cả làng Vũ Đại đã có một ai dám chửi quan chức từ trên xuống dưới? Anh chửi tuốt. Phải đấy, dám chửi điều xấu phải là một người có nhân cách lắm chứ! Hơn nhiều người. Muôn người mới có một.

Tôi theo anh không kịp. Anh chỉ khác tôi một điều. Anh sống bằng chửi còn tôi sống để cầm bút. Mà cầm bút như tôi thì quả thực: giấy bút lầm than. Tôi nói thật.

Trong thời đại này, một thời đại mà mọi giá trị đều mất giá. Viết tử tế là một điều khó lắm vì người tử tế không còn nữa.

Nguồn: NXB Hội Nhà Văn

Nguồn: NXB Hội Nhà Văn

Vậy mà tôi được đọc một nhà văn trong nước, Vũ Thế Thành, hiện ẩn cư tại Đà Lạt, viết một cuốn truyện mà như một làn gió thoảng giữa cơn bão táp thời cuộc. Ông viết nhẹ nhàng như chuyện đời thường, đọc như uống một ly chanh đường giữa cái nắng Sài Gòn; ông viết về chuyện bây giờ mà như thể viết về ở một nơi nào khác, viết như một hồi ức nhắc nhở, đọc chơi.

Nhưng, đọc anh, tôi thấy tôi trong đó: Cái tôi di cư thời Phú Thọ lều, cái tôi Đà Lạt thời sinh viên, cái tôi Sài Gòn nhớ nhớ quên quên. Nhất là cái tôi sau 1975 trong tâm trạng người Sài Gòn trong cuộc đổi đời.

Chỉ khác tôi một điều là những chuyện anh viết đều là chuyện xem ra nhỏ và không quan trọng. Nhưng chuyện nào cũng gợi ý một cách kín đáo về một cái gì khác. Nó không đến lộ liểu như câu chuyện “Chiếc bình vôi” hay “Con ngựa già của Chúa Trịnh” thuở nào.

Sự việc viết ra chỉ là cái cớ để nói về một điều không phải là cái ấy. Và phải chăng đó là chủ đích của người câm bút?

Như đã nói, đọc anh, tôi rất dễ chia xẻ vì có một mẫu số chung nào đó. Mẫu số chung ấy trong cùng một hoàn cảnh, càng cắm rễ sâu, khi phát tán càng có cơ hội gắn bó, gần gũi. Mỗi người một phương mà tấm lòng vẫn là một.

Cái tâm trạng chung là nhớ về. Không ngờ cái tâm trạng từ mỗi cá thể trở thành cái chung trong cái riêng. Nó sẽ tự phát trở thành một thứ ký ức tập thể (collective memory).

Cái nhớ của tác giả cũng là cái nhớ của tôi và của nhiều người khác đã từng một cội nguồn, đã từ đó mà lớn lên. Và chỉ cần một cái click nhẹ mọi sự sẽ như một cảnh trí quay lại của một câi đèn kéo quân.

Thật vậy, trong trí nhớ của tôi Đà Lạt là một thành phố quanh năm là mùa xuân.

Chỉ cần ngồi trên chiếc xe đò Minh Trung, qua khỏi Định Quán, đi qua Blao là như hít thở không khí Đà Lạt rồi. Một Đà Lạt còn giữ được vẻ nguyên sơ với những người Thượng từ một triền núi nào đó xuất hiện bất ngờ, trên vai gù một vài củ măng.

Vắng bóng người sơn cước, Đà Lạt mất cái căn cước của mình.

Phụ nữ miền sơn cước.  Nguồn:  pierredeloubresse.wordpress.com

Phụ nữ miền sơn cước. Nguồn: pierredeloubresse.wordpress.com

Đà Lạt cũng lộ cho thấy đó là một thành phố tiêu biểu cho phong cách thuộc địa với những biệt thự ẩn hiện dưới các triền đồi thơ mộng. Sân cù, thảm cỏ xanh mướt, đồi thông, tháp chuông trường Yersin màu gạch đỏ. Đẹp làm sao.

Nhà của dân chúng thì thường bàng gỗ sơn đủ mầu, có cửa kính, trước khi nó trở thành một thành phố của các đám cưới với tuần trăng mật.

Và dĩ nhiên, Đà Lạt của tôi cũng như của tác giả, không phải là thứ Đà Lạt với:

“nhà hàng, nhà cao tầng, các vạt đồi đã đốn cây xanh, còn trơ đất đỏ sẵn sàng cho những dự án hoành tráng, xứng tầm với thành phố du lịch, xứ sở ngàn hoa như có người nói` Người ta cắt một mảnh Sài Gòn lên, đem dán vào Đà Lạt và bảo rằng Đà Lạt đang phát triển trong quy hoạch.”

(trích bài “Kiều Lão Đà Lạt” của tác giả).

Một Đà lạt mà tác giả tự hỏi còn cái hồn ra sao?

Theo tôi, ký vãng cũ lúc nào không hay trở thành cái lẽ sống ở đời (La raison d’être)ở những người như tác giả.

Cho nên, từ một miếng ăn, dù tầm thường như nước măm tĩn Phan Thiết, trứng vịt lộn, miếng chả lụa với hương vị riêng của nó, mùi cà cuống, v.v., tất cả những thứ đó với vốn liếng chuyên môn khoa học về thực phẩm của tác giả trong sự phân tích hóa học, nó gợi nhớ người đọc đến Vũ Bằng, khi sống ở Sài Gòn cũng gợi nhớ về Hà Nội trong “Miếng ngon Hà Nội” với Cốm vòng, Rươi, Ngô rang, Khoai lùi, Gỏi, Chả cá, Thịt cầy thời trước 1975.

Nhưng tính chất khoa học của món ăn thì hẳn không tìm thấy trong “Miếng ngon Hà Nội” của Vũ Bằng được.

Những phần viết về món ăn này chiếm một tỉ lệ ưu thế trong số bài viết của tác giả mà khéo sắp xếp và trình bầy, nó có cơ may trở thành như một thứ chủ thuyết phồn thực.

Nhưng trong tất cả các bài viết ấy, dù là một cảnh trí bên Pháp hay Đức như: Một chút Sài Gòn trong lòng Hamburg, Trăm nghìn nỗi khổ, Cà cuống, Con gián và đàn bà, Hồi đó tụi mày ở đâu, Ai hột vịt lộn.. hôn, Sài Gòn, Cà phê và nhạc sến, Món ăn dĩ vãng, Chuyện của một thời, Phút cuối trong tầm tay, tất cả đều kín đáo gửi đi một thông điệp.

Trong bài “Một chút Sài Gòn trong lòng Hamburg”, tác giả viết:

“Nửa đêm về sáng khi viết những dòng chữ này từ Hamburg, tôi chợt thấy nhớ và thương Sài Gòn lận đận, nơi tôi sinh ra, lớn lên và sống gần hết đời mình. Người ta cứ tiến, còn mình đứng yên, người bán buôn những hứa hẹn hoa mỹ, nhưng rất nhiều người vẫn nuôi hy vọng đổi đời qua những tấm vé số.”

Tìm trong đổ nát trên phố Berg, Hamburg tháng 7 năm 1943, Nguồn: www.johndenugent.com

Tìm trong đổ nát trên phố Berg, Altona, Hamburg tháng 7 năm 1943, Nguồn: www.johndenugent.com

Tâm trạng ấy là có thật và chỉ khi xa nhà mới thấy thấm thía.

Phải đi xa, ở xa có khi nửa vòng trái đất mới xót thương, tội nghiệp cho Sài Gòn. Sài Gòn đau đáu trong giấc ngủ muộn mỗi khi nghĩ về.

Bản thân tôi, đã từng nhiều đêm thao thức, đôi khi phẫn nộ mỗi khi đọc những tin tức xấu về đất nước mình. Có một thứ giao cảm rất gần gũi ở một không gian xa cách mịt mù mới cảm nhận được. Thật đến lạ. Người Sài Gòn mí nhau có thể chèn lách, vượt, đạp lên nhau để có thể lấn lên trước bất kể sinh mạng người khác. Rồi cảnh tượng xấu nhất có thể xảy ra là thây người nằm chết, máu me lênh láng đầy đường trước con mắt bàng quang của nhiều người.

Cái đó chỉ có thể xẩy ra ở Việt Nam.

Phần người ở xa không sao hiểu được! Đã có không biết bao nhiêu điều như thế của Sài Gòn, nay không hiểu được.

Sự chia xẻ của tôi với tác giả có thể còn trở nên căn thiết hơn khi tôi đọc bài Chuyện của một thời! Những kinh nghiệm của tác giả với 6 tháng đạp xích lô ghi lại những khoảnh khắc sống cũng như những nghịch cảnh khi Sài Gòn không còn có tên là Sài Gòn nữa là những kinh nghiệm đắt giá, của một người trong cuộc.

Tôi xin phép tác giả và độc giả ghi lại vài cảm nghĩ của tôi về một Sai Gòn thân thương, một Sài Gòn:

Thóc thơm
Gạo trắng
Gió hiền
Miền Nam phì nhiêu nắng ấm.

(Trích bài thơ của Dương Như Nguyện.)

Một Sài Gòn chỉ tóm gọn trong có một câu:

Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi!

Sài Gòn, 1969. NGuồn: OntheNet

Sài Gòn, 1969. Nguồn: OntheNet

Phải thú thực với lòng mình-thú thực với tác giả và những ai đọc những dòng này là khi về, đặt chân đến Sài Gòn, tôi có một cảm giác xa lạ và có cảm tưởng cuộc sống ở nơi đây như thể có gì đổi khác.

Mọi sự như không còn như trước nữa, một cuộc sống như thể ở một nơi nào khác.

Nó không phải là một Sài Gòn của tôi như thuở nào. Mà mục đích về là đi tìm cái Sài Gòn của tôi.

Vẫn đường phố ấy, vẫn con đường Duy Tân nhưng nay nhà cửa xây dựng san sát như chen chúc nhau để nhô lên. Nhộn nhịp hơn, nhưng cũng xô bồ hơn.

Đi dọc đường Lê Văn Duỵệt cũ, nơi tôi đã lớn lên, tôi kịp nhận ra, dọc hai bên đường, những sợi giây điện đủ loại, từng bó, từng chùm, chúng xoắn vào nhau hằng trăm sợi, quấn chằng chịt lấy nhau, len lỏi vào tầng hai của balcon mỗi nhà, chui vào ngõ hẻm, làm chĩu nặng nghiêng đổ các cột điện gỗ dưới sự trì kéo của chúng.

Tôi có một cảm giác sợ hãi không cắt nghĩa được. Chúng là những sợi gì? Tên chúng là gì? Chúng là ai?

Có thể là những sợi gian đối, lừa phỉnh! Sợi vu oan! Sợi tô hồng! Sợi gian tham! Sợi bóc lột! Sợi giam hãm tù tội. Sợi trói buộc trói tay! Sợi làm mất nhân phẩm con người!

Còn đâu là những sợi tơ trời, giăng mắc ràng buộc nhau trong thân phân phận lứa đôi?

Sài Gòn bây giờ còn là những tiếng động miên tục, ngày đêm, chu kỳ tần số âm thanh đập vào màng nhĩ trong lúc sống, lúc ăn nhậu, lúc tranh cãi, lúc làm hùng hục, lúc yêu đương phiền muộn cũng như trong lúc ngủ.

Tôi chỉ thực sự thấy Sài Gòn im ắng có một lần, một lần duy nhất mà thôi, trong cả năm. Đó là khoảng 5,6 giờ chiều ngày 30 tết.

Nhưng độ 10 giờ tối, nó lại trở về cơn mê điên cuồng của tiếng động. Trong cơn mê của tiếng động,con người không còn có dịp để nghe tiếng của con người cũng như tiếng động của thiên nhiên.

Đó là một cuộc sống vong thân của con người trong tiếng động. Tiếng động đã trấn áp tất cả!!

Đến gà không thể gáy, chó không còn sủa. Nào có ai nghe được tiếng chó tru ban đêm gọi đực. Tiếng u hờ bên sông.

Nói chi đến tiếng cựa mình của đài nụ nở hoa. Tiếng mưa rơi âm thầm hoặc lộp bộp trên tàu lá chuối.

Hết rồi tiếng chim líu lo trên cành! Tôi chưa từng hiếm hoi nghe được tiếng chim hót buổi sáng.

Giã từ tiếng gà gáy o o buổi sáng hay sau khi đạp mái.

Không bao giờ nữa còn nghe tiếng chuông nhà thờ buổi sáng cũng như tiếng lục lạc của trâu về chuồng.

Một đất nước của những kẻ thâm niên làm lịch sử mà tên tuổi giăng mắc đầy đường phố lại mâu thuẫn thay vắng bóng con người.

Người Pháp có Paris, Người Anh có Luân Đôn, người Tàu có Thượng Hải, người Bắc có thể có Hà Nội! Chỉ có người Sài Gòn là không có Sài Gòn. Hoặc giả vay mượn mà muôn đời vẫn xa lạ!

Cám ơn tác giả đã cho tôi mượn đất viết đôi dòng ở trên để ghi lại một chút về Sài Gòn, của tác giả, cũng là của tôi, cũng là của những người miền Nam, của những kẻ đã ra đi và của những kẻ còn ở lại.

Trước khi kết thúc bài viết, tôi chỉ thấy có một điều khác biệt giữa tôi và tác giả. Đó là sự khác biệt về tâm trạng.

Là mỗi khi kết thúc một bài viết, tác giả thường bày tỏ một tâm trạng buồn. Một cái buồn như thể một triết lý sống trong nỗi bất lực, buông xuôi. Buồn là một thái độ và không bao giờ là một giải pháp, một cựa mình.

Nỗi buồn của tác giả làm tôi nghĩ đến cuốn sách mỏng, xuất bản năm 2013 của Amai B’Lan: Nước mắt của Rừng. Nỗi buồn và nước mắt có giải quyết được gì không?

Tôi ở xa. Tôi luôn luôn phẫn nộ. Chúa trước khi về cõi, chỉ nhắc các đệ tử: Các con phải tỉnh thức và cầu nguyện. Đó là cách nói của Chúa, cách nói của bậc thánh nhân.

Phần tôi, tôi có cách nói của tôi! Đất nước của chúng ta vốn trước đây muốn vượt qua sông, qua ngòi, phương tiện duy nhất của chúng ta là đi qua các cây cầu khỉ (monkey bridge)!

Đừng vội quên quá khứ của mình, đừng vội quên cha ông mình. Đừng vội quên cội nguồn. Vì thế, trước những sai trái làm tác hại đến đất nước, con người. Tôi bày tỏ sự phẫn nộ. Biết nói không, biết chối từ, biết lên tiếng khi cần lên tiếng. Cách nói ấy động não và bắt phải cựa mình. Đối với tôi, trên tất cả mọi thứ, vẫn là con người.

Phần tác giả, xin bạn đọc hoan hỉ cầm lấy và đọc tác giả, như tôi đã đọc.


Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline
08 Tháng Mười 2013(Xem: 42778)
Tôi được biết nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng khi anh là giáo sư dạy môn triết tại trường Pétrus Ký. Lúc ấy, anh Hoàng tuổi ngoài hai mươi, còn trẻ lắm.
03 Tháng Mười 2013(Xem: 60292)
Nhớ anh, tôi thèm đọc một cuốn sách. Tôi tìm chữ, tìm tôi cũ trong những ngày tháng miệt mài viết bài gửi cho anh. Những ngày thân thiết vô cùng. Những ngày của chữ, của Văn …
03 Tháng Mười 2013(Xem: 46196)
Có làm cha làm mẹ, tôi càng biết quý trọng, mang ơn và thông cảm những nỗi khó khăn của những người đã ra công dạy dỗ mình và giờ đây là con cái mình từ truyền trao kiến thức cho tới uốn nắn tính tình.
02 Tháng Mười 2013(Xem: 62592)
Biết được tin tức thầy, em mừng rỡ lắm. Gặp được thầy lại càng vinh hạnh hơn. Bàn chân "trần" của thầy chắc có lẽ cũng dừng chân nơi bến đỗ "trung học Ngô Quyền" để cùng đồng liêu theo dõi nhịp thở của học trò.
28 Tháng Chín 2013(Xem: 49710)
Thì ra tôi đã già rồi. Già thật rồi nên cứ loay hoay nhìn về quá khứ. Hãy cho tôi một nụ cười. Nụ cười hồn nhiên của trẻ thơ
21 Tháng Chín 2013(Xem: 59518)
Tựa Đề: HÌNH NHƯ NẮNG VỪA PHAI Nhạc&Lời: Phạm Chinh Đông Hòa Âm: Tuấn Ngọc Ca Sĩ: Hương Giang
21 Tháng Chín 2013(Xem: 63044)
ChsNQ khóa 1 đến thăm thầy Nguyễn Xuân Hoàng và Thầy Phan Thông Hảo
20 Tháng Chín 2013(Xem: 53739)
Phùng Quán vịn vào câu thơ mà đứng vững. Mình dựa vào tình thương của mọi người, nghiến răng, đứng lên mĩm cười với số phận. Cám ơn tình bạn, cám ơn thương yêu và thông cảm.
14 Tháng Chín 2013(Xem: 57930)
Phải chăng nhà văn không có tuổi. Nhà văn chỉ có già đi và chết. Nhà văn không đếm cái khoảng thời gian sống. Thời gian của một nhà văn là ý nghĩa những dòng chữ họ viết ra.
14 Tháng Chín 2013(Xem: 55023)
(Viết hôm các bạn của nhật Báo Người-Viêt và Diễn Đàn Thế Kỷ đi thăm Nguyễn Xuân Hoàng) Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào.
13 Tháng Chín 2013(Xem: 47036)
Mùa Thu sắp về đây. Thu về với lá vàng, với gió heo may và cây trái bắt đầu chín. Mùa Thu cũng là mùa thu hoạch. Mùa Thu đẹp lắm, rừng Thu bát ngát lá vàng rơi
06 Tháng Chín 2013(Xem: 78420)
Cái sung sướng lúc tốt nghiệp không phải là được đi dạy, làm giáo sư cho bằng thoát khỏi sách vở mà chúng như những kinh kệ vô nghĩa nhàm chán..
05 Tháng Chín 2013(Xem: 60338)
Việc bán thơ của Suskin xem ra phù hợp với văn hóa sống nhanh, sống vội, muốn gì được nấy, nhanh như người ta bấm máy truyền hình hoặc vào mạng internet.
05 Tháng Chín 2013(Xem: 45140)
Có cơ hội thì bạn bè gặp nhau vì quỹ thời gian chúng ta chẳng còn nhiều. Xin cám ơn những người bạn trên net của tôi, đã cho tôi niềm vui trong cuộc sống.
04 Tháng Chín 2013(Xem: 69058)
Đã thành thông lệ, sau lần họp mặt với bạn bè phương xa, bạn bè quê nhà sẽ cùng nhau đóng góp tổ chức tiệc chiêu đãi chia tay để người đi nhớ mãi ân tình nơi cố hương.
31 Tháng Tám 2013(Xem: 73482)
Ông trở thành một “ông già quét chợ” một cách tự nhiên như vậy đó, tự nhiên như khi ông từ đâu không biết đã đến cái chợ làng này…
30 Tháng Tám 2013(Xem: 52810)
Lúc bà mất, cậu Út ôm bà khóc như mưa, nghe cậu nhắn nhủ: "bà ngoại, ông ngoại, ba con ơi! nhớ về thăm cây mít nha!" cả nhà không ai cầm được nước mắt.
30 Tháng Tám 2013(Xem: 83551)
Xin bấm vào tựa các bài muốn đọc
23 Tháng Tám 2013(Xem: 77636)
Phần tôi, kể từ khi bắt đầu va chạm cuộc sống, tôi khám phá ra rằng con người ta không thể nào sống mà thiếu người khác được.
21 Tháng Tám 2013(Xem: 89743)
Công của những người đưa đò thầm lặng khoan dung, đã đào tạo bao lớp chúng tôi thành danh, thành nhân. Thời gian với bao biến đổi, nhìn lại cuộc đời chúng tôi luôn dặn lòng ”Nhớ Ơn Thầy, Nhớ Ơn Cô” để có một cuộc đời đáng sống.