“Vợ con tao mày biết đã mất tích ngoài biển rồi. Ông già bà già tao cũng đã chết. Sách vở là tài sản của tao đã đem hết ra đường Bùi Quang Chiêu bán đổ bán tháo... Nếu tao có thể làm nghề chợ trời...”
“Nhưng mày biết mẹ gì phim ảnh mà làm.”
“Thì cũng nhờ người này người nọ quen biết trong đó giới thiệu. Không biết cầm máy quay phim thì cũng xách đèn chiếu cho thằng ca-mê-ra-men.
Nó hỏi tao viết truyện phim được không. Tao nói được. Nhưng mày biết được là được thế nào?”
“Vậy mày được cái gì?”
“Tao được phiếu mua gạo và nhu yếu phẩm hàng tháng. Bả đi còn để lại tao một đứa. Nhiều bữa hai cho con nhìn nhau chỉ có cơm và nước mắm kho quẹt.”
“Tụi nó nói là hồi này mày nhậu dữ lắm. Phải không?”
“Tụi nó đãi. Phần tao chỉ biết uống. Chớ mày nghĩ tao phải làm sao bây giờ?”
Phải làm sao bây giờ? Tôi nghe câu hỏi ấy của Tâm sao mà giống câu hỏi trong đầu của tôi quá chừng chừng. Phải làm sao bây giờ? Nhìn trước, nhìn sau, nhìn quanh, nhìn quẩn, tôi thấy mình như một con heo trong rọ. Nhưng con heo còn có thể đem cân bán, chớ nhu mình quá không đáng một xu. Tôi chợt nhớ tới câu chuyện Tâm hứa sẽ kể. Tôi nhắc:
“Mày kể chuyện cái truyện gì của mày coi.”
“À. Kể thì kể. Nhưng dzô cái đẹp mắt coi.”
Rượu thuốc đục ngầu. Mùi khó thở. Tôi nhắm mắt uống ực như uống thuốc. Tâm cười.
“Mày nhất định không chịu bỏ nghề sao?”
“Bỏ nghề gì? Tao nghỉ dạy rồi mà!”
“Bỏ nghề phá-mồi. Bộ mày tưởng thời buổi này dư dả lắm sao mà chỉ phá-mồi?”
“Thôi cha. Kể chuyện nghe coi.”
“Ờ, chuyện thì chuyện. Theo mày thấy thì lúc này làm nghề gì dễ sống nhất?”
“Sao mày cứ nói lảng?”
“Thể thao và văn nghệ. Đúng không?”
“Đúng. Nhưng nói rõ thể thao là đá banh, còn văn nghệ là âm nhạc.”
“Ừ. Coi bộ lái xe ủi đất mà cũng rành sáu câu dữ. Tao viết một truyện ngắn về âm nhạc.”
“Âm nhạc? Càng ngày càng làm tao chới với. Hết làm phim, bây giờ lại làm nhạc. Mày học nhạc hồi nào?”
“Thôi, đừng có giả mù sa mưa cha. Truyện tao viết đại khái vầy: Có một thằng cha đó năm nay bốn mươi hơn. Tóc đã bắt đầu muối tiêu. Thằng chả giàu nhờ mở một nhà hàng ăn bên bờ sông. Khách khứa ra vào nườm nượp. Đời chả chỉ biết tối tối đếm tiền. Càng giàu, càng đổ tật. Không biết mắc chứng gì mà chả mê âm nhạc. Chả thích chơi hồ cầm. Thích đứng giữa một dàn đại hợp xướng trên sân khấu. Chả suy đi tính lại, nhất quyết phải trở thành một tay hồ cầm có cỡ. Bạn bè nghe chả nói ý định ai cũng can. Lớn rồi, học nhạc phải học từ nhỏ, chớ từng tuổi, tay chân cứng đơ, âm nhạc gì. Chả không nghe, ghi danh đi học. Tiệm ăn thiếu người trông coi, mỗi ngày một mất khách, sa sút dần. Đến khi chả ra trường thì tiệm ăn coi như sụp. Không còn tiền bạc, không còn tài sản, chả bán nhà bán cửa, đi lang thang, cố xin một chân trong ban đại hòa tấu. Nhưng ở đâu người ta cũng từ chối. Nói là ngón đàn chưa ngọt, không đủ điêu luyện để hòa nhập vào ban đại hòa tấu. Cuộc sống chả ngày càng thê thảm. Chả rách rưới nghèo khổ, bẩn thỉu, lang thang, lếch thếch như một hành khất. Nhưng tấm lòng yêu âm nhạc của chả là thực. Chả cứ lui tới ở mấy nơi có các ban đại hòa tấu lớn chơi. Chả xin việc. Người ta nói ban nhạc đã đủ người. Sau cùng để thỏa lòng yêu âm nhạc, chả xin làm người dắt chỗ cho khách thưởng ngoạn...”
“Nhân viên dẫn chỗ ngồi?”
“Ừ, đúng. Chả làm nhân viên dẫn chỗ ngồi. Nhưng mà đừng tưởng làm nhân viên dẫn chỗ ngồi là dễ đâu nghe!”
“Mày muốn nói cái gì vậy?”
"Mày thông minh có thừa. Mày dư biết tao muốn nói gì rồi. Tuổi tụi mình đâu phải là tuổi bắt đầu đi làm cách mạng. Phải không? Vả lại...”
Tôi hiểu tâm sự bạn.
Tôi cầm đũa gắp một miếng lòng. Mùi rượu thuốc làm tôi khó chịu.
Tâm tựa lưng vào vách. Khuôn mặt anh bỗng nhiên nguội lạnh bất ngờ hai con mắt ướt như sắp khóc. Anh lặng thinh, bất động như một bức tượng.
Chương Mười Một
Chiếc xe đò đi Rạch Giá chật ních người. Kiệt đã lấy cho tôi một chỗ khá tốt: ghế đầu ngồi cạnh bác tài. Trong túi tôi đang có một tấm giấy công tác giả do ông Công cấp, ghi là tôi đi công trường An Biên nghiên cứu đào giếng.
Trước mặt tôi, trên đùi tôi, là tờ báo Quân Đội Nhân Dân mô tả một trận đánh ở vùng biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Tôi đọc thấy lời khai của một ten Khmer Đỏ: nay mai người Khmer sẽ chiếm lại Saigon, vì Saigon là của dân tộc Khmer. Thế là thế nào? Khmer Đỏ là cộng sản, Hà Nội cũng là cộng sản. Trên một tờ báo ảnh của Hà Nội mà tôi tình cờ đọc thấy sau ngày mất Saigon có hình Pol Pot bắt tay Trường Chinh, trang trước đó nữa Sihanouk ôm hôn Phạm Văn Đồng... Thế là thế nào? Tôi xếp tờ báo lại. Tôi không cách nào hiểu được thời sự thời thế thời cuộc. Đối với tôi, những thứ ấy luôn luôn làm tôi rối trí. Bao giờ trong đầu tôi cũng nghĩ đến một chuyến đi. Đi để trốn thoát cái không khí trước đây vốn không cho tôi đủ khí trời để thở, và giờ đây phải đi vì không khí ngục tù và rờn rợn. Tôi mơ hồ cảm thấy có một tấm lưới lớn đang từ từ chụp xuống những con người Saigon, không khí không những đang bị rút dần mà sự đe dọa vô hình in hình như mỗi lúc một gần hơn, nặng nề hơn. Saigon đối với tôi giờ đây chỉ là những quán cà phê vỉa hè, những chiếc ghế bằng gỗ tạp thấp tè đóng vội vàng, và cơm nguội bắp rang, vỏ măng cụt trộn lẫn với cà phê tạo nên một thứ mùi kỳ quái. Chúng tôi sống trong thế giới của những tin đồn. Người đang bị tù thì tưởng đã đi rồi. Còn người đi rồi đôi khi cứ tưởng như còn lẩn quẩn đâu đây.
“Thầy nên đi coi ghe trước khi quyết định.” Kiệt đã nói với tôi như vậy. Và cậu đã lấy vé chợ đen cho tôi, vẽ địa điểm sẽ gặp nhau ở chợ Rạch Giá, “ăn cái gì rồi mình đón xe Lam đi Rạch Sỏi, ghe ở đó.”
Tôi nói với Quỳnh có lẽ tôi sẽ đi trong ba ngày: một ngày đi, một ngày coi ghe, một ngày về.
Buổi sáng dậy sớm, tôi bỏ theo trong túi xách một bộ quần áo, bàn chải và kem đánh răng, một cuốn sách... và lên đường một mình. Đó là lần đầu tiên tôi đi Rạch Giá.
Xếp tờ báo lại, để dưới chân, tôi hỏi người lái xe bao giờ thì sẽ đến bến. Ông ta nhìn tôi cười khi tay vừa đẩy cần sang số:
“Vượt biên sao mà nôn nóng dữ cha nội!”
“Đừng nói giỡn, tù mọt xương ông à!”
“Thì nói giỡn mà! Đất nước độc lập thống nhất rồi ai ngu dại gì bỏ đi đâu chi cho nó cực.” Ông ta vừa nói vừa nheo mắt nhìn tôi cười mỉm. “Nè, tui hỏi thiệt,” giọng ông nhỏ hẳn lại, “đi Rạch Giá chi vậy?”
“Tôi đi công trường An Biên, đào giếng.”
“Bộ ông là cán bộ à?”
“Không...” Tôi ấp úng.
“Tướng ông khó làm cán bộ lắm. Nhưng...” Ông ta lại cười.
Tôi thấy ông có chiếc răng cửa bị gẫy, khuôn mặt sạm đen, da sần sùi, chiếc cổ bạnh, bàn tay đặt trên vô lăng to bè. Tôi không muốn nói chuyện với ông ta. Tôi đoán ra ông ta định ám chỉ cái gì, nhưng tôi không tin lắm. Tốt hơn hết là đừng nói, kệ ông ta muốn gợi chuyện gì thì gợi. Ai biết đâu có công an giả dạng thường dân ngồi ở mấy ghế sau. Tôi đưa mắt lơ đãng ngó cảnh tượng trước mắt đang bị chiếc xe nuốt dần. Và tôi chợt thấy cái vẻ đẹp kỳ lạ vô cùng giữa thiên nhiên và con người. Cả một cánh đồng lớn đang chạy lùi dần là những ngôi mộ và trên mỗi ngôi mộ là những tờ giấy (hay vải?) ngũ sắc cắt dài như những cái tua bay phất phới.
(Còn tiếp)