Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - 1.000 năm chống Tầu, 100 đô hộ Tây: Thực chất và huyền thoại (4a)

08 Tháng Tư 201611:57 SA(Xem: 18003)
GS. Nguyễn Văn Lục - 1.000 năm chống Tầu, 100 đô hộ Tây: Thực chất và huyền thoại (4a)

1.000 năm chống Tầu, 100 đô hộ Tây: Thực chất và huyền thoại (4a)


Pagode De MOT COT couleurNếu so với cuộc sống ngoài Bắc bữa no bữa đói, lo từng bữa thì đây phải nói là thiên đàng. Những điều gì khác với điều tôi viết thường là do cộng sản lúc bấy giờ tuyên truyền. Không có sốt rét, ngã nước cái con mẹ gì hết!

 

Trước 1975, có một bài hát của Trịnh Công Sơn (TCS), Gia tài của mẹ, do Khánh Ly hát thấm đẫm tình tự dân tộc, nói lên tâm trạng tủi nhục của người dân trong một nước nhược tiểu.

Bài hát với nội dung như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giặcTầu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngăy
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ một nước Việt buồn…”

Tuy nhiên, bên cạnh tiếng nói thốt lên từ bom đạn của một người nghệ sĩ, còn có tiếng nói của lịch sử, và lịch sử có tiếng nói riêng của nó, và đó là trọng tâm của bài viết này.

Bởi vậy, cũng cần nhắc lại ở đây, về phía người cộng sản, sau 1975, họ cũng nhắc lại quá khứ lịch sử Việt Nam, cũng 1000 năm chống Tầu, cũng 100 năm chống Tây.

Dĩ nhiên, tiếng hát của TCS và quan điểm trình bày của người cộng sản không cùng tần số: một bên tình tự dân tộc, một bên là tham vọng chính trị.

Vậy thì đâu là sự thật lịch sử? Sự thật lịch sử có thể không nằm ở cả hai phía! Một bên coi là nô lệ, bên kia coi là chiến đấu!

Người ta còn nhớ Tổng Bí thư đảng CSVN Đỗ Mười, một trong những nhân vật Việt Nam quan trọng hàng đầu của cộng sản, ngay cả khi ông ta đã về hưu, đã có dịp ghé Singapore vào tháng 10-1993. Ông đã than thở với ông Lý Quang Diệu như sau:

Đỗ Mười. Nguồn: OntheNet

Đỗ Mười. Nguồn: OntheNet

“He spoke with sorrow about Vietnam’s unhappy past – 1.000 years spent fighting China, another 100 years fighting French colonialism and imperialism, then fighting for independence after world war II. They have had to fight the Japanese, the French, the Americans, and later the Pol Pot clique. He did not mention China’s attack in 1979. For 140 years, the Vietnamese had successfully waged wars to liberate their country. Their war wounds were deep, their industries weak, their technology backward, their infrastructure deplorable.”(1)

“Ông ta [Đỗ Mười] buồn rầu phàn nàn với tôi về số phận không may của Việt Nam trong quá khứ. 1.000 năm phải lo chống Tầu, còn lại 100 năm nữa lo chống thực dân và đế quốc Pháp, rồi tranh đấu dành độc lập sau thế chiến thứ hai. Họ phải lo chống Nhật, chống Pháp, chống Mỹ và sau này chống tập đoàn Pol Pot. Ông ta đã không đả động gì đến cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979. Trong suốt 140 năm, người Việt Nam đã thành công tiến hành một cuộc chiến tranh giải phóng xứ sở của họ. Vết thương chiến tranh còn lâu mới lành được, kỹ nghệ của họ còn yếu kém, kỹ thuật còn lạc hậu, cơ cấu hạ tầng thật đáng tội.”

Đây là một luận điệu quá quen thuộc của người cộng sản.

Một mặt đổ vấy cho chiến tranh mọi hậu quả tai hại của nó, một mặt tránh né mọi trách nhiệm mà họ là kẻ chủ chốt gây ra. Mặt khác, họ lại tự hào đến lố bịch về khả năng chiến thắng mọi thế lực thù địch trên thế giới, ngay cả Trung Hoa nếu Trung Quốc xâm phạm đến chủ quyền của Việt Nam.

Ông Lý Quang Diệu, trong lần gặp gỡ lần đầu tiên với thủ tướng Phạm văn Đồng đã đưa ra một vài nhận xét vắn gọn, cho thấy sự kiêu căng đến vô lý cũng như lý luận cứng nhắc cù nhầy của người cộng sản như sau:

Phạm Văn Đồng đến Singapore gặp Lý Quang Diệu. Nguồn: kinhnghiemsingapore.wordpress.com

Phạm Văn Đồng đến Singapore gặp Lý Quang Diệu (1978). Nguồn: kinhnghiemsingapore.wordpress.com

“He came on 16 October 1978. I found him arrogant and objectionable. […] Now, Pham Van Dong, an old man of 72, showed that he was tough as nails. (…) Singapore had benefited from the Vietnam war, selling the Americans war material, hence it ours duty to help them. I was dumbfounded by their arrogant and belligerent attitude.”(2)

Ông ấy đến thăm Tân Gia Ba vào ngày 16-10-1978. Tôi nhận thấy ở ông một thái độ trịch thượng đến chướng mắt. […] Phạm Văn Đồng lúc ấy là một ông già đã 72 tuổi mà vẫn còn tỏ ra cứng như đinh. (…) Ông cho rằng Tân Gia Ba đã được thừa hưởng những lợi nhuận từ chiến tranh Việt Nam, như bán các vật liệu chiến tranh cho Mỹ, nay thì đến lượt Tân Gia Ba có bổn phận phải giúp đỡ họ. Tôi thật điếng người đi trước thái độ trịch thượng và hiếu thắng của họ.

Bài này viết nhằm nhìn lại, bạch hóa những ngộ nhận nhằm xóa trắng lịch sử, che đậy những ý đồ đen tối về lịch sử dân tộc Việt.

Về 1000 năm nô lệ giặc Tầu

Nước ta và nước Tầu trong 2000 lịch sử, ta ở phương Nam, Tầu ở phương Bắc. Thật sự cái biên giới nó không phân định đơn giản và cố định như thế. Không có cái kiểu phân định rõ rệt: Nam Quốc sơn hà Nam đế cư. Nói như thế, ta nói lấy được mà thôi!

Ngược lại, lịch sử cho thấy các vùng địa lý hai bên Bắc-Nam thay đổi từng thời kỳ, thay đổi liên tục.

Nếu may ra có được một cái gọi là biên giới thì đó là một thứ biên giới không phân định (amorphous boundary) giữa Nam Bắc.

Nhưng nói chung hai bên đã có những liên hệ sống còn-vital region- liên ngành không tránh được về mặt địa lý, về xã hội, về văn hóa và nhất là về chủng tộc.

Người Tầu có cách phân định dòng giống Tầu -Hán tộc – Sinitic chính gốc và vùng biên địa – thuộc dòng man di, mọi rợ (non-Sinitic).

Nước ta thuộc vùng biên địa được kể là giống dân còn man di, mọi rợ!

Hãy khoan bàn đến đúng sai về nhận định của người Tầu!

Mới đây, tôi được đọc một tài liệu nhan đề Imperial China and Its Southern Neighbours(3) Cuốn sách có sự cộng tác của nhiều nhà sử học trên thế giới. Nhờ cuốn sách này đã giúp người đọc như tôi có những điểm nhìn trung thực hơn về sử học và về mối quan hệ Việt-Trung.

Và cũng hy vọng những người viết sử Việt Nam có cái nhìn khiêm tốn và khách quan hơn về sử Việt – tránh lối viết khống, khoác lác, không tài liệu dẫn chứng – viết cái gì ta cũng nhất, ta “đứng vững ngàn năm” như kiểu tác giả Ngô Nhân Dụng.

Trong lời đề tựa của cuốn sách, người chủ biên tập sách – ông Victor H. Mair, giáo sư đại học Pennsylvania đưa ra một vài nhận xét chủ chốt giúp người đọc hiểu được mối liên hệ Bắc-Nam như sau:

Thứ nhất, có một sự lấn lướt tiệm tiến của phía Bắc dần xuóng phía Nam vì có sự tranh chấp nội bộ mà có xu hướng chuyển dịch xuông phía Nam tìm một sự ổn định hơn. Dựa trên tài liệu của Harold J. Wiens trong cuốn: China’s March toward the Tropics – xuất bản 1954 và một tài liệu khác: C.P. Fitzgerald với cuốn The Southern Expansion of the Chinese People (1972).

Tác giả Victor H. Mair giải thích lý do tại sao có sự bành trướng của người Tầu xuống phía Nam. Đó là lý do vì có sự thay đổi quyền lực từ sự sụp đổ của nhà Tây Tấn (265-316, Western Jin, 西晉) sang nhà Đông Tấn (317-420, Eastern Jin, 東晉). Sự khủng hoảng quyền lực ở trung nguyên, đưa đến việc điều chỉnh địa-chính trị khiến một một thiểu số dân phương Bắc cũng nhân dịp đó xuôi Nam trong mưu cầu bành trướng và đồng hóa..

Thứ hai, nhìn lại nhu cầu bành trướng xuống phia Nam về mọi mặt, từ địa lý chính trị đến văn chương, nghệ thuật, thương mại đến văn hóa vật thể (material culture) cho thấy nó không nhất thiết tác động một chiều – từ Bắc xuống Nam – mà có tác động nhiều mặt khác nhau – từ Nam tác động đến Nam – xuyên qua các vùng Đông Á và Đông Nam Á và xa hơn nữa.

Tác giả dưa ra hai bằng chứng là đạo Lão và thuật uống trà tưởng rằng đó là sản phẩm từ phía Bắc – nhưng thật sự là sản phẩm của người phương Nam – thường bị người Tầu coi là dân mọi rợ – nhập vào phía Bắc.

Công việc của các nhà nghiên cứu sử là đi tìm hiểu tại sao người phương Nam đã nhìn nhận văn hóa phương Bắc và đồng hóa nó, đòng thời nhìn nhận có một dòng chảy của văn hóa phương Nam đã sát nhập vào dòng chảy chính từ phía Bắc.

Nói tóm lại, sự bành trướng xuống phía Nam của nước Tầu là điều hiển nhiên được nhiều tác giả xác nhận.

Charles Patrick Fitzgerald trong cuốn The Southern Expansion of the Chinese People trong lời mở đầu viết, “Chinese influence, Chinese Culture and Chinese power have alwways moved southwward since the first age of which we have reliable historical evidence.”(4)4

“Ảnh hưởng của Trung Hoa, Văn hóa của Trung Hoa và quyền lực của Trung Hoa luôn luôn đi về phía Nam ngay từ thời kỳ đầu của niên đại khi mà chúng ta có được các bằng cớ lịch sử hiển nhiên đáng tin cậy.”

Ở một chỗ khác, ông viết:

“Vietnam is the country most open to Chinese expansion and occupation by land. The frontier, although passing along a mountains chain, afford more than one accessible pass, and the sea coast is but an extension the sea coast of the southern Chinese province of Kuangtung. The red river delta, the heart of northern Vietnam, is also the best and largest fertile plain south of the Yangtze estuary. Every circumstance seem to dictate that this adjacent country would become, and remain, a part of the Chinese world, and an integral part of the Chinese state.”(5)

“Việt Nam là nước mở rộng nhất cho sự bành trướng và xâm chiếm của Trung Quốc trên đất liền. Biên giới mặc dầu phải vượt qua dọc theo những rặng núi vẫn có nhiều đường đèo có thể qua được, và đường biển chỉ là đường nối dài của bờ biển phía Nam nước Tầu của tỉnh Quảng Đông. Đồng bằng sông Hồng – trái tim của miền Bắc Việt Nam – cũng là đồng bằng phì nhiêu và lớn nhất ở phía nam Trường Giang (sông Dương Tử). Cứ mỗi trường hợp được nêu ra thì hình như lại chỉ ra rằng cái xứ sở sát nách với nước Tầu sẽ trở thành một phần và sẽ mãi của Thế giới Trung Hoa, và một một thành tố không thể cách ly ra khỏi nước Tầu..).

Tuy nhiên, khi tìm đọc lại sử Việt, chúng ta gặp một khó khăn khó có thể vượt qua là tính tổng quát hóa sự kiện mà thiếu bằng chứng sử liệu. Hầu như người ta khó có thể tìm ra bất cứ sự thật nào trong các tài liệu sử Việt.

Việc truy tìm ra sự thật không phải dễ dàng gì.

Theo sử gia K.W. Taylor viết trong cuốn A History of the Vietnamese, ông cũng nhìn nhận như vậy:

“The Vietnamese past is full of personalities and events both obscure and famous, and often the obscure have had greater effect upon the direction of culture, society, and politics than have the famous. I have tried to move beyond the propaganda of memory and memorializing to display a thicker layer of information that has accumulated about people and events. My purpose in doing so is to evoke a sense of the past as alive in its old time.”

“Quá khứ của người Việt Nam thì đầy những nhân vật và những sự kiện rất lu mờ và nổi danh, và thường thì những sự kiện còn chưa rõ ràng thì lại có ảnh hưởng lớn đến lãnh vực văn hóa, xã hội và chính trị hơn là thứ nổi danh. Tôi đã phải cố gắng vượt lên trên các loại tuyên truyền ấy và trình bày bằng những dữ kiện có bề dày khả tín đã được thu tập về người và các dữ kiện. Mục đích của tôi khi làm như vậy là để khơi dậy một ý thức về quá khứ một cách sống động như thể nó đã là như thế ở trong quá khứ.”

Sau đây là những bằng chứng về việc chống lại sự xâm lược của Tầu trong suốt nhiều thế kỷ. Nó vừa chứng tỏ sức đề kháng kiên trì, sụ vận dụng được quần chúng tin tưởng và noi theo. Nhưng nó cũng cho thấy ngay sau đó lại có sự tranh chấp, các cuộc nổi dậy tranh dành quyền lực xảy ra liên tục giữa các triều đại.

Thật vậy, ba triều đại nhà Ngô (939-965), rồi nhà Đinh (968-980) rồi nhà Tiền Lê (980-009) được coi là độc lập sau cả ngàn năm Bắc thuộc mà cộng lại chỉ được hơn 70 năm.

Trong 70 năm ấy xảy ra nhiều loạn lạc nhiễu nhương mà theo tôi vì nước ta chưa thành hình một nhà nước có kỷ cương – một état đúng nghĩa có luật pháp, có uy quyền.

Ngô Quyền chức danh chỉ là một Tiết Độ Sứ do nhà Đường bên Tầu ban cho. Ông không bằng lòng rồi tụ xưng vương. Xưng vương rồi chưa kịp chỉnh trang, triển khai luật lệ của triều đại mới thì lại bị Đinh Tiên Hoàng xưng Đế vương.

12 năm sau, quyền bính lại rơi vào tay nhà Tiền Lê!

Tiếng là đã độc lập, đã tự chủ. Nước Tầu hầu như không can thiệp gì vào những biến động chính trị của Việt Nam. Nhưng liệu trong thời gian 70 năm với sự thay đổi ba triều đại, liệu người dân có được yên ổn làm ăn không?

Một điều nhận xét nữa là không chỉ nước ta mới có loạn, mà nước Tầu cũng vậy. Hết nạn Tam Quốc thì lại đến Ngũ Đại Thập Quốc (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu và Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Mân, Bắc Hán, Tiền Thục, Hậu Thục, Kinh Nam, Sở, Nam Hán) nên cho dù họ có muốn can thiệp vào nước ta cũng không được. Điều nay cắt nghĩa tại sao ta được yên?

Tiền đề thứ nhất: Nước ta được yên vì bên Tầu có loạn

Bả đồ Trung Hoa và láng giềng thời Hậu Đường. NguồnBy 玖巧仔 – Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra, CC BY-SA 3.0, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=18168309

Bản đồ Trung Hoa và láng giềng thời Hậu Đường. NguồnBy 玖巧仔 – Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra, CC BY-SA 3.0, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=18168309

Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ là

Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ là  Khúc Thừa Dụ của Giao Chỉ

Sự kiện vắn vỏi của ba triều đại trên đã giúp chúng ta nhìn lại Sử Việt một cách khác hơn. Căn cứ vào cuốn sách của giáo sư Nguyễn Phương – giáo sư sử của đại học Huế – cuốn Việt Nam thời khai sinh giúp triển khai chi tiết hơn.

Nói chung, hướng đi của lịch sử Việt Nam giống như nhiều nước khác: Một mặt chống ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi trước mọi cuộc xâm nhập. Mặt kia tìm cách bành trướng mở rộng biên cuong xuống phía Nam.

Tuy nhiên, Việt Nam xem ra bận tâm hơn với việc chống xâm lăng hơn là bành trướng xuống phía Nam.

Cuộc xâm lăng của đời nhà Tống sang Việt Nam là năm 981

Kể từ khi nhà Ngô dấy nghiệp, thời gian cũng đã trên nửa thế kỷ.

Đây là lần đầu nhà Tống sang quấy nhiễu nước ta vào năm 981. Họ mang theo hai đại quân, đường bộ vào Lạng Sơn, đường thủy vào Bạch Đằng. Và cả hai đạo quân đã bị quân ta đánh tan.

Lần thứ Hai, dưới thời nhà Nguyên. Năm 1285-1288

Khoảng cách giữa cuộc xâm lăng giữa đời nhà Tống sang đời Nhà Nguyên là gần ba thế kỷ – một khoảng thời gian khá dài so với đời người. Sở dĩ có một thời gian dài như vậy vì vua nhà Tống có biệt lệ không muốn kéo quân sang Việt Nam. Họ chỉ phủ dụ và khuyên răn vua quan Việt Nam mà thôi.

Tiếp đến nhà Lý lên ngôi – do Lý Công Uẩn cướp ngôi của vua ngọa triều. Triều Lý sau đó kéo dài được 9 đời từ 1010 đên 1224. Đây cũng đánh dấu thời đại thịnh trị của vua quan nhà Lý với sự phát triển mạnh của đạo Phật.

Tiền Đề thứ hai: Cái lý do chính yếu để cho người Tầu kéo quân sang chinh phạt Việt Nam, bởi vì phía Việt Nam có nội loạn, xâu xé lẫn nhau, tranh quyền đoạt vị. Trừ trường hợp nhà Nguyên ra, tất cả các lần họ kéo quân sang đều do hoàn cảnh chính trị Việt Nam đã mở đường cho nạn Bắc phạt.

Cái tấm gương thượng bất chính gây nên sự chia rẽ, hận thù giữa dòng tộc hay ngoài dòng tộc là cái cớ sự cho người Tầu dòm ngó vào Việt Nam. Đó là trường hộp Lê Hoàn thoán đoạt ngôi vị của nhà Đinh, thời Lê Quý Ly tiêu diệt nhà Trần, thời Tây Sơn hoành hành mỗi lần ra Bắc.

Nếu ta không cử người qua cầu viện, năn nỉ thì không có vấn đề quân Tầu sang nước ta.

Cái điều ấy xảy ra nhiều lần cho một tiểu quốc và trở thành như số phận nhược tiểu rồi sau đó lại than vãn oán trách. Cộng sản Việt Nam huênh hoang 1000 năm chống Tầu mà họ quên rằng chính Hồ Chí Minh đã một mình lặn lội sang Moscou, rồi sang Tầu để năn nỉ họ giúp chống Pháp. Chống Pháp hay chống Mỹ sau này cũng là nhờ Tầu. Bài học lịch sử rõ ràng và rành rành ra đấy thế mà họ quên được sao?

Và lịch sử đã chứng minh là trong những tinh huống hỗn độn như thế thì người Tầu bất kể là nhà Tống hay nhà Minh hay nhà Thanh hay Mao Trạch Đông đều lợi dụng tình thế cất quân sang đánh.

Gánh nặng lịch sử trước sự đe dọa của Tầu Cộng bây giờ là bọn lãnh đạo cộng sản Việt Nam chứ không phải nhân dân Việt Nam.

Hồ Quý Ly đã lừa đảo Trần Nghệ Tông, đã giết Trần Thuận Tông, đã cướp ngôi Trần Thiếu Đế. Tất cả những việc làm vô đạo – lừa đảo ấy đều ứng vào Hồ Chí Minh cả.

Lịch sử đất nước ta có hai họ Hồ thì đều là loại xây đắp quyền lực bằng sự lừa đảo chứ không phải thực tài.

Làm sao có thể có một Lê Lợi thứ hai trong hoàn cảnh đất nước sôi sục này? Dân chúng đã mất niềm tin vào lãnh đạo. Trong khi đó, Tầu cộng chỉ cần không mở vòi nước đập thượng nguồn đủ biến đồng bằng sông Cửu Long khô cạn.

Và nay, nếu ta ngồi làm một con tính cộng sẽ cho thấy thời gian dành để chống Tầu và thời gian để chống nhau, thời gian chống nhau gần như chiếm phần lớn.

Thật không mấy khó khăn để làm con tinh cộng xem Trịnh-Nguyễn phân tranh là bao nhiêu năm? Tây Sơn-Nguyễn Ánh đối đầu với nhau là bao nhiêu năm, giữa bọn cộng sản với người Quốc Gia là bao nhiêu năm?

Cho nên cái chuyện 1.000 năm hay 100 năm vẫn là chuyện nhỏ.

Chuyện chính không phải giữa Địch với Ta mà là Ta với Ta. Giữa Người Việt với người Việt.

Về lịch sử 100 năm chống thực dân Pháp

Để có một khái niệm tương đối chính xác về sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam, thử làm một bảng tổng kết 100 năm triều đình nhà Nguyễn và 100 năm người Pháp sang cai trị nước ta như thế nào?

Khi viết những dòng này, tôi có được đọc cuốn sách của cụ Nguyễn Xuân Thọ, Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp tại Việt Nam, xuất bản năm 2002, Paris và mới đây nhất của tác giả Nguyễn Quốc Trị nhằm biện hộ cho Nguyễn Văn Tường, cuốn sách nhan đề, Nguyễn Văn Tường (1824-1886) – Cuộc chiến chống đô hộ Pháp của nhà Nguyễn. Tôi chỉ mới có cơ hội đọc bản giới thiệu của Thụy Khê.

Xem ra các tác giả vẫn muốn biện hộ cho một tinh thần yêu nước của giới quan lại trong triều đình, đồng thời gián tiếp nói tới một cái gì chưa tiện nói ra.

Như một cớ sự, họ nói xa gần đến một âm mưu muốn đồng hóa các giáo sĩ với các thế lực của thực dân nhờ thế hóa giải được trách nhiệm cũng như sự bất lực và yếu kêm của vua quan triều Nguyễn. Đồng thời muốn phủ nhận những đóng góp của Bá Đa Lộc đối với Nguyễn Ánh.

Tại sao phải làm như vậy thì tôi không được rõ.

Nhưng triều đình nhà Nguyễn, thay vì trực diện với người Pháp thì lại đi tìm một giải pháp dễ dãi là giết hại giáo dân và giáo sĩ.

Tôi có thể nói thẳng là giáo dân lúc bấy giờ phần đông đều là dân vạn chài, dốt nát, nghèo mạt rệp.

Họ không đủ tư cách để bán nước.

Theo tác giả Nguyễn Duy Chính thì “Quan điểm này còn nhiều điểm cân đánh giá lại.”(6)

Một quan điểm dựa trên một hai vị giáo sĩ mượn tay người Pháp để có cơ hội truyền bá đạo mà những người đi trước như Cao Huy Thuần cũng đã từng nêu ra trong cuốn luận án của ông.

Đã có hằng trăm giáo sĩ đủ quốc tịch đã đến Việt Nam giảng đạo từ thế kỷ 15 trước khi người Pháp có mặt. Nào chỉ có thừa sai người Pháp? Và chế độ thuộc địa đã có mặt trên cả trăm nước trên thé giới! Vậy thì ở những nước ấy, thực dân chẳng lẽ cũng mượn tay các thừa sai để có cớ chính đáng đi chinh phục các nước đó chăng? Xin nghĩ xa thêm một chút!

Bài viết của tôi không có mục đích tranh luận về sử học, về chính sách của người Pháp tại Việt Nam. Mà chỉ nhằm đưa ra một sô sự kiện mà tự nó nói lên giúp người đọc tự mình chọn lựa một thái độ thích hợp.

Đối với tôi, thế là đủ.

Nguồn: Université du Quebec

Nguồn: Université du Quebec

Chúng ta đều biết rằng Gia Long lên ngôi năm 1802 đã có một số liên lạc tốt đẹp với người Pháp – nhất là với giáo sĩ Bá Đa Lộc. Sau đó mối liên hệ càng ngày càng trở nên xấu đi. Nhưng ít nhất, cho đến năm 1862 (hòa ước Nhâm Tuất) và Hòa ước Giáp Tuất (1874) người Pháp mới thật sự có mặt.

Triều đình nhà Nguyễn – trong hơn nửa thế kỷ – từ 1802-1862 đã xây dựng được gì cho xứ Bắc Kỳ, Nam Kỳ và cả Trung Kỳ?

Đó là điều chúng ta phải cố mà tìm hiểu.

Người Pháp chỉ thực sự chủ động từ 1862.

Và từ thời gian này cho đến khoảng 1905 nghĩa là 43 năm.

Họ đã đem lại một bộ mặt hoàn toàn mới cho ít nhất xứ Bắc Kỳ và Nam Kỳ.

Tôi đã có dịp đọc cuốn La colonisation agricole au Viet Nam của Steve Déry (7). Trong đó tác giả trình bày bao quát về việc phá rừng, xử dụng nhân công người thiểu số sát nhập vào dân bản địa, hoặc đưa một số di dân từ Bắc vào Nam làm đân cạo mủ cao su.

Khu đồn điền cao-su của Pháp. Nguồn: http://www.quanloi.org/

Khu đồn điền cao-su của Pháp phía bắc Saigon (màu xanh, 1931). Nguồn: http://www.quanloi.org/

Đây là một chương trình kinh tế đồng thời để xóa đói, giảm nghèo.

Nếu ai đã có dịp sống ở nông thôn miền Bắc mới hiểu được sự nghèo đói nó như thế nào. Cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc. Người nông đân đôi khi chỉ có cái khố. Làm lụng vất vả, thay trâu cầy bừa. Chết không có đất chôn. Khổ sở trăm chiều!

Xin đừng có tự ái dân tộc. Xin nhìn vào hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ.

Dưới mắt tôi thì đây chỉ là một chinh sách kinh tế, giải quyết nạn nghèo đói. Chỉ có vậy.

Vua quan nhà Nguyễn có kế hoạch, có một chủ trương xóa đói giảm nghèo như thế không? Đầu óc vua quan nhà Nguyễn còn tối tăm, ngu đần – một chữ cũng Tầu – làm sao có những kế hoạch kinh tế như vậy?

Tôi đã có kinh nghiệm sống ở đồn điền cao su. Tôi nói có bằng chứng. Cảnh đánh đập công nhân trước đó có thể có, sau này tôi không thấy nữa. Thỉnh thoảng có các đoàn hát cải lương lưu động ở Saigon lên, ai có tiền thì đi coi hát. Nhà thờ cũng có. Thỉnh thoảng cũng có cha cố về. Cuộc sống về mọi mặt không phải lo. Cộng sản chẳng thể nào xâm nhập dụ đỗ được ai cả.

Mỗi công nhân cạo mủ được cấp một căn nhà gạch gồm hai gian, để ngủ, để ăn và tiếp khách. Đằng sau có bếp, có cầu tiêu. Bếp đun dầu hôi sạch sẽ gọn ghẽ. Gạo và các nhu yếu phẩm như nước mắm, cá khô, v.v. được sở đòn điền cung cấp với giá rẻ. Trẻ con có trường học, y tế miễn phí, lương phát mỗi kỳ dư ăn. Thịt cá, rau hoa quả có chợ, ai có tiền thì mua không thiếu. Chiều chiều, dân cạo mủ, các thày cô chú đi dạo trên những con đường quanh làng. Trẻ con, người lớn có sân đá banh và thường tổ chức thi đấu với các đội bạn. Có nghĩa địa dành cho người chết.

Nếu so với cuộc sống ngoài Bắc bữa no bữa đói, lo từng bữa thì đây phải nói là thiên đàng. Những điều gì khác với điều tôi viết thường là do cộng sản lúc bấy giờ tuyên truyền. Không có sốt rét, ngã nước cái con mẹ gì hết!

Khu chung cư của thợ mủ cao su (người từ miền Bắc) ở Đồ điền Quản Lợi. (1931). Nguồn:  http://www.quanloi.org/

Làng của thợ mủ cao su (người miền Bắc) ở đồn điền Quản Lợi. (1931). Nguồn: http://www.quanloi.org/

Nhà của công nhân đồn điền Lộ Ninh. Nguồn: http://belleindochine.free.fr/

Nhà của công nhân đồn điền Lộc Ninh (Circa 1930s). Nguồn: http://belleindochine.free.fr/

(Còn phần 4b)

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


 Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline hiệu đính và minh họa.

(1) Lee Kuan Yew, “From Third World to First”, trang 316
(2) Lee Kuan Yew, Ibid., trang 310-311
(3) Victor H. Mair và Liam C. Kelley, Ed., “Imperial China and Its Southern Neibourghs”, với sự cộng tác của nhiều sử gia khác, do Institute of Southeast Asian Studies, Singapore xuất bản 2015
(4) C.P. Fitzgerald, “The Southern Expansion of the Chinese People”, trang mở đầu.
(5) C.P. Fitzgerald, Ibid., trang 19.
(6) Nguyễn Duy Chinh, “Sự đóng góp của giám mục Pigneau de Beshaine vào công cuộc cải cách ở Gia Định”, trang 2
(7) Steve Déry, “La colonistion agricole au Việt Nam”, NXB Presses de l’Université du Québec, 2004.


Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

24 Tháng Tư 2009(Xem: 69720)
 Khi bạn nhận được tờ lịch này, rồi treo đâu đó trong nhà, thỉnh thoảng nhìn thấy nó thì hãy nhớ rằng bạn bè ở khắp nơi xa cũng đang nhớ về bạn, đang gửi về bạn lời chúc luôn an lành & hạnh phúc…  
14 Tháng Tư 2009(Xem: 88314)
Cám ơn trận mưa đêm nay, đã đưa tôi trở về thăm lại những nhánh sông đời đã từ lâu rẽ nguồn, khuất lối. Mưa ở quê người chắc không sao bằng mưa ở quê nhà, nhưng dù là kẻ lạ, cũng xin được tri ân những giọt mưa đã làm tươi mát, rực rỡ thêm phần đất mà biết bao người Việt tha hương đã chọn làm nơi trú ẩn và làm một cõi để đi về.
03 Tháng Ba 2009(Xem: 72470)
“ Cầm tờ đặc san Ngô Quyền trong tay, lòng em như chùng lại, hình như em đã khóc, những giọt nước mắt cho hạnh phúc. Cám ơn anh với món quà quí giá hơn tiền hơn bạc này”.
03 Tháng Ba 2009(Xem: 66115)
  Nhưng dù gì đi nữa, khi các bạn đọc được những dòng nầy, tức là quyển Kỷ Yếu một lần nữa lại đã vượt lách qua bao khó khăn để được nằm êm ái trong tay các bạn rồi đó.
02 Tháng Ba 2009(Xem: 64234)
  “ Đọc Trang Báo Cũ”, chủ đề của mục này, hôm nay xin giới thiệu trích đoạn “Phác Họa Vương Quốc 12A1” - một bài viết được tìm thấy trên “Thềm Cuối”, đặc san của lớp 12A1 vào mùa hè năm 1973 - để chúng ta cùng cười vui với những trang báo của thời đi học.
02 Tháng Ba 2009(Xem: 65686)
  Tôi cũng cám ơn cuộc đời đã cho tôi một người bạn rất tâm giao, chúng tôi đã cùng trải qua thời thơ ấu vui vẻ hồn nhiên và cùng chia sẻ ngọt bùi với nhau trong những lúc thăng trầm của cuộc đời. Cuối cùng đã cho tôi tìm lại được người bạn thân thương tưởng chừng như không bao giờ có thể gặp lại.
02 Tháng Ba 2009(Xem: 62583)
  Ngày nay bạn cũ thầy xưa vẫn còn đó, có nhiều người đã thành công nơi mảnh đất tạm dung, không ít người vẫn còn lận đận cố gắng để hòa nhập cuộc sống mới, và có người đang còn khốn khổ nơi chốn quê nhà.
02 Tháng Ba 2009(Xem: 65182)
Mặc dù đang quá bận rộn đưa tờ Đặc San NQ 2003 lên mạng lưới CHSNQ, tôi cũng cố gắng nhớ lại một vài kỷ niệm về mái trường xưa thân yêu, về những người bạn học cũ “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” của mình và về những cô thầy quý mến.  
02 Tháng Ba 2009(Xem: 65617)
  Tôi cứ mơ ước là có ngày tôi cũng được khoác lên người chiếc áo dài trắng dịu dàng thướt tha đó ôm cặp đến trường. Thật là mơ mộng làm sao!
02 Tháng Ba 2009(Xem: 63705)
Bé Tèo năm nay 6 tuổi học lớp năm trường tiểu học. Học được một tuần thì bé Tèo chán học không chịu làm bài vở nữa, cô giáo bèn hỏi nguyên nhân tại sao thì bé Tèo nói là tại chương trình học quá thấp so với trình độ của bé Tèo, và bé Tèo xin cô cho lên học bậc trung học .
25 Tháng Hai 2009(Xem: 63930)
CHS Nguyễn Trần Diệu Hương là một cây bút sáng tác rất dồi dào, từng được trao tặng giải thưởng “Viết Về Nước Mỹ” do nhật báo Việt Báo tổ chức. Tuy rời Việt Nam rất trẻ và theo học đại học tại Hoa Kỳ, tâm tình của Diệu Hương lúc nào cũng dạt dào niềm mến yêu quê hương đất nước trong đó có ngôi trường cũ thân yêu của một thuở đầu đời.
25 Tháng Hai 2009(Xem: 68516)
  Ôi! Những ngày đầu áo trắng nữ sinh, tuổi mới lớn, sao mà êm đềm và dễ thương quá. Dù ngày nay tuổi đã hơn nửa thế kỷ, thế mà mỗi lần có dịp nhắc lại hoặc do một động cơ nào làm cho nhớ lại thì tâm trí ta vẫn thấy man mác làm sao!
24 Tháng Hai 2009(Xem: 68110)
  … Tôi tưởng chừng sẽ không tìm thấy những kỷ niệm của trường khi sống ở Mỹ, nhưng sau hai lần gặp lại bạn bè, thân hữu và các học sinh cũ, tôi thấy ấm áp quá với những gì cựu học sinh Ngô Quyền đã mang đến cho nhau …
24 Tháng Hai 2009(Xem: 67006)
  Tiệc Tất Niên hằng năm của nhóm thân hữu trung học Ngô Quyền, Bắc California, đã được tổ chức một cách trọng thể vào chiều thứ bảy 10 tháng 1, 2004 tại nhà hàng Royal Garden, Santa Clara.
20 Tháng Hai 2009(Xem: 63190)
Trần Kim Vy là bút hiệu cuả 1 chsNQ, và hiện là chủ nhiệm tuần báo "Đẹp Magazine" tại Texas, một tờ báo tầm cỡ đã xuất bản tới số 650.
17 Tháng Hai 2009(Xem: 70224)
  Thật sự kỷ niệm ngày đi học, chất đầy trong đầu óc, nhưng muốn viết lại thật là khó, vì mình đâu phải là nhà văn hay nhà thơ. Đành liều, tạm gởi đến các bạn, một hoài niệm có thật mà Tuyết còn nhớ mãi vào năm học đệ ngũ hai.
12 Tháng Hai 2009(Xem: 70069)
Tháng Năm, tôi cứ ngỡ mình lầm, thời gian vốn ơ hờ, thế mà chu đáo. Vòng quay địa cầu đã trở về khởi điểm, để bắt đầu lại một định kỳ, để nhắc nhở lại một quá khứ, mặc dù người đi chưa hẳn đã lãng quên.
12 Tháng Hai 2009(Xem: 71997)
Rất nhiều năm sau này, tôi bắt đầu hiểu được những hạt giống tốt thầy đã ra công gieo vào tâm hồn mới lớn của chúng tôi. Hạt giống năm đó, chưa đúng điều kiện, chưa thể nẩy mầm. Đến khi chúng tôi lớn lên, khôn ra, đúng thời điểm, hạt giống tốt ngày xưa nẩy mầm, đơm hoa, kết trái.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 57268)
  Bạn có còn nhớ những “ngày nào tan trường về chung lối” và có còn nhớ những cặp “mắt huyền xưa” chỉ cần nghiêng nón là đã đủ làm cho bạn “ngất ngây đời”? Có còn nhớ những tà áo trắng tung bay trong những chiều lộng gió?
09 Tháng Hai 2009(Xem: 78375)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.