Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1a - phần 2)

11 Tháng Ba 20161:41 CH(Xem: 14259)
GS. Nguyễn Văn Lục - Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1a - phần 2)

Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1a)


Góc nhìn của người Việt nói chung về người Tầu

Nói chung, theo tôi, người Việt Nam thường nhìn người Tầu một cách không mấy có thiện cảm, nếu không nói là ác cảm và diễu cợt. Như gọi người Tầu là Chệc, Ba Tầu – chữ mà ngày nay ít ai còn dùng nữa.

Thật ra nhiều chữ theo từ nguyên của nó chưa hẳn là có nghĩa xấu! Chẳng hạn, chữ An-Nam theo nguyên ngữ gốc chỉ có nghĩa tốt đẹp là: nghỉ yên (an) ở phía Nam.

Nghĩa trở thành xấu theo dụng ý người dùng.

Nhưng cái tâm lý chống đối ấy cũng có thể hiểu được đối với một nước nhược tiểu thường bị xâm lăng và lấn lướt. Tôi xin đưa ra một vài chứng bài Tàu (sinophobie) của người dân.

Trong cuốn Histoire du Royaume de TunQuin,(20) Alexandre De Rhodes có nhận xét như sau:

“Nước này bắt đằu thoát ly khỏi đế chế Trung Quốc từ hơn 800 năm nay, khi người Đàng Ngoài không thẻ chịu được cái nhục đô hộ Tàu, thì họ vùng lên sau khi giết quan Trấn Thủ. Vừa để truyền cho hậu lai kỷ niệm chiến thắng đó vừa để ghi muôn đời cuộc khởi nghĩa bằng một vài sự việc khi họ ra lệnh từ nay dân Đàng Ngoài không kết tóc bọc trong lưới trên đầu như người Tầu, và để tỏ ra độc lập, họ bỏ tóc dài tỏa trên vai. Hơn nữa, họ không đi giày như đã quen, vì đất rất lầy lội thường xuyên trên toàn cõi, họ luôn luôn đi chân không ở miền quê, không có giày để được tự do chạy nhảy và chiến đáu với người Tầu khi cần.”


Người dân Đàng Ngoài là láng giềng gần của Tàu, sự chống đối Tàu là điều dễ hiểu. nhưng ngay cả dân Đàng Trong – xa xôi- vẫn có sự kỳ thị trong việc làm ăn buôn bán với người Tầu.

Trong tờ báo Nam Kỳ địa phận (Semaine religieuse).(21)

Nam Kỳ Địa Phận số 1, năm thứ nhất, ngày 26/11/1908. Nguồn: OntheNet


Nam Kỳ Địa Phận số 1, năm thứ nhất, ngày 26/11/1908. Nguồn: OntheNet

Có những lá thư của bạn đọc gửi đến tòa báo bày tỏ sự bất bình với người Tầu như sau:

Nhưng đặc biệt có một số bài của độc giả gửi tới lên án gắt gao người Chệc vì làm ăn điêu xảo và còn có bài kêu gọi người Annam tẩy chay, không mua bán làm ăn với người Tầu

Xin trích dẫn một đoạn về lề lối cầm đồ của người Chệt:

“Kính xin ông chủ bút làm ơn ấn hành bài nầy cho chư vị trong lục châu rõ, mà trừ ba anh Chệc ở tiệm cầm đồ cho hết lường gạt mấy chị đờn bà. Vậy nếu muốn cho khỏi lầm tay mấy anh Chệc đó thì phải lời nghị ngày 25 tháng Novembre 1905 của quan Nguyên Soái Nam Kỳ đã định điều lệ cho công ty cầm đồ như sau này: Những đồ cầm 100 đồng bạc, tiệm đặng lời 2 đồng trong một tháng, là 30 ngày,, nghĩa là kể từ ngày cầm mà cho đến ngày mình chuộc, cho đúng 30 ngày, ví dụ mình cầm ngày 28 tháng 2 tây, cho đến ngày 29 tháng 3 tây mình chuộc, thì đúng là 30 ngày, thì trọn một tháng lời, vì tháng 2 tây thiếu ngày.( Trích trang 541, JB Xuân).”

Chợ Lớn. Nguồn: historicvietnam.com

Chợ Lớn. Nguồn: historicvietnam.com


Ở một chỗ khác, người ta chỉ cho độc giả biết cách cân gian, cách gạt thóc gian. Chẳng hạn:

“Người Tầu dùng cái gạt hình thoi, ở giữa phình ra, hai đầu nhọn, thì mỗi lần gạt thùng thóc vơi đi ở giữa và người mua thiệt mỗi thùng là 40 gr. Chẳng hạn, bài của Madame X cho thấy các chú khách làm hai thứ lường: một thứ để khi quan xét thì đem ra, còn một thứ để bán gạo thường ngày. Cái lường này nó dộng đưới dáy lường cho nẩy lên. Và sau đó kêu gọi chị em chú ý, đừng để bị gạt.”


Cho hay cái tâm lý ác cảm với người Tầu đã có gốc rễ từ lâu, mãi cho đến thời ông Diệm thì lại có thêm sắc lệnh cấm người Tầu không được làm một số nghề.(22)

Theo một tác giả khác là Christopher E. Goscha cũng ghi nhận như sau:

“Vào năm 1919, có hai tiệm cà phê của người Tầu ở Sài Gòn tăng giá một ly cà phê thêm một xu. Thế là khách hàng bảo nhau tẩy chay toàn bộ hàng hóa của người Hoa. Báo chí đã biến một sự kiện nhỏ bé ấy thành một cuộc “thánh chiến” quyết liệt chống lại sự đè nén bấy lâu của người Hoa đối với nền kinh tế Việt Nam, thực ra là với cả dân tộc Việt Nam.”(23)


Tuy nhiên, phải nhìn nhận tài liệu, sách vở, hồi ký viết về nước Táu so với người Tây Phương- ngoài một số sách sử- thì quá nghèo nàn và hiếm hoi.

Về mặt chính trị, trong cuốn sách Chính Đề Việt Nam của Tùng Phong-Ngô Đình Nhu(24). Tác giả Tùng Phong nhiều lần nhắc đến cái mối đe dọa của người Tầu. Nội dung tác phẩm Chính Đề Việt Nam cũng dành một mối ưu tư hàng đầu trong kế sách mà Việt Nam một nước nhỏ phải đối đầu với Trung Quốc.

Tác giả khẳng định ta không thể chiến thắng cộng sản Tàu bằng quân sự và võ lực được. Bảy lần đánh đuổi quân xâm lược do có một lãnh đạo tốt bằng cách vận động được quần chúng và bằng cách lợi dụng được giữa các nước với nhau.

Nhưng nhận xét thời danh nhất của tác giả như một lời tiên tri về tinh hình chính trị trong mối quan hệ thế lực giữa hai bên nằm trong nhận xét sau đây hơn 50 năm về trước:

Sở dĩ sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép. Và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây Phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả dụ mà Nam Việt Nam bị Bắc Việt thôn tính thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian’(25).

Đoạn văn trên cho thấy có sự trùng hợp giữa lời cảnh cáo của Napoléon đệ nhất và Tùng Phong-Ngô Đình Nhu mà khoảng cách thời gian là một thế kỷ rưỡi- trong một khung cảnh địa lý-chính trị hoàn toàn khác biệt!


Trong khi đó, những Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh và đám kế thừa hiện nay như TBT Nguyễn Phú Trọng: Phải chăng họ đã ngủ quên ngay bên cạnh con sư tử Tàu đã thức dậy mà không biết?

Hồ Chính Minh cũng như các đồng chí của ông đã không đọc sử hay cố tinh gạt ra khỏi sử công của tiền nhân đã giữ nước và dựng nước. Và đã nhận người láng giềng phương Bắc làm anh em, môi hở răng lạnh!

Tội của họ là tội bán nước? Công của họ là công nô bộc cho một chủ nghĩa ngoại lai. Họ vẫn tiếp tục con đường họ đã chọn.

Xin trích đoạn đối thoại giữa Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng để làm rõ vai trò tay sai cho cộng sản Tàu như sau:

“-Zhou: For a long time, The United States has been half-encircling China. Now the So Viet Union is also encircling China. The circling is getting complete, except (the part o f Viet Nam.
-Pham: We are all the more determined to defeat the Us imperialist in all of Vietnamese territory.
-Zhou: That is why we support you.
-Pham: That we are victorious will have a positive impact in Asia, Our victory will bring about unforeseeable out-comes.
-Zhou: You should think that way.”(26)


Và nay thì xem ra đã quá muộn cho họ!

Trong cuốn sách China and the Viet Nam wars – 1950-1975, giáo sư Qiang Zhai đại học North Carolina còn vạch trần ra lý do gì Mao Trạch Đông đã nhận giúp đỡ viện trợ quân sự và gửi hơn 100.000 nhân viên sang giúp cộng sản Việt Nam:

Trung Hoa và những xung đọt hiện tại. Nguồn: www.sldinfo.com

Trung Hoa và những xung đột ở Biển Đông. Nguồn: www.sldinfo.com

“Why was Mao so eager to aid Ho Chi Minh in 1950?

Mao’s decision was motivated by a completed blend of geopolityical, ideological, and historical factors. First of all, Indochina constituted one of three fronts (The others being Korea and Taiwan) that Mao perceived as vulnerable to an invasion by imperialist countries headed by the United States.”(27)


Và việc tìm hiểu này gợi hướng nhìn của chúng ta là cần đào sâu thêm để biết chính sách của người Tầu từ xưa là gì? Chính sách ấy đều dựa trên hai yếu tố không thể thiếu được: Đó là yếu tố địa lý chinh trị, Geo-politique. Nhờ đó sẽ giúp giải mã được các sự kiện lịch sử bang giao giữa hai nước.

(Còn tiếp phần 1b)

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”



Nguồn:
DCVOnline hiệu đính và minh họa

(1) Alexandre De Rhodes, “Hành Trình và truyền giáo” – Divers voyages et Misions. Bản dịch của Hồng Nhuệ, Tủ sach Đại Kết, trang 5-6 Xuất bản ở Paris năm 1631. Khởi hành từ Lisbon ngày 4-4-1619
(2) Sau nữa thì in trên gỗ, đất nung, đồ sứ rồi kim lọai ở thế kỷ thứ 12. Kỹ thuật này chỉ dùng mực in được trên một mặt giấy. Nhưng máy in đã được Johanes Gutenberg cơ khí hóa ở Âu Châu (Thần thánh La Mã Đế quốc, tên cũ của Đức, khoảng năm 1440, in được cả trên hai mặt giấy bằng mực dầu. Ở Đông á vẫn dùng tay và thủ cụ ép giấy vào mặt chữ cho đến cuối thế kỷ 19 (1881-3), máy in Gutenberg mới đến Đại Hàn và đến Nhật Bản vào năm 1848 (Nếu không kể sự xuất hiện ngắn ngủi vào năm 1590.)
(3) Les Cahiers Science &Vie, Chine : au-delà des mythes, N°154, paru le 9 juin 2015, trang 32
(4) Alexandre De Rhodes, Ibid., trang 41
(5) Guido Abbattista, “Europe, China and the family of Nations: Commercial, Enlightenment in the Sattaizeit ( 1780-1840)”
(6) Nghi thức này được gọi là Koưtow (khấu đầu) với ba lần quỳ gối, mỗi lần quỳ gối thì ba lần vái, trán phải đụng mặt đất. Như vậy tất cả là 9 lần. Đại sứ Anh chỉ quỳ một gối, mặc dầu biết rõ nghi thức, ông cho việc quỳ lạy như thế là một xỉ nhục đối vơi một cường quốc trên biển như xứ sở của ông. Ông nghĩ rằng việc làm của ông là một cử chỉ đầu tiên của một sứ thần bên cạnh Thiên triều như một sự bình đẳng giữa hai nước.
(7) Alain Peyrefitte, Ibid., trang VIII.
(8) Alain Peyrefitte, Ibid., trang 444
(9) Mao trạch Đông trong cuộc vạn lý trường chinh, vẫn có một thư viện lưu động đẻ ông đọc sách. Đi đến đâu, có sách là thu tập.
(10) Han Suyin, Le déluge du matin, Club Livres pour Vous (1972), trang 534.
(11) Xem Tào Đại Vi – Tôn Yến Khanh – Dịch giả Đặng Thuy Thúy, Lịch sử Trung Quốc, nxb Tổng Hợp Tp. HCM, 2011. Trong năm 1840, lượng nha phiến nhập vào Trung Quốc là hơn 4 vạn thùng mỗi năm.
(12) Alain Peyrefiitte, Ibid., trang 299
(13) Han Suyin, Ibid.,trang 33
(14) Frank Dikotter, Mao’s Great Famine, Walker Books (Oct. 11 2011)
(15) Maomao, Đặng Tiểu Bình: Cha tôi, BasicBooks, 1995
(16) Alian Peyrefitte,Ibid., trang XV-XVI
(17) Tào Đại Vi- Tôn Yến Kinh, Ibid., trang 57
(18) Pol Quentin-Radlé, La Chine, Demain, Bilan d’une esconomie socialiste, nxb Calmann-Levy
(19) Les cahiers Science &Vie, số đặc biệt Chine, Ibid., trang 8.
(20) Alexandre De Rhodes, Histoire du Royaume de TunQuin, bản dịch Hồng Nhuệ,nxb Ủy Ban Đoàn Kết thành phố HCM, 1994 trang 4.
(21) Nguyễn Văn Lục: Kỷ niệm 100 năm tờ báo Nam Kỳ địa phận, báo Tân Văn, số 8 – 2008
(22) Nguyễn Văn Lục, Ibid, Tân Văn, số 8
(23) Christopher E. Goscha, “Widening the Colonial Encounter: AsianConnections Inside French Indochina During the Interwar Period,” đăng trên Modern Asian Studies , Vol., No. 05, September 2009. Đông Hiến dịch “Cấu trúc các mối quan hệ thời thuộc địa”, tạp chí Talawas, số mùa thu 2009.
(24) Cuốn sách của tác Tùng Phong, nhiều người trong giớ lãnh đạo của đảng Cần Lao quả quyết rằng cuốn sách do ông Ngô Đinh Nhu viết bằng tiếng Pháp. Nhưng hiện nay văn bản tiếng Pháp chưa đuợc công bố chính thức. Xin đọc thêm bài viết cùng tác giả: “Ai là tác giả cuốn Chính Đề Việt Nam? Ông Ngô Đình Nhu hay ông Lê Văn Đồng” được in trong cuốn: Nguyễn Văn Lục, “Một thời để nhớ”, trang 113-171.
(25)Tùng Phong, Ibid., Phần II, vị trí của Việt Nam trong khung cảnh thế giới.
(26) Henry Kissinger, On China, Penguin Books; Reprint edition (April 24, 2012), trang 342
(27) Qiang Zhai, China &The Vietnamese wars – 1950-1975, trang 20, May, 1999

DCVOnline: Cho đến nay (2/2016) chưa có một chứng cớ thuyết phục nào xác định Ngô Đình Nhu là tác giả cuốn “Chính đề Việt Nam”, sách viết bằng tiếng Việt, do nhà xuất bản Đồng Nai Saigon phát hành năm 1965, tên tác giả là Tùng Phong. Những nhận định xung quanh việc tìm kiếm tên thật của Tùng Phong đều đồng ý rằng “sách” của Ngô Đình Nhu [nếu đã] viết [phải] bằng tiếng Pháp và tựa đề là dấu hỏi lớn vì không ai có nguyên bản [thảo] của tác giả Ngô Đình Nhu. Theo Phạm Đình (Thông Luận) thì Tùng Phong là bút hiệu của Lê Văn Đồng, cựu Đổng Lý văn phòng Bộ trưởng Canh nông và có mặt trong bộ tham mưu chính trị của ông Diệm (cho đến năm 1957). Tác giả Lê Văn Đồng xuất bản sách “Chính đề Việt Nam” năm 1965, sau khi ông Diệm bị lật đổ và bị giết cùng với ông Nhu. 1975, Lê Văn Đồng đi tị nạn cộng sản và qua đời năm 1992 tại Mỹ. Gia đình ông Lê Văn Đồng khẳng định Lê Văn Đồng là tên thật của tác giả cuốn “Chính đề Việt Nam”, Tùng Phong.

Hình Bìa “Chính đề Việt Nam”, 1965. Trang trong: Thủ bút của tác giả Tùng Phong và Lê Văn Đồng, ký tặng dân biểu Mặc Giao, 1968. Nguồn: Sách của tác giả và Lê Văn Đồng tặng ông Mặc Giao/DCVOnline 2010-2016.

Hình Bìa “Chính đề Việt Nam”, 1965. Trang trong: Thủ bút của tác giả Tùng Phong và Lê Văn Đồng, ký tặng dân biểu Mặc Giao, 1968. Nguồn: Sách của tác giả và Lê Văn Đồng tặng ông Mặc Giao/DCVOnline 2010-2016.


Đến khi có thông tin mới hơn, đây vẫn là chú thích mẫu của DCVOnline dưới tất cả những bài viết đề cập hay liên quan đến tác giả cuốn “Chính đề Việt Nam” như
“Ai là tác giả cuốn “Chính Đề Việt Nam?””, “Đúc kết hồ sơ Nghi án văn học: Ai là tác giả cuốn Chính Đề Việt Nam?”, Nguyễn Văn Lục, © DCVOnline 2010, “Ngô Đình Nhu và luận văn tốt nghiệp trường École Nationale des Chartes”, 5xu, DCVOnline 2013.

Theo 5xu, tác giả “Ngô Đình Nhu và luận văn tốt nghiệp trường École Nationale des Chartes” thì Ngô Đình Nhu là tác giả của hai ấn phẩm bằng tiếng Pháp là

1. Ngo Dinh Nhu, “La Fête de l’ouverture du Printemps a Hanoi”, 1945 [Có nguồn cho rằng tên của tập biên khảo này là “La Fête de l’ouverture du Printemps a Hanoi sous les Postérieurs”.] DCVOnline chưa truy cập được tài liệu này.
2. Dinh-Nhu NGÔ, “Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au xviie siècle”, 1938. École des chartes » thèses. Nguồn: theses.enc.sorbonne.fr/titres?de=1938.

 Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline







18 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 15365)
Nhị Hà có lần nói thẳng với mấy bạn trai, những học sinh của Saigon cũ, rằng cô rất ghét người Saigon, “giống dân bạc tình bạc nghĩa, chỉ biết chạy theo vật chất mà quên cái phần tinh túy là tâm hồn.”
12 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 36643)
Tôi lại nghĩ tôi thua xa những em bé ấy. Chúng coi trâu như bạn, chúng chơi đùa và coi giữ trâu như một niềm vui. Còn tôi, chỉ một năm giữ trâu thôi mà tôi coi là một móc ngoặc đời mình thì quả tôi còn thua một đứa con nít.
12 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 27570)
cảm tác theo bài viết "Nước Mắt" của Nguyễn Thị Thêm đăng trên Web Site Ngô Quyền ngày: 6 tháng 12, 2014 và thưởng thức tiếng hát Ngọc Lan qua "Giọt Nước Mắt Ngà", sáng tác của Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên.
10 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 23968)
Trân mong ước chuyện tình cảm giữa Thủy và anh An Trân có thật, và sẽ thành tựu vào một ngày không xa. Nhìn hạnh phúc của người khác để cảm thấy mình hạnh phúc. Đó là trường hợp của Trân chăng?
10 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 21512)
Mùa Thu sắp tàn, hàng cây hai bên bờ con suối nhỏ, mới vài tháng trước đầy ắp lá xanh mượt mà Mời thưởng thức “Theo Lá Vàng bay ”, nhạc ngoại quốc qua hai tiếng hát trầm ấm và thật buồn, của Ngọc Lan & Kim Anh.
06 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 30515)
Người thấy và cảm nhận được giọt nước mắt long lanh như những viên kim cương hay giọt sương lấp lánh là người mới thật sự đẹp, một người đáng trân trọng.
05 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 38457)
Có một ngày trời không áng mây trôi, mưa dầm dề. Tôi nghe tiếng thời gian thở dài. Không dưng nỗi nhớ tròng trành, nên lòng trĩu nặng. Mưa dầm... Ngõ nhớ. Có bóng ai thấp thoáng trong màn mưa.
03 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 23163)
Nhỏ bạn của Trân ơi ! Nhỏ có nhớ lời thầy Bằng tâm sự với mình hôm nào không ? Đời giả trá, lừa đảo khôn lường. Mình non tay, kém kinh nghiệm, trước sau gì mà chẳng có lần vấp ngã.
29 Tháng Mười Một 2014(Xem: 31415)
Trời chiều Cali đã bắt đầu đi ngủ sớm, màn đêm với khí trời lành lạnh như báo trước sự chuẩn bị cho những ngày lễ cuối năm. Dù trời lạnh nhưng chúng tôi lại cảm thấy luôn ấm lòng với những tiếng cười ròn rã những tiếng nói rất thật và thân tình.
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22244)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22394)
Khi cơn mưa chiều đổ ập xuống, trời tối sầm lại. Nhà đèn lại cúp điện khiến nơi bàn thờ gia tiên gia đình con, ánh sáng ngọn đèn dầu nhỏ thật lung linh, mờ ảo. Nhưng cũng tốt. Càng tăng thêm vẻ trang nghiêm cho buổi lễ.
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29763)
Cuộc đời cũng thế, như một giòng sông, là một biến chuyển không ngừng. Có những chỗ, giòng sông trôi êm đềm nhưng cũng có những nơi, giòng sông trôi ào ạt làm ta chới với. Rồi cũng có những đoạn giòng sông rẽ nhánh thình lình, quanh co uốn khúc.
27 Tháng Mười Một 2014(Xem: 32748)
Nhân dịp Thanksgiving. Gia đình chúng tôi, xin gửi lời chúc đến quý vị và các bạn một mùa lễ Tạ Ơn an lành, hạnh phúc, quây quần bên người thân, thâm tâm an lạc để đón mừng Mùa Lễ lớn.... Xin tạ ơn… Tạ ơn tất cả. Happy Thanksgiving…
26 Tháng Mười Một 2014(Xem: 24069)
Cách nói của Mười Tân cho người nghe hiểu rằng tất cả cái gì thuộc chế độ cũ đều xấu xa và đáng phải bị tiêu diệt, đặc biệt là nền văn học nghệ thuật miền Nam.
20 Tháng Mười Một 2014(Xem: 26165)
Chiếc xe lam tấp bên lề, không ra hiệu làm một người chạy Honda phía sau suýt đâm sầm vào. Ông ta vòng xe ngang người tài xế càu nhàu. Người tài xế xe lam vừa nhận tiền nơi con vừa cười giả lả với ông kia.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 27189)
Con muốn oà lên khóc mà đôi mắt chợt ráo hoảnh. Chừng như lệ nóng đã đóng băng, chừng như hồn con tê cứng lại. Bản danh sách thí sinh trúng tuyển chờn vờn trước mắt con. Đám đông xô đẩy, lấn dần con ra.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29837)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 26887)
Dòng sông nào cũng về biển cả. Cuộc đời của mỗi con người rồi cũng kết thúc. Chị chỉ mong được nhìn thấy nụ cười thương yêu của người thân,con cái, bạn bè khi nghĩ tới chị ....
31 Tháng Mười 2014(Xem: 27776)
...nhưng ngày lễ Halloween cũng là một ngày rất đặc biệt của trẻ con. Hãy vui cùng với các cháu và hãy bảo vệ các cháu để tuổi thơ chúng có những kỷ niệm đẹp trong tuổi ấu thơ.
30 Tháng Mười 2014(Xem: 32587)
Suốt hai năm sống cùng bệnh tật, chị Khánh gần như trốn tránh sự quan tâm thăm hỏi của bạn bè. Cũng có thể do quá đớn đau vì hóa chất, chị Khánh chỉ muốn tự ru mình trong chiếc kén bình yên.