Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7a - phần 1)

09 Tháng Sáu 201612:55 CH(Xem: 18253)
GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7a - phần 1)

Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7a - phần 1)


mmTrước đây, thời Việt Nam Cộng hoà, giáo sư Trương Bửu Lâm đã bày tỏ một mơ ước: Có một nền sử học Quốc Gia. Ông nhận thấy môn sử học ở Việt Nam trong các trường trung học bị coi nhẹ. 

Jean-Baptiste Chaigneau và chiếu phong quan của Hoàng đế Gia Long , 1802. Nguồn:  Văn khố Chaigneau

Quan đại thần Jean-Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng và chiếu phong quan của Hoàng đế Gia Long , 1802. Nguồn: Văn khố Chaigneau

Thầy giáo không chuyên nghiệp và sử học là môn học để dạy trám chỗ. Ước mơ của ông Trương Bửu Lâm chưa bao giờ thành hiện thực thì xảy ra cảnh mất miền Nam.

Sử học kể từ đó trở thành công cụ tuyên truyền. Nói chung thì sử học Việt Nam hiếm có cơ hội là tiếng nói độc lập. Ngay cả khi độc lập rồi thi cũng là tiếng nói của vua chúa, của kẻ cầm quyền.

Tuy nhiên phải nhìn nhận những nỗ lực cá nhân vẫn có. Những tiếng nói thốt lên từ đáy vực cũng như tiến rên vang bày tỏ khát vọng sự thật vẫn không thiếu.

Những bậc đàn anh đáng kính vẫn là những gương soi cho thê hệ sau như trường hợp sử gia Trần Trọng Kim.

Sau này ở hải ngoại vẫn cần được đánh giá lại đúng mức trong trường hợp nhưng người cầm bút viết sử như Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Phương và Nguyễn Khắc Ngữ. Trong số ấy Nguyễn Khắc Ngữ là thiệt thòi hơn cả vì sách tài liệu của ông it được phổ biến lại thêm yểu mệnh!

Trong thời gian gần đây, nhiều tác giả khác cũng đã lên tiếng! Cùng với sự xuất hiện của ông Nguyễn Quốc Trị là bà Thụy Khuê. Cạnh đó còn có bộ sách nhiều tập của Lê Mạnh Hùng cũng cùng một tham vọng: Nhìn lại Sử Việt.

Như vậy sử Việt là có vấn đề? Đương nhiên rồi. Chẳng những cần nhìn lại mà viết lại nữa!

Hai tập tài liệu của ông Nguyễn Quốc Trị và Lê Mạnh Hùng, tôi chưa có điều kiện đọc hết nên không thể có ý kiến.

Thụy Khuê sau nhiều năm cũng nhận thấy có một nhu cầu viết lại sử nên bà đã viết một tài liệu biên khảo nhan đề Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long, viết năm 2015 và được Diễn Đàn Thế Kỷ cho đăng.

Tập tài liệu khá dầy, giới hạn khoảng thời gian từ năm 1777-1802, gồm chừng 4-5 trăm trang đánh máy và chia ra làm nhiều chương.

Mỗi chương đề cập đến một tác giả, hầu hết là người ngoại quốc, đặc biệt là các thừa sai người Pháp. Hoặc là các sử gia, nhà ngoại giao.

Như Alexis Faure, tác giả cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine, Évêque d’Adran, Paris 1891.

Hay cuốn A voyage to Cochinchina của John Barrow, nhà ngoại giao, Luân Đôn, 1806.

Cuốn khác của Montyon, Exposé Statistique du Tonkin de la Cochinchine, du Cambodge, du Tsiampa, du Laos, par M. M-N sur la Relation de M. de la Bissachère. Mission dans le Tunkin 1811, Luân Đôn

Tiếp theo là cuốn sách của Bissachère, La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère do Charles B. Maybon viết lời giới thiệu, Paris 1920.

Cuốn khác của Maybon, cuốn Histoire moderne du pays d’Annam, 1920.

Nguồn:  Plon-Nourrit et Cie (Paris) 1920

Nguồn: Plon-Nourrit et Cie (Paris) 1920

Và cuối cùng là chương, Học giả Cadière và tập san Đô Thành Hiếu Cổ.

Phần còn lại là mỗi chương, mỗi phê phán một nhân vật người Pháp đã cộng tác với Bá Đa Lộc như Le Brun và Puymanel, De Forcanz và Le Brun, rồi Olivier De Puymanel và Laurent Barisy, Jean Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng.

Cũng cần nói thêm là trong phần mở đầu trước khi vào sách, bà Thụy Khuê đã dành ít trang để giải thich về Nhu cầu viết lại lịch sử thời Pháp thuộc.

Theo bà, sở dĩ có nhu cầu cầu ấy vì các sử gia như Louis Eugène Louvet (1838-1900) với cuốn La Cochinchine Religieuse, Paris, 1885 cũng như cuốn L’Empire d’Annam của Charles Gosselin, Paris, 1904 là những tác giả người thực dân Pháp nên thường có quan điểm bênh vực cho chính sách của thực dân Pháp và thường cực lực lên án các vua quan triều Nguyễn.

Ngoài ra bà còn liệt kê các sử gia Việt Nam kể từ Trương Vĩnh Ký đến Trần Trọng Kim rồi Phan Khoang, Nguyễn Thế Anh, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Khắc Ngữ. Bà cho rằng những vị này đều sử dụng tài liệu của Pháp nên bà xếp họ vào loại “sử gia thuộc địa”.

Đặc biệt, chương 2, bà Thụy Khuê dành để giới thiệu Bộ sử Nguyễn Văn Tường của ông Nguyễn Quốc Trị mà bà trân trọng viết,

Sách của Nguyễn Quốc Trị. Nguồn: NQT

Sách của Nguyễn Quốc Trị. Nguồn: NQT

Bộ sử Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị là một công trình nghiên cứu thận trọng và chi tiết, mở đầu cho một khuynh hướng tìm lại và đọc lại lịch sử Việt Nam.”(1)

Cảm tưởng của tôi là bộ sử của Nguyễn Quốc Trị như một chỉ dẫn hay một cảm hứng cho bà Thuỵ Khuê khi viết tài liệu này.

Sau đây, chúng ta thử xem tham vọng viết lại lịch sử của bà có đạt được không?

Vấn đề sử quan và cảm tưởng của một người đọc

Sử quan của người viết sử thường là cớ sự cho sự bất đồng. Tránh được sự bất đồng này là điều khó khăn nhất trong việc nghiên cứu sử học. Nguyên tắc này tỏ ra thích hợp trong trường hợp bà Thụy Khuê

Nhưng người ta lại không thể viết sử mà lại không có quan điểm? Viết không thể không có chủ đích? Viết không thể không có một lối nhìn. Viết là một dự phóng, cho nên viết luôn luôn bao hàm cái dụng ý của người viết. Muốn viết gì và viết cái gì. Tại sao viết và tại sao không viết.

Tôi viết bài này với tư cách một người đọc, nhờ đó tránh được nhiều yêu sách của việc phê bình.

Cảm thức đầu tiên khi đọc tập tài liệu này là khả năng thuyết phục của tác giả Thuỵ Khuê là yếu. Viết như tác giả khó mà thuyết phục ngay cả đối với loại độc giả dễ tính.

Tác giả để lộ ra nhiều sơ xuất, kẽ hở có thể tránh được và không tránh được. Tác giả có lẽ cần xem lại mình trong việc trích dẫn và các dùng tài liệu. Tác giả để lộ ra thái độ khá chủ quan, thiên lệch, một chiều.

Người ta không tìm thấy tính cách tương đối, trung dung, tính cách nhiều mặt của một sự kiện lịch sử để đạt tới một kết luận khách quan hơn.

Chính vì thế, tác giả không kiềm chế được mình, dằn vặt với các nhân vật lịch sử như thể họ còn đang sống, như thể trút hận oán lên họ. Đồng thời, đối với người sống, sử học trở thành cớ sự cho những lời nguyền rủa ác ý. Cảm tưởng của một người đọc là tác giả dùng sử học để trút hận, để dằn vặt người khác.

Người chết và nhất là người sống trở thành nạn nhân về những điều họ không làm, hoặc không biết đến. Nếu nói theo truyền thống văn hóa chửi của người miền Bắc thì đây là cơ hội ‘đào mả’ người khác lên!

Trút hận lên những nhân chứng lịch sử thì ích gì và ta được gì? Một cách nào đó gián tiếp, tác giả hành người đọc. Nhiều lúc chán nản không muốn tiếp tục đọc để tự làm khổ mình, thú thực, nhiều lúc tôi đã muốn “buông”.

Buông được là tự giải phóng mình ra khỏi sự phiền hà, sự khó chịu, sự bực mình không cần thiết. Chắc rằng nhiều bạn đọc khác khi đọc tác giả cũng bắt gặp những cảm giác khó chịu tương tự. Hy vọng như vậy.

Tham vọng viết lại sử của tác giả vì thế không thể thực hiện nổi với lối viết như thế. Nó sẽ trở thành những tiếng kêu trên sa mạc!

Sau đây là  một số nhận xét về nội dung cuốn sách.

Phần Một: Sự phê phán các nhà sử học Việt Nam

Hầu như phần lớn các sử gia đều trở thành đối tượng phê phán của tác giả mà bà gọi chung là “Sử quan thuộc địa”. Sự phê phán ấy bao gồm hầu như bất cứ sử gia Việt Nam nào có tiếng tăm!

Chỉ bốn chữ này thôi tự nó đã là bản án, đã gây tranh cãi ồn ào rồi. Nhưng thế nào thì được gọi là sử quan thuộc địa?

Theo bà Thuỵ Khuê, gọi là sử quan thuộc địa tất cả “những sử đã chép lại những thông tin bịa đặt của giáo sĩ La Bissachère mà không đặt vấn đề”. (Thuỵ Khuê, Chương Trước khi vào sách).

Bà viết tiếp,

“Để hoàn tất những nhiệm vụ này, một số giáo sĩ đôi khi, không phải bẻ cong ngòi bút, mà chỉ viết một nửa sự thật: ví dụ mô tả việc xử tử giáo sĩ một cách cực kỳ dã man, nhưng không nói đến nguyên nhân tại sao họ bị xử tử; không nói đến luật hình ở Việt Nam; dấu kỹ những hoạt động chính trị giúp phe nổi loạn chống lại triều đình với tham vọng một nhà nước thiên đạo hoặc nhà nước Thiên Chúa giáo (Lê Văn Khôi, Lê Duy Lương, Tạ Văn Phụng.) Thậm chí giáo sĩ Louvet còn “dịch” một đoạn dụ rất tàn ác bảo là của vua Tự Đức, trong có câu ‘Những thầy tu người Việt, dù có chịu bước qua thánh giá hay không cũng bị chém làm đôi (…) Những kẻ tàng trữ người Âu trong nhà cũng bị chém ngang thân vứt xuống sông’ không hề tìm thấy ở đâu. Những giáo sĩ này, dường như cố tình đưa bộ mặt ‘dã man’ diệt đạo của vua quan nhà Nguyễn, để giáo hoàng can thiệp, để chính quyền Pháp có ‘chính nghĩa’ đưa quân vào đánh. Nhiệm vụ của họ là vinh thăng sứ mệnh truyền giáo.”

Người viếtế có cảm tưởng có sự gán ghép sử quan thuộc địa vào công việc truyền giáo, công việc giết hại giáo dân.

Đây là một đoạn văn đầy cảm tính, hận oán chưa từng gặp ở bất cứ nhà sử học nào trước đây.

Chính vì thế, những người viết sử từ Trương Vĩnh Ký với cuốn Cours d’histoire annamite, 1875. cũng được xếp loại sử quan thuộc địa. Đọc lại cuốn sử của Trương Vĩnh Ký người ta thấy ngay từ lời nói đầu cho thấy ông là một học giả dù uyên tham nhưng vẫn tỏ ra đầy lòng khiêm cung và từ tốn hết mực. Nhan đề cuốn sách của ông nói là để dùng cho học sinh Nam Kỳ và hy vọng các lớp trẻ nối tiếp công trình của ông một cách đầy đủ hơn. Tuy nhiên, có một chi tiết là Trương Vĩnh Ký không ngần ngại kết án vua Minh Mạng trong vụ án giết vợ và hai con của Hoàng Tử Cảnh. Về điều này, Sử của Trần Trọng Kim đã tránh không đề cập tới.

Tuy nhiên, những lời kết án của bà Thụy Khuê là vu vơ mà không chỉ rõ Trương Vĩnh Ký là sử quan thuộc địa ở chỗ nào? Bà không đưa ra bất cứ một nhận xét nào đến độ tôi nghi ngờ rằng bà chưa hề có dịp đọc cuốn sách này.

Bà chỉ viết:

“Henri Cordier cho biết cuốn sử đầu tiên mà độc giả Pháp được biết đến về nước Nam là “Cours d’histoire annamite” (Giáo trình lịch sử An Nam) của Trương Vĩnh Ký in năm 1875.”(2)

Người được trích dẫn và nói tới nhiều nhất là Tạ Chí Đại Trường. Tuy thế, từ khi Thuỵ Khuê cho đăng tải tác phẩm “Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long” cho đến cuối đời, sử gia Tạ Chí Đại Trường không hề nhắc đến nó.

Người duy nhất còn lại hiện nay là giáo sư sử học Nguyễn Thế Anh hoặc học trò thân cận của ông, giáo sư Trần Anh Tuấn.

Tôi chú trọng nhiều đến cái chủ đích tại sao bà Thụy Khuê lại viết như thế. Một lối viết sử sô vanh và chậm tiến: vừa Sô vanh dân tộc và nhất là sô vanh tôn giáo.

(còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

16 Tháng Bảy 2012(Xem: 158069)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
14 Tháng Bảy 2012(Xem: 136285)
Thời gian làm phôi pha nhiều thứ, lãng quên nhiều điều nhưng mãi mãi trong ký ức nhớ của em vẫn ngập tràn hình bóng cô giáo ngày xưa lớp một.
13 Tháng Bảy 2012(Xem: 181735)
Một lần nữa xin cám ơn Buổi Họp Mặt Truyền Thống Ái Hữu Ngô Quyền Biên Hòa đã cho tôi cơ hội hiếm có trong đời, được gặp lại Thầy Cô, Bạn Bè...Thật như một giấc mơ...
13 Tháng Bảy 2012(Xem: 142650)
....em sẽ tiếp nhận được ánh sáng từ bi rực rỡ từ Nguồn Sáng Vô Lượng của Đức Phật A Di Đà để thăng hoa và an trú thiên thu nơi miền đất Tịnh Lành.
12 Tháng Bảy 2012(Xem: 159486)
Gần 200 chs NQ (trong số 230 khách mời) đã về miền Bắc CA dự họp mặt truyền thống lần 11 ở San Jose, California.
30 Tháng Sáu 2012(Xem: 219230)
Liệu lịch sử có sang trang, câu trả lời sẽ có sau đêm Kiev huyền diệu vào chủ nhật tới...
28 Tháng Sáu 2012(Xem: 160027)
Đến các bạn 1A2 năm xưa (1968): Đỗ Cao Thông (Pháp) , Nguyễn Thị Sang (Thụy Sĩ) , Nguyễn Thị Kim Hoàng (Đức) , Trần Thị Kim Ngân (Canada) , Trương Thị Liên (Úc) , Nguyễn Kim Phố (Đức)
21 Tháng Sáu 2012(Xem: 165047)
Bà cầm "Cẩm Nang Kontum" ngần ngừ một chốc rồi đưa vào lò, nhưng kịp rút lại. Bà do dự... hồi lâu rồi cất vào hồ sơ cá nhân của mình để mang qua Mỹ. Vẫn còn vương tơ! Hành trang của mẹ tôi đó, nhẹ như tơ trời nhưng cũng nặng ngàn cân.
21 Tháng Sáu 2012(Xem: 232595)
Gia Phả Hướng Đạo Sinh Biên Hòa - mà cụ thể là cựu HĐS của hai đơn vị “anh em ruột thịt ” Trấn Biên và Bửu Long - đã có hơn hai trăm anh chị em “Tung cánh chim tìm về tổ ấm…” rồi.
20 Tháng Sáu 2012(Xem: 156063)
(Xin gởi đến những Người Cha Tinh Thần đã khuất cũng như còn hiện hữu trên cõi tạm này tấm lòng yêu thương và nhớ ơn của chúng con)
14 Tháng Sáu 2012(Xem: 143671)
Ba ơi! Mùa lễ Father’s Day lại về. Nhìn hình ba trên bàn thờ. Con lại nhớ những giọt nước mắt ngày xưa. Làm cha mẹ không ai không một lần rơi nước mắt vì con cái.
08 Tháng Sáu 2012(Xem: 171184)
Ngày Lễ Cha không những là ngày để vinh danh cha của bạn mà còn vinh danh tất cả những người mang chức cha,
08 Tháng Sáu 2012(Xem: 131591)
Đó là sự hi sinh vô bờ bến của cha mẹ dành cho tôi. Tôi cũng là niềm hy vọng của gia đình, các chị đã nghỉ học sớm, giúp đỡ cha mẹ để các em được ăn học.
26 Tháng Năm 2012(Xem: 151445)
Riêng tôi, đá banh đã là phần hồn, đã ăn sâu trong lòng và đã cho tôi vô khối kỷ niệm, vô khối buồn vui lẫn lộn và có lẽ tôi sẽ đá bóng mãi cho đến cuối cuộc đời, cho đến khi “mỏi gối, chồn chân”!
25 Tháng Năm 2012(Xem: 135131)
Tôi mơ đến một ngày không xa lắm chắc chắn sẽ có một buổi họp mặt đông đủ các bạn Tứ 1,2,3. Các bạn ủng hộ ý kiến nầy của tôi nhé!
21 Tháng Năm 2012(Xem: 168878)
Video này được thực hiện dưới dạng Playlist, gồm 10 bài hát: Anh cần em Anh trao em Khúc xuân cho em Một ngày bình yên...
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160521)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
18 Tháng Năm 2012(Xem: 135296)
khi viết về mẹ, ngòi bút tôi như con sông cứ trôi hoài, trôi mãi, không nhớ đường về. Tôi đang muốn nói về -Niềm vui của một bà mẹ.
18 Tháng Năm 2012(Xem: 133707)
Hãy hạnh phúc với những gì mình đã có. Hãy hướng mắt về phía trước vẫn VƯỜN YÊU THƯƠNG ngày ấy và chân trời mới đang mở rộng đó em.