Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Họ Chu - Những Gì Còn Nhớ.

24 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 35492)
Họ Chu - Những Gì Còn Nhớ.

                 

                        

                        Những Gì Còn Nhớ

 

Rời Sài Gòn tháng Tư năm 75. Đến Mỹ, Thượng Châu hợp tác với nhà văn Võ Phiến, Lê Tất Điều, ký giả Nguyễn Hoàng Đoan xuất bản tờ báo Việt Ngữ đầu tiên tại Hoa Kỳ tên Hồn Việt, do nữ ca sĩ Khánh Ly làm chủ nhiệm.

 Sau đó, hội nhập đời sống Mỹ, đi làm việc ở SanDiego đã được 28 năm và sắp về hưu. Lâu lắm, không viết lách gì, nhưng bây giờ với tiếng gọi trường cũ Ngô Quyền, Thượng Châu rất sẵn sàng và vui vẻ đóng góp

 

Bốn mươi năm hơn! Không thể tưởng tượng, không thể ngờ. Mái trường Trung Học Ngô Quyền của thời niên thiếu. Tôi mài đũng quần ở đó, đến nay đã xa vời vợi, hơn 40 năm rồi! Tôi xin lặp lại để tự xác định với chính mình một sự thật quên bẵng. Nếu không có Phẩm, không có Tuấn chắc tôi chẳng có dịp để nhớ lại cái thời “Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”. Nghĩa là không có bài viết nầy để ghi lại “ Những Gì Còn Nhớ”.

 

Qu’est que c’est…? C’est un… Sái.

 

Trước hết cha tôi là một người trọng nho, rất bảo thủ, nếu không muốn nói là cổ lổ sỉ. Lúc nào ông cũng dạy tôi Tiên Học Lễ Hậu Học Văn, rồi Nhứt Tự Vi Sư,Bán Tự Vi Sư. Ðôi khi ông lấy giọng Khổng Tử nói theo một cách tôn ti trật tự bất hủ: Quân Sư Phụ, và với ông cái gì Tây là nhứt…chứ không phải Mỹ. Ông nói với tôi “mày học ngoại ngữ Pháp tao còn chỉ được, chứ học tiếng Mỹ tao chào thua”. Vì thế tôi đã phải nghe lời cố vấn đó, ghi tên vào lớp Pháp văn và chọn môn nhiệm ý là Hán văn, mỗi tuần một giờ, cho ông vui lòng. Nói đến lớp Pháp văn Ngô Quyền, tôi tin chắc không người học trò Ngô Quyền nào có thể quên vị thầy khả kính độc nhứt vô nhị: thầy Đinh Văn Sái, cha của bạn học Ðinh Cẩn Cấp với cái tuổi đời xấp xỉ 60. Hình ảnh Thầy Sái không bao giờ phai lạt trong ký ức của tôi. Ông có khổ người cao to, ăn mặc đơn giản luôn luôn áo cộc tay trắng, thường xuyên đứng trên bục gỗ trong lúc giảng dạy. Thầy dạy vỡ lòng tiếng Pháp, bắt tụi nầy nói như vẹt… lặp đi, lặp lại từng câu thầy viết trên bảng đen. Nào là “Qu’est que c’est?” “C’est un…” gì đó… Ðến bao nhiêu câu Pháp văn trong cuốn sách dầy cộm…với Jean Pierre… Tụi nầy lải nhải, uốn lưỡi tập xì xờ cho ra vẻ Tây. Giờ chơi tụi nầy diễu nhau, cầm đủ loại lên đặt câu hỏi, bắt tên bạn mình phải trả lời. Nào là sách, vở, thước, tai, mắt, mũi đều bị đưa vào câu hỏi và câu trả lời. Thầy Sái đi ngang, có đứa chỉ thầy Sái đặt câu hỏi “Qu’est que c’est?” Tên kia quýnh quá trả lời “C’est un… Sái.” Rồi từ đó trở đi thành có cái huyền thoại trong lớp Pháp văn… mà đến nay tôi vẫn còn nhớ được.

Thầy Sái dạy chúng tôi lớp Ðệ Thất, Ðệ Lục đến năm Ðệ Ngũ được thầy Quyến thay thế. So hai thầy Pháp văn tôi học. Thầy Sái cổ kính, bảo thủ hơn. Thầy Quyến có vẻ trẻ trung, xì po, nói cho Tây hơn “noef”.

 

Vang bóng một thời

 

Lớp Pháp văn toàn là đực rựa. 99% là An Nam Mít, 1% là Tây. Cái 1% lai Tây nầy sáng sủa lúc nào cũng đỏ, đó là bạn Mai Quỳnh Lâm, Lâm là học trò cưng của thầy Sái. Nó ngồi trước tôi một bàn. Lớp Pháp văn bạn học tôi còn nhớ được như Nguyễn Ngọc Xuân, Diệp Cẩm Thu, Trầm Vĩnh Châu, Trần Minh Tâm hỗn danh Tâm lùn, Nguyễn Liễu, Lại Minh Lâm, Lê Tứ Hải, Nghiêm Thái Bình, Sơn con, Vinh con, Minh Hí v.v… và v.v… Lớp nầy có nhiều Minh. Tôi còn nhớ Ðặng Minh trọ học ở nhà ba má tôi, nó ở miệt rừng Long Khánh xuống Biên Hòa học. Ba nó làm xe lửa với ông già tôi nên chỗ quen biết ba tôi giúp nó. Tên Minh thứ 2, con chủ nhà máy xay lúa ở Chợ Ðồn, còn tên Minh thứ 3 là Minh Hí, tức Nguyễn Văn Minh. Tên Minh Hí làm tôi ăn cháo lươn một bữa đã đời. Y ngồi bàn trước, tôi ngồi bàn sau, không biết tên nào quẹt bút mực “bic” sau lưng áo trắng của nó mà nó đề quyết cho tôi. Tôi chối cách nào cũng không được. Nó theo tôi về tận nhà, khóc mếu máo với mẹ tôi khiến bà động lòng phải đi giặt áo tẩy mực cho nó. Dĩ nhiên, sau đó tôi bị quất mấy roi. Tôi gọi Xuân, Thu và Châu là nhóm bạn nhà quê vì tụi nó ở miệt Tân Uyên, có lần tụi nó rủ tôi về quê cho biết, dẫn tôi đi ăn bưởi thanh, bưởi ổi… rồi ra ruộng mía lau bẻ mía, xước vỏ ăn đến rách mép, máu rươm rướm tứa ra ở 2 bên mép. Lần đi chơi với Xuân,Thu và Châu thật thú vị. Nhờ tụi nó tôi mới biết lò đường, làm đường thẻ, đường tán. Tụi nó tập cho tôi xước mía lau, nhúng vào chảo đường đang sôi, lấy ra chờ nguội ăn ngon như kẹo kéo, mùi đường tươi thật tuyệt. Cho đến nay chỉ một lần duy nhất trong đời, tôi vẫn còn nhớ cái hương vị mùi mía tươi hòa lẫn đường mới, đầy ấp tình quê chân thật.

 

Nhứt Quỷ Nhì Ma Thứ Ba: Ngũ 3

 

Hai năm đầu ở Trung Học Ngô Quyền, có những vụng dại, dễ thương của tuổi ăn chưa no lo chưa tới ngây thơ, ngờ nghệch không thể tưởng tượng. Tô Anh Tuấn lôi tôi và Hoa Bang ra nghĩa trang người điên ở Dưỡng Trí Viện để luyện Toán Lý Hoá. Chung quanh mộ cao, mộ thấp. Cái có bia do thân nhân lập. Cái không có thân nhân, chẳng tên tuổi, bia để trần trụi một nấm đất thâm xì tội nghiệp. Ba tên nhóc tì tuổi chưa tới mười lăm thế mà dạn dĩ, chẳng sợ ma, ra giữa nghĩa địa người điên nằm dài trên mộ Bác Sĩ Hoài (người sáng lập ra bệnh viện) để dùi mài kinh sử. Ba đứa tui có nhiều kỷ niệm thiếu thời, không ai có được. Một chiếc xe đạp của Tuấn đã đèo tôi và Hoa đi từ nhà thương điên xuống Ngã Ba Vườn Mít, tới Đài Kỷ Niệm, ngang qua cổng trường Ngô Quyền, đổ dốc Kỷ Niệm theo đường Trịnh Hoài Ðức xuống bùng binh Sông Phố, quẹo mặt về chợ Biên Hòa ngang tiệm hình Phạm Lung ba của Phạm Sơn Danh cũng là bạn cùng lớp với tôi. Một chiếc xe đạp cũ kỹ nghèo nàn như thân phận của người chủ nó, nhưng chứa đựng rất nhiều tiềm tàng sinh lực, đầy nhựa sống, có bữa tụi tôi lên tới núi Bửu Long thăm Nguyễn Thanh Tùng, Lại Minh Lâm ở sân banh, Tuấn ốm còi nhưng dai phông. Nó chủ chốt đạp xe khắp hang cùng ngõ hẻm Biên Hòa. Từ phía sân banh đổ về khu Công Chánh, Thành Kèn, ngang nhà cao cẳng của chị em con Phương, con Loan… Tên Hoa ngồi sau đấu với Tuấn như bắp rang. Tôi ngồi trước hai chân gác đỡ trên ốc chuồng, có lúc mỏi quá chịu không nổi tôi đút chân luôn vô căm xe rách một mảng da dưới ngón chân cái bên phải, máu tươm tươi rói… Cũng chẳng có gì quan trọng ăn nhằm gì. Cuộc giang hồ vặt bằng xe đạp vẫn tiếp tục. Hai tên Tuấn và Hoa gả bán tôi cho đủ mọi người con gái chúng biết mặt và biết tên. Nào là Phương, Loan, Chi, Khánh… tùm lum tà la… Nhưng đến khi tôi rời Biên Hòa đi Sài Gòn học chẳng có một bóng hồng nào hết.

Hồi năm đệ lục, lớp chúng tôi đá banh vô địch. Thủ quân đội banh là Lại Minh Lâm, có cú sút mạnh như búa bổ luôn luôn chơi trung phong: Nguyễn Tấn Nghiệm góc trái với cái đầu đội banh số 1. Ðội banh có cả tôi, hai tên Tuấn và Hoa không hạp bộ môn thể thao. Tên Nguyễn Liễu đúng với tên cha mẹ đặt có vẻ liễu yếu đào tơ, thế mà Liễu chạy nhanh như thỏ, thấy banh là thấy nó liền. Ðội banh Lục 3 có một quái kiệt tên là Nguyễn Văn Biện. Tên Biện rât tếu, đá banh hay, và chính là con tắc kè độc đáo của lớp Lục Ba. Con tắc kè Nguyễn Văn Biện truyền nghề cho nhiều đứa khác, đến nỗi giờ học, nhằm cô giáo phụ trách, giữa lúc cả lớp đang im phăng phắc cắm cúi làm bài hoặc đang chăm chú nhìn cô viết trên bảng thì thế nào tắc kè cũng kêu. “Tắc… Kè...”. Tiếng vang đâu đó y hệt tiếng kêu của con tắc kè trên trần nhà. Có lẽ tắc kè đó chăng…? Ai biết? Thỉnh thoảng, lại còn có đôi ba tiếng kêu đáp lại (mặt tỉnh bơ chăm chú học và chỉ cần he hé miệng, tiếng kêu từ trong cổ họng chớ có há miệng nói đâu thì dễ gì bắt gặp) Thế rồi đôi khi hứng chí có cả bầy tắc kè cùng nối nhau réo gọi, Tôi không hiểu có cô giáo nào còn nhớ tiếng kêu tắc kè quái dị nầy không. Tuyệt nhiên, giờ mấy thầy không nghe tắc kè kêu. Ðó là điều lạ mà tôi không có cơ hội khám phá hoặc hỏi tắc kè Nguyễn Văn Biện tại sao?

                       

Cữ chụp hình ba

           

Bộ ba tụi tôi đi chơi với nhau hằng tuần, nhưng không có hình ảnh gì để lưu lại. Tôi nhớ có lần Hoa, Tuấn rủ tôi chụp hình ngay dưới cột cờ trường Ngô Quyền, tôi quá ghét chụp hình nhưng không thể từ chối được. Tên Tuấn vác máy hình sờ sờ nhờ bạn khác chụp giùm ba đứa, Tuấn và Hoa không chịu đứng giữa, vì cho rằng đứng giữa sẽ trôi dạt xa xôi hoặc chết. Tôi không tin dị đoan nên đứng gìữa chụp chung với Tuấn và Hoa. Nhưng rồi tôi đi xa thiệt, hơn mười ngàn dặm chứ ít đâu, không chết là may rồi. Từ Huế Mậu Thân tới An Lộc Mùa Hè Ðỏ Lửa, Cổ Thành Quảng Trị, Hạ Lào, rồi Ban Mê Thuột. Với bao địa danh kinh hoàng, thế mà phước nhà, tôi vẫn sống sót, và 20 năm sau may mắn gặp lại Tô Anh Tuấn tại Mỹ, giữa Thủ Ðô tị nạn VN. Hình như Tuấn có gửi cho tôi bức hình ba đứa, rồi vì dời đổi nhà cửa, tôi không biết đã cất kỹ ở đâu, tìm không ra nữa.

            Năm Ngũ 3 thật là đặc biệt dữ dằn đối với những học sinh lớn tuổi, ngồi cuối lớp tên nào cũng như thanh niên… Tụi thằng Lâm, thằng Hải, thằng Lê, thằng Hội là một lũ giặc không hơn không kém. Mấy tên lớn tới lớp sớm đấu láo, nghịch ngợm. Lúc đó, tôi lần đầu tiên nghe danh từ Dốc Sỏi, Lò Than hai địa danh rất quen thuộc với lính ở Biên Hoà. Sự thật mích lòng lắm, nhưng nói ra để nhớ những tên quái Đệ Ngũ 3.Tôi nhớ tên Sơn con bị mấy tên anh chị ở phía cuối lớp lột quần đo gì đó…Sơn dãy dụa phản ứng chẳng may rách quần, khóc mếu máo bắt đền. Cả tên Nghiêm Thái Bình và Vinh con (con chủ tiệm sách Minh Tâm) cũng là nạn nhân của trò chơi tinh nghịch nầy, nhưng không đứa nào dám thưa gởi. Ba đứa tụi tôi thuộc loại trung của lớp, chạy vắt giò lên cổ mới thoát được nạn đó.

            Năm Ngũ 3, gần Tết làm báo Xuân vui vô cùng. Từ đó một tên mới được chào đời chẳng có giấy khai sinh đó là tên Tô-Trần-Chu, rồi đẻ ra lưu bút chuyền tay xin chữ ký, bút tích và hình ảnh ngổ ngáo học sinh, thậm chí có đứa rất can đảm làm thơ: “Thương nhau tặng tấm ảnh nầy. Dẫu rằng thay đổi đừng phai cảm tình”. Tôi nhớ năm Ngũ 3 trung học Ngô Quyền có mở cuộc thi đua báo Xuân lớp Ngũ 3 do cô Ðặng Thị Trí hướng dẫn cố vấn văn chương viết văn, làm thơ, làm báo. Gần Tết học ít chơi nhiều, mấy tên lớn liều lĩnh mang cả pháo tống vào lớp, gài dưới bàn giáo sư, đốt mồi dài nổ tung khiến cô giáo la hoảng. Ác hại lớp Ngũ 3 nằm ở dãy trước, dưới lầu sát phòng thầy Giám Học và thầy Hiệu Trưởng nên hết chỗ chối chạy, nguyên cả lớp bị “chào cờ” trong thế nghiêm trước bãi cỏ cạnh phòng thí nghiệm, có đến 2 giờ đồng hồ. Thầy giám thị Tân, thầy Tổng Giám Thị Huân hăm he thế nào cũng không có tên nào dám khai ra thủ phạm.

            Ngô Quyền sản xuất ra nhiều nhân tài, đào tạo ra một thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên và hai ký giả làm báo. Một là ký giả đàn anh Sông Phố, hai là Thượng Châu. Nghe nói không đích xác, anh Sông Phố đi du học Mỹ và ở lại luôn không có tin tức. Còn tôi, thương em không biết làm sao, lấy tên của nó đảo lại làm bút hiệu (Chu và Châu giống nghĩa nhau). Với bao nhiêu chiến trận địa danh tôi đã đi qua, rồi biến cố 75 tôi may mắn thoát khỏi Pleiku, Huế, Ðà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang và cuối cùng là trận Long Khánh. Cứ rời khỏi mặt trận về Sài Gòn nghe BBC loan tin chỗ đó đã mất. Ngày 28-4-75 tôi rời Sài Gòn. Lúc đó tôi không nghĩ đi đâu hết, chỉ vỏn vẹn nghĩ tìm cách xa rời chỗ đạn bom nguy hiểm, lánh nạn một thời gian rồi về nhà lại. Có ngờ đâu đã gần 30 năm xa biền biệt.

Có một người quen gặp tôi nói “Tôi nghĩ là ông đã chết ở VN, đi như thế mà còn sống qua đây,quả là đại phước”.

            Và hôm nay, có cái hân hạnh viết lại trên tờ báo của cái “thuở ban đầu Ngô Quyền” sau 40 năm xa cách. Xin gửi lời chào tất cả bạn bè còn nhớ đến nhau.

 

                                                                        Họ Chu. chsNQ62

 

20 Tháng Giêng 2011(Xem: 131375)
Xuân về lòng chạnh nhớ thêm Những ngày xưa cũ êm đềm giấc mơ Trăm thương ngàn nhớ đôi bờ Gởi người phiêu lãng mộng chờ kiếp sau
19 Tháng Giêng 2011(Xem: 127093)
Cám ơn và hẹn gặp lại các thân hữu nhé ! Mây trắng ngang trời đã quay về và sẽ quay về nữa… , rồi mây trắng lại bay đi…
17 Tháng Giêng 2011(Xem: 138748)
Mãi cho đến bây giờ, mỗi tuần chị đều ăn khoai lang, không phải vì thích loại củ ngọt bùi mầu vàng cam, không vì phải ăn độn...
14 Tháng Giêng 2011(Xem: 212824)
biển về trãi cát em nằm giao thừa sóng hát thì thầm ca dao ru em giấc mộng xuân đầu một nhành hoa biển lộc vào tay em
14 Tháng Giêng 2011(Xem: 156276)
Xuân áo bay trên triền sông bát ngát Rợp hoa vàng nắng đổ hát say mê Chiếc đò ngang rẽ nước sông xanh mát Chở yêu thương, chở trọn vẹn câu thề.
12 Tháng Giêng 2011(Xem: 169569)
Tựa Đề: Đôi Tay Mùa Đông. Nhạc & Lời : Phạm Chinh Đông Hòa Âm : Đỗ Hải Ca Sĩ : Quang Sáng
08 Tháng Giêng 2011(Xem: 130727)
Em vẫn yên lặng chờ anh đến Cho em thêm ánh nắng mùa XUÂN Vườn nhà mình hoa vàng có nở... Trước sân thềm cỏ có còn xanh???
07 Tháng Giêng 2011(Xem: 128611)
Đối với tôi, môn học nào với thầy – cô nào lại không để lại những kỷ niệm khó phai trong lòng của một người học trò.
07 Tháng Giêng 2011(Xem: 125859)
Như mây trắng ngang trời Biết có về chốn cũ? Hương xưa cơn sóng gợn Nhạt nhòa bước thời gian
07 Tháng Giêng 2011(Xem: 128994)
Hôm nay lại dự tiệc nhà anh chi Kiệt Chung, ngoài Thầy Cô và bè bạn lại có sự tham dự số đông đồng hương Biên Hòa và thân hữu.
06 Tháng Giêng 2011(Xem: 59297)
Anh lại đi trời đông mưa lay lắt Giot nhớ thương giăng mờ mịt sông chiều Ba nhịp cầu đìu hiu hoàng hôn vắng Một mình em trở lại đếm sầu rơi.
06 Tháng Giêng 2011(Xem: 140838)
Yêu dã quỳ em lao đao ngơ ngẩn Chờ mãi trên đồi lãng đãng hoàng hôn Quên mùa nào thì hoa vàng bừng nở Rợp đường xưa yêu dấu phủ đầy hồn.
31 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 54186)
Nầy anh người của xa xăm Nhớ tìm sông nhé âm thầm gió lay Đông về lá chết còn bay Ngày mai xa lắc vẫn say dáng người
30 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 172663)
Cảm ơn người đã vui gieo hạt Trên đất phì nhiêu tuổi thơ nầy Thương từng đôi mắt tròn trong vắt Giữ được hồn quê trong tuyết bay.
23 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 57634)
Có người đã nhắc nhở đến nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên và các bài thơ về Giáng sinh của ông. Trong không khí của ngày Noël năm nay, có lẽ chúng ta cũng nên nhắc lại những bài thơ ấy.
23 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 141612)
Miền đông tuyết trắng ngoài sân Ca-Li mưa gió hoa tàn lá rơi Đông về buồn lắm anh ơi! Xứ người lạc lõng cuối đời tha hương...
22 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 110399)
Cảm giác mỗi mùa Giáng Sinh tuyệt vời đến nỗi tôi tưởng như mỗi năm một lần, mình lại là đứa trẻ thơ mới lên tám tuổi, hình ảnh con búp bê tật nguyền lại chập chờn trở lại trong trí nhớ, y như năm nào tôi còn bế nó trên tay.
22 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 137393)
Hôm nay đó, ta trở về Phố cũ Sài gòn xưa, đã đổi mặt thay tên Nghe đắng cay và mặn chát môi mềm Còn đâu nữa Sài gòn đầy kỷ niệm...
22 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 58239)
Mây nhớ mùa đông bay lang thang Buồn ủ ê theo lá úa vàng Giăng hờ hững chờ đông phong lạnh Thả sương chiều rơi xuống mênh mang.
18 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 137145)
Ngày xưa ấy tôi và các bạn còn rất trẻ, hầu hết các Thầy Cô cũng rất trẻ. Ngày xưa ấy cách nay hơn năm mươi năm. Tuổi học trò, thời thơ mộng, thời gian đẹp nhất của con người nay còn đâu.
17 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 49916)
có phải em vừa say rượu thánh? vì anh, đôi mắt tỏ nghìn câu có phải tiên thiên đang chớp cánh? tháng chạp huy hoàng rợp ánh sao
17 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 71991)
Cùng cất tiếng hát với tôi người ơi, cho mưa thôi rơi trên đường đời, về nơi có quê hương nắng ấm tươi đẹp mãi
16 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 173676)
Xin em giữ giùm một tiếng chuông ngân Rúc vào chăn êm còn vang chuông đổ Cất cho anh chút chuông lùa qua khe cửa Chuông của Nhà Thờ, chuông của tim anh!
16 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 143041)
Em viềt cho anh bài thơ cuối Tình lắm xót xa lẩn ngọt ngào Con tim có muôn điều thầm kín Biết bao giờ anh hiểu vì sao ?
15 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 139837)
Cám ơn anh và mối tình đầu Chan chứa cả tấm lòng nhân hậu Cho em sống một đời êm ả Giáng Sinh về, thêm yêu người thiết tha!
15 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 136564)
Nếu có thể - Em xin làm cơn gió thoảng Mang đến bên Anh một chút lãng mạn tình Nếu có thể - Em hóa hạt cát mịn màng Làm Anh cay mắt trong muôn vàn nỗi nhớ…
14 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 134494)
Tình ơi, đá nát vàng tan. Sao em còn mãi đa đoan nỗi niềm?
11 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 50028)
Những bông hoa cuối mùa, dường như vẫn giữ lại trong lòng Ngọc biết bao kỷ niệm một thời tuổi trẻ dễ thương nhất của cuộc đời, mà những kỷ niệm ấy như những tiếng chuông mùa Giáng Sinh, vẫn ngân nga trong lòng nàng mỗi mùa Giáng Sinh trở lại.