Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

TĐH - NHỮNG THÁNG NGÀY LANG BẠT

23 Tháng Ba 201212:00 SA(Xem: 150149)
TĐH - NHỮNG THÁNG NGÀY LANG BẠT


Những Tháng Ngày Lang Bạt


lang_thang

 
Hơn ba mươi mùa Xuân đi qua và cuộc sống nhiều đổi thay, tôi vẫn thương và nhớ về những kỷ niệm buồn vui trong ngôi trường Đại Học Khoa Học. Từ Giảng Đường 1 qua Giảng Đường 2, đến Giảng Đường A và B bên cạnh vườn Thực Vật, những phòng thực tập Hữu Cơ, Vô Cơ và Hóa Lý, ơi biết bao nhiêu kỷ niệm thân thương. Rồi từng buổi sáng, trưa hay chiều ngồi vắt vẻo trên mấy hàng song sắt bên hai cội còng già, chờ giờ đi thực tập trong khi bâng khuâng nhìn mấy chú sâu buông mình từ nhánh cây cằn cỗi, tuổi thơ của mình sao hồn nhiên chi lạ!

Năm 1973, tôi ghi danh học chứng chỉ MPC (Toán Lý Hóa) và ở trọ với người chị kế của tôi trên đường Cộng Hòa. Sau năm 1975, tôi không còn ở chung với chị của mình nữa nên có nhiều chuyện vui buồn để nhớ đời. Trong lúc sống nay đây mai đó ở Sài Gòn, tôi đã từng "được" Công An hỏi thăm và đưa về ngủ ở trong bót để làm quen với muỗi vài lần.

Sau khi ở Cầu Kho, tôi đi học lại và đến ở trong một con hẻm trên đường Nguyễn Cảnh Chân (gần Sở Cứu Hỏa ở đường Trần Hưng Đạo) khoảng hơn một năm. Tại đây tôi ở chung với hai người bạn trên một căn gác, cầu thang ở phía ngoài nên rất tiện lợi, mình muốn đi khuya về tắt gì cũng được. Trong lúc này, tôi dạy kèm hai em học lớp Mười và lớp Tám ở gần gác trọ. Ăn uống thì tự mình nấu lấy, mỗi khi hết gạo tôi lại đến nơi chị của tôi ở để "tha" về, lúc đó chị ấy ở đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3 (Phan Đình Phùng cũ).


Bạn thử tưởng tượng từ đường Nguyễn Đình Chiểu, rồi Bùi Thị Xuân, ngang qua nhà thờ Huyện Sĩ, chợ Thái Bình, đường Cống Quỳnh, trở về đường Trần Hưng Đạo và Nguyễn Cảnh Chân mà đi bộ với 10 kg gạo trên vai sẽ thấy mình ..."phê" như thế nào! Nhưng lạ một điều là tôi rất yêu đời, không biết khổ là gì, cứ vác một chút thấy mệt lại dừng để nghỉ lấy sức. Vì nấu cơm bằng củi, đôi ba ngày tôi phải mang củi xuống chẻ nhỏ trên một cục đá ở dưới đường. Trong lúc nấu cơm ở phía sau, tôi hay hát nghêu ngao, hầu như mỗi ngày vài bài, hết Mùa Thu Chết lại đến Như Cánh Vạc Bay, rồi thì Người Tình Không Chân Dung ... gõ nhịp thì lấy một khúc củi đập lên tấm thiếc kê dưới lò.

 
Ở sát bên nhà có một gia đình người Bắc gồm 5 người con. Cô gái lớn học Khoa Sinh trường Đại Học Khoa Học, cô kế học trường Nguyễn Bá Tòng. Cô bạn học cùng trường có đặc điểm là nói chuyện rất hiền, lúc nào cũng vấn một bím tóc phía sau và luôn luôn mặc áo dài trắng đi học. Tôi ở đó mấy tháng nhưng không biết hai cô đã "rình" nghe mình hát từ hồi nào! Một hôm đi học về trên đường Nguyễn Văn Cừ (Cộng Hòa cũ), cô chị thấy tôi mới hỏi:

- Thấy anh lúc nào cũng không nói chuyện mà hát sao ... hay quá vậy!

Thật tình lúc đó tôi quê ơi là quê, nhủ thầm trong bụng là mình nhất định sẽ không hát hò gì nữa. Đến chiều khi nấu cơm, lại nghe hai cô ở kế bên réo:

- Anh gì đó ơi, sao không hát cho tụi này nghe với?

Thiệt là khổ, tôi chỉ biết im hơi lặng tiếng cho xong chuyện. Gần cuối năm 1976, tôi vào ở trong Đại Học Xá Ngô Gia Tự (Minh Mạng cũ), nếu còn ở căn gác trọ đó thì tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với hai cô gái Bắc này nữa!

Khi ở Đại Học Xá, tôi tiếp tục dạy hai em nhỏ ở đường Nguyễn Cảnh Chân thêm một năm nữa. Rồi cái nghiệp thầy giáo dạy kèm phải đứt đoạn vì chiếc xe đạp cũ mèm của tôi dựng trước cửa phòng cũng bị một đàn anh nào đó "dẫn" đi mất! Không còn phương tiện di chuyển, tôi đành phải nghỉ dạy. Đến năm cuối, trong lúc chờ phân công sau khi ra trường, tôi đến văn phòng của Công Ty Kim Khí để tìm việc làm và bắt đầu nghề "vác sắt" từ đây, cứ vác (chuyển) 1 tấn sắt sẽ ăn 2 đồng. Trong toán vác sắt, chỉ có tôi học Khoa Hóa, còn bốn anh em khác là Ngọc, Bửu, Tiễn và Tuấn thì học Khoa Sinh.

Mỗi buổi sáng, tôi "vận" một cái quần jean thủng gối, áo ka-ki (khaki) rách vai trông rất bụi đời, xuống nhà bàn lãnh một ổ bánh mì không, rồi đi bộ gần hai mươi phút đến văn phòng chi nhánh của Công Ty. Ở đó tôi chờ xe tới, lên xe rồi họ muốn chở đi đâu thì đi. Công việc chính của nhân viên là kiểm kê và chuyển sắt, thép từ các nhà kho tích trữ của người Hoa ra mấy kho chứa hàng rất lớn ở vùng Phú Lâm. Còn tụi tôi giống như Thiên Lôi thôi, họ sai đâu thì mình đánh đó!

Lúc đó tôi mới thấy kiếm đồng tiền không phải là dễ, làm công việc này cũng "chua" lắm nhất là phải dọn hàng ở những nơi họ trữ sắt lâu ngày, sắt trong kho đã bị rỉ sét, dơ dáy. Ngoài ra, mấy anh em cũng phải lập thế để làm sao chuyển sắt cho dễ, ít tốn sức. Chẳng hạn dùng thanh sắt để làm đòn bẫy hoặc trong khi khiêng phải cẩn thận và ăn ý, nếu không tai nạn sẽ xảy ra như chơi. Khoảng thời gian này, tôi đen gần giống như anh "Bảy Chà Hynos" vì ngày nào cũng dang ngoài nắng lại không đội nón, đi hầu hết các hẽm hóc, đường phố trong Chợ Lớn. 


Có một lần, trong lúc dọn kho, tôi bị một mảnh vụn sắt đã bị bào bằng máy tiện giống như vỏ viết chì bào rớt vào trong mắt, rất đau đớn nhưng không biết cách nào để lấy nó ra, trong lòng lại sợ là mình có thể bị mù. Chiều hôm đó, tôi về sớm và xuống phòng y tế trong Đại Học Xá, rất may chị Liên y tá vẫn chưa về. Chị có chồng là Trung Tá VNCH, lúc đó chồng chị còn đang ở tù. Chị dùng kẹp để lấy vụn sắt ra, rồi nhỏ thuốc sát trùng. Sau khi biết nguyên do tại sao tôi bị như vậy, vừa làm chị vừa rầy rà đủ thứ:

- Sao em khổ dữ vậy Hoàng?

Tôi chỉ biết im lặng mà không biết phải trả lời với chị như thế nào. Thấy vậy chị lại nói tiếp:

- Em đi vác sắt làm cái gì? Rủi em bị đui thì làm sao?


Nghe chị nói tôi cũng thấy mủi lòng vì biết chị nói thật tình và biết là chị thương nên coi tôi như một người em. Chị còn bắt tôi phải hứa là sau khi mắt lành, tôi phải ở nhà nghỉ ngơi. Tôi chỉ "dạ, dạ" rồi mấy hôm sau lại tiếp tục ... đi làm tiếp! Chắc lúc đó mình còn trẻ, quen chân đi rồi nên ngồi một chỗ chịu không nổi hay sao? Sau khi làm ở đây khoảng ba tháng, tôi nhận giấy phân công về làm ở phòng Phân Tích Hóa Chất ở Viện Kỹ Thuật Nông Nghiệp trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.


Cho đến bây giờ tôi cũng không biết số phận chị Liên y tá như thế nào, anh ấy có được thả về hay không, và họ đã trôi giạt ở phương trời nào? Nhiều lúc nhắm mắt để ôn lại những chuyện vui buồn trong đời, tôi vẫn thầm cảm kích và nhớ hoài những ân tình người này, người nọ đã dành cho mình.

 

TĐH

 

12 Tháng Mười Một 2009(Xem: 80041)
Về bên dòng Đồng Nai Thăm người em xứ bưởi
12 Tháng Mười Một 2009(Xem: 91555)
Mưa ngày xưa, môi ướt - mắt cười Mưa bây giờ, mắt ướt - môi đẫm lệ cay!
12 Tháng Mười Một 2009(Xem: 97342)
Vậy là con bé út của tôi đã đi học được hai hôm. Mọi học khu đều đã khai giảng niên khóa mới từ đầu tháng 9 mà mãi tới giờ, đầu tháng mười một, con gái tôi mới “cắp sách” đến trường cũng bởi nó bị “lọt sổ”.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67444)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82112)
Lâu lắm mới về  thăm Xứ Bưởi Thăm NGÔ  QUYỀN trường cũ dấu yêu
05 Tháng Mười Một 2009(Xem: 91604)
Thu xưa áo trắng tan trường Mưa rơi ướt tóc người thương đợi chờ
04 Tháng Mười Một 2009(Xem: 94766)
Tôi không là họa sĩ Chì biết lặng lẽ nhìn Sợ...mùa thu thức giấc Sợ...lá vàng rơi nhanh.
02 Tháng Mười Một 2009(Xem: 210439)
Mùa Thu, mùa của tình yêu, của nhớ nhung, lãng mạn và là… của em.
01 Tháng Mười Một 2009(Xem: 100481)
Lại thêm một lần đi giữa đường Thu Mưa đau lòng những ngã tư lá chết
30 Tháng Mười 2009(Xem: 100961)
Đã vài năm qua, kể từ ngày lễ Halloween năm 2005, lúc nào bà Jenna cũng nhớ hình ảnh người giao pizza rất trẻ, chắc chưa đến tuổi hai mươi lúc đó, nhưng có thái độ chững chạc của một người đã đi hơn nửa cuộc đời, và có tấm lòng của một ông tiên trong những truyện cổ tích.
17 Tháng Mười 2009(Xem: 96071)
“Mẹ già như chuối ba hương, Như xôi nếp một, như đường mía lau"
17 Tháng Mười 2009(Xem: 69636)
biển chiều, bãi vắng, sóng dồn nghe đời như đã hoàng hôn ít nhiều
17 Tháng Mười 2009(Xem: 71458)
Không thể thấy được nhau nữa rồi Nắng rơi xuống nhạt nhòa trắng xóa
17 Tháng Mười 2009(Xem: 67074)
  Má ốm rồi hàng cau buồn trước ngõ   Hoa cau vàng rơi lả tả xuống sân
17 Tháng Mười 2009(Xem: 68881)
Đêm quỳ bên ảnh Mẹ Lại thấy xa thật xa Xa như hồi thơ trẻ Ôm chân Mẹ đòi quà Nhấn vào đây để xem
17 Tháng Mười 2009(Xem: 68286)
Con dài gót tha hương Như có mẹ bên đường
17 Tháng Mười 2009(Xem: 69720)
Còn cơn bão nào không Từ khi con mất Mẹ Đêm vẫn đen vô cùng Theo sau chiều bóng xế Nhấn vào đây để xem
17 Tháng Mười 2009(Xem: 69153)
Thưa Mẹ ! Đêm rồi con chiêm bao Thấy Mẹ trẻ như Mẹ thuở nào Nhấn vào đây để xem
17 Tháng Mười 2009(Xem: 65845)
bao nhiêu bài thơ viết chẳng nhắc đến mẹ hiền vì sao? con chợt hiểu – vì tình mẹ vô biên!
17 Tháng Mười 2009(Xem: 73357)
Tiễn má đi trong nhang khói nhạt nhòa Chỉ vắng một người sao quạnh hiu đến vậy
17 Tháng Mười 2009(Xem: 82779)
Lớn rồi con vẫn nhớ lằn roi Mẹ dắt con qua ngưỡng cửa đời Nhấn vào đây để xem
17 Tháng Mười 2009(Xem: 66503)
Giả biệt Tây Thành, xa cố hương Còn đâu Ba Mươi Sáu Phố Phường Ngàn năm văn vật mờ sương khói Hà Nội từ đây, cách dặm trường
17 Tháng Mười 2009(Xem: 87731)
Theo thời gian Biên Hòa ba trăm tuổi Ba trăm năm một vùng đất hào hùng Không thể nghĩ đó chỉ là đất ở Mà là hồn thiêng nguồn cội non sông.
12 Tháng Mười 2009(Xem: 34814)
Có những cá tính, những sở thích hôm nay bắt nguồn từ thời còn ngồi ở ghế Trung học được các Thầy Cô truyền dạy nhiều kiến thức. Như lớp Tứ 1 (9/1) nk 69-70 của chị Võ Thị Ngọc Dung...
14 Tháng Tám 2009(Xem: 67094)
Bốn mươi năm trôi qua Hương tình chưa phai nhòa Biên Hòa em về lại Hẻm cũ bóng người xa
14 Tháng Tám 2009(Xem: 70154)
Ngô Quyền họp bạn thiết tha Hương thơm hoa Bưởi Biên Hòa thoảng bay
08 Tháng Tám 2009(Xem: 69525)
Sao em nỡ vội lấy chồng Tim anh rớm máu cõi lòng nát tan
08 Tháng Tám 2009(Xem: 66725)
Ngày của tôi xưa, hạnh phúc cả bốn mùa. Ngày bây giờ rất vội, hạnh phúc lại bay xa.