Kỳ XXIII
Tôi đau nhức như thể có người cầm dao thọc vào thịt xương tôi. Tôi bẹp dí như cái bong bóng bị kim đâm. Bùn với nước bết vào tóc tai tôi, quần áo tôi. Tôi lăn trở đau đớn.
Có gì đâu! Chỉ là một cái sẩy chân, tại sao tôi có thể bị chấn thương như vậy.
Tôi ngó lên. Bầu trời xanh với những đám mây trắng xốp đứng sững. Không một chút gió. Không một cánh chim.
Tôi nhìn quanh. Nhiều khuôn mặt chụm lại, cúi xuống. Tôi không phân biệt được ai là ai. Những con mắt hau háu. Những bộ mặt giả nhân giả nghĩa. Những mái tóc xù. Những hàm răng nhọn.
“Anh kia, đứng dậy.” Có tiếng nói như ra lệnh.
Kiệt cúi xuống sát mặt tôi, hai tay vẫn nắn chân tôi.
“Bể rồi, thầy ơi!”
Tôi nhìn lên. Tất cả những khuôn mặt vừa chụm lại ngó xuống bỗng giãn ra. Bầu trời lại xanh. Đám mây trắng vẫn bất động. Tôi thấy mấy cánh tay dài chìa xuống xốc nách Kiệt.
“Cả tên này nữa!”
Một tiếng nói khác. Một khuôn mặt khá trẻ. Hai cánh tay dài phóng xuống chụp lấy vai tôi.
“Đứng dậy!” Tiếng nói ra lệnh.
“Nè, đừng làm dzậy. Người ta bị gãy chân rồi!” Tiếng nói lẫn trong đám đông. Nhiều tiếng xì sầm.
Người ra lệnh vừa rồi luồn tay dưới lưng tôi, gần như đẩy tôi đứng lên.
“Đau quá!” Tôi nghe tiếng mình nói rất nhỏ.
“Anh đã bị bắt!” Người thanh niên nắm cổ áo sau ót tôi.
Tôi không thấy sợ, nhưng chân tôi khuỵu xuống, tựa hồ như cái bản lề ở đầu gối và mắt cá bị sút ốc.
“Xin đồng bào giải tán. Bắt bọn vượt biên phản quốc chớ có gì đâu mà coi!”
Người nói là một trung niên tóc bạc, gầy ốm, nhỏ thó, đang đứng trước mặt tôi.
Đám đông tản ra một số. Còn lại một vài con mắt tò mò.
“Trói lại!” Hắn nói.
Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy không có một tên nào ăn mặc đồng phục công an hay bộ đội. Tất cả đều thường phục. Tên đang trói tôi có khuôn mặt trẻ hơn là lúc đầu tôi tưởng.
“Các anh có biết vượt biên là phản quốc, là liếm gót giày bọn tư bản không?”
Người trung niên nói. Y mặc áo ca rô bỏ ngoài quần rộng thùng thình, dép da kiểu dân Sài Gòn. Tôi bị trói ngoặt hai cánh tay tréo sau lưng. Tôi nhìn thấy Kiện cũng bị trói thúc ké. Hiệp và Tám không có mặt.
“Đưa họ về trụ sở trước. Tôi sẽ làm việc với họ sau.” Người trung niên ra lệnh.
Đán đông mở ra. Một tên đi trước. Kiệt bước theo. Tôi không giở chân lên nổi. Tên còn trẻ đẩy chúi tôi.
Tôi khuỵu chân, ngã xuống. Tôi đau muốn tắt thở.
“Có sao không thầy?” Kiệt quay lại quì hai chân hỏi.
Tôi ngã sấp xuống mặt đất. Bùn sệt và nhão ướt.
“Tôi đi không nổi đâu.” Tôi nói với Kiệt.
“Thầy phải cố lên!” Kiệt đứng thẳng dậy, mắt vẫn nhìn chăm vào mắt tôi.
Tôi nghe hơi lạnh của bùn thấm vào gò má và tai tôi. Tôi gượng dậy. Tôi lết đi trên một chân.
Trạm công an không xa chợ nhưng tôi tưởng mình khó mà tới nổi. Nó đứng giữa cánh đồng lúa vừa gặt, trơ trọi. Bên trong chỉ có một cái bàn mấy cái ghế xộc xệch, ọp ẹp.
Tôi thấy Tám, Hiệp và một đám khác ngồi lố nhố bên trong. Trừ mấy đứa bé còn nắm tay mẹ, số còn lại đều bị trói thúc ké.
Tôi và Kiệt bị ấn ngồi bệt xuống.
Nền nhà bằng đất chỗ lồi chỗ lõm. Tôi nhận ra không phải mình chỉ đau ở chân mà còn nghe tức cả ngực nữa.
Tên trẻ tuổi dùng ngón tay trỏ chỉ vào từng đầu người lẩm nhẩm đếm. Tôi nghe tiếng một đứa bé khóc. Bà mẹ bị trói, đứa bé bò quanh chân. Mấy người ngồi trước mặt nói chuyện bằng tiếng Tàu.
Tôi nhớ Quỳnh. Tôi như nghe tiếng khóc của con tôi. Trạm công an ở Nha Trang. Phòng giam nhỏ trên lầu. Tờ giấy ký nạp nhà. Cái chết của anh Thúc. Hai đứa cháu của anh còn nằm trong trại tù tập trung sĩ quan cải tạo. Đăng và Mai đang chuẩn bị theo mẹ chúng đi Pháp. Những lời dặn dò của Quỳnh trước khi ra đi. Những tờ giấy ngũ sắc trải dài trên các ngôi mộ dọc đường xuống Rạch Giá. Chiến tranh biên giới Cam Bốt. Pol Pot bạn hôm qua của Hà Nội, kẻ thù ngày nay của Việt Nam. Cuộc chiến vừa chấm dứt Tháng Tư, Tháng Năm đã nổ ra những tiếng súng bên giới. Nếu tiếng súng ngừng nổ thì cái gì sẽ xảy ra trên đất nước này?
“Tất cả nghe đây!” Tên trung niên tóc bạc, gầy nhom, nhỏ thó bước vào giữa phòng.
“Đồng chí Bảy Ca. Đồng chí cởi trói mấy ông bà này giùm tôi.”
Nhà tù Kiên Giang buổi tối. Những cánh cửa sắt mở ra đóng lại vội vàng. Cả đám người bơ phờ, bụng đói, tay không đồng hồ, chân không giày dép, đầu óc hoang mang lo lắng sợ hãi ngồi chồm hổm giữa sân nhà giam.
Đêm đang xuống.
Thấp thoáng bên trong một ngọn đèn điện bóng tròn màu vàng. Tôi không thấy Kiệt đâu. Cả Tám và Hiệp cũng bị đẩy về một phía nào. Tôi tự hỏi cái gì đang chờ đợi tôi. Đêm tối ám, tôi không thấy rõ mặt người.
Cả đám ngồi lổn nhổn như những hòn đá. Một ngọn đèn vàng hắt xuống từ một mái nhà trước mặt chiếu sáng vừa đủ ba chữ “Cải Hối Thất.”
Chúng tôi ngồi đợi như vậy khá lâu không tên công an nào đến ngó. Một vài bóng đen đi lướt qua, lặng lẽ.
Mưa lất phất vừa đủ ướt mặt. Người ngồi trước quay lại hỏi tôi:
“Bị bắt ở đâu vậy?”
“Rạnh Sỏi.” Tôi trả lời cho xong chuyện.
“Xuống ghe chưa?”
“Chưa. Còn ông?” Tôi hỏi lấy lệ.
“Ôi! Tôi hả?” Tôi lên xuống như cơm bữa.” Rồi ông ta quay hẳn mặt lại: “Lần đầu hả?”
“Lần đầu.” Tôi trả lời.
“Đừng sợ. Ông tên gì?”
Có cần nói tên mình cho người lạ mặt này nghe không? Tôi thoáng nhớ lại những lời dặn dò của ông Công. Đi có giấy công tác cứ nói thật, cứ khai địa chỉ chỗ làm việc. Phần còn lại để ổng lo. Tôi cũng nhớ lời dặn của Tâm Khô-Khốc-Thiền-Sư. Mày phải khai tên giả, địa chỉ giả, lý lịch giả. Tụi nó không cách nào điều tra được. Phải nhớ mày là dân ít học, làm nghề chân tay, trốn quân dịch, có cảm tình với cách mạng... Càng ở gần tận cùng đáy của xã hội càng tốt. Tôi hiểu lời dặn dò của Tâm. Cái đáy vực của chế độ này là đỉnh cao của chế độ kia và ngược lại. Nhưng đó có phải là chân lý không?
Tôi không tin một sự đổi đời và lộn ngược đời như thế. Xấp-Ngửa. Trắng-Đen. Phải-Trái. Tôi đã nhìn thấy những điều đó đang diễn ra quanh tôi. Cái hôm qua được coi là đạo đức, bữa nay đã bị coi là tội lỗi.
Một ngôi nhà to, một chức tước cao, một địa vị lớn, một sự quen biết rộng...của bữa trước, rất là bất lợi cho bữa nay. Mới hôm qua còn là “ông,” bây giờ đã là “thằng.”
Còn “thằng” hôm qua có là “ông” hôm nay không thì không rõ.
Tội ác như một thứ ruồi nhặng mà những người cầm quyền mới cố gắng dán lên đầu những con người đầy danh vọng của chế độ cũ, tưởng chừng như...
Nhưng mà những con người cùng khổ của hôm qua, sau mấy năm dưới chế độ mới cũng vẫn không thơm tho gì hơn. Căn nhà bằng bìa cạc-tông, mái lợp tôn hay fibro xi măng bữa trước ra sao bây giờ vẫn vậy.
Có đổi mới chăng là xiêu vẹo hơn, và vô phương cứu chữa hơn. Người cùng khổ vẫn sống, tiếp tục sống dưới đáy xã hội. Chỉ có những kẻ khốn nạn hôm qua mới chiếm được một chỗ sạch sẽ dưới ánh đèn ấm cúng trong một ngôi nhà mới. Vậy thì tôi có cần nói tên tôi cho người lạ mặt này không. Nhưng mà tôi là cái thá gì chớ! Nói thì sao. Đã sao?
“Thăng. Tôi tên Thăng. Mà ông hỏi chi vậy?”
“Hỏi vậy thôi. Tôi tên Bình. Tôi bảo đảm là trước sau gì ông cũng nhớ đến tôi!”
“Im lặng! Im lặng!” Tù không được nói chuyện.” Bất ngờ một giọng nói vang lên rất gần chỗ tôi.
Tôi ngước mắt nhìn chưa kịp ngạc nhiên về lời nói của người bạn tù, thì cái bóng đen lướt qua choán trước tầm ngó của tôi.
“Anh kia tên gì?” Bóng đen hỏi.
“Thăng.” Tôi trả lời gọn.
“Cái gì Thăng.”
“Trần Lâm Thăng.”
“Bị bắt vì tội gì?”
“Không biết.”
Tôi không biết thật. Tôi chỉ gặp Kiệt để xem ghe. Tôi mới chuẩn bị vượt biên chớ đâu đã vượt biên.
“Không biết?” Bóng đen hỏi lại.
“Không biết.” Tôi lặp lại.
“Đứng dậy!” Hắn ra lệnh.
Tôi chống hai tay dưới mặt sân ướt. Tôi nghe cải hai chân tôi tê điếng.
“Anh biết tại sao tôi bắt anh đứng dậy không?”
“Không biết.”
“Anh theo tôi. Cần phải nhốt anh ở một chỗ riêng. Anh biết tại sao không?”
“Không biết.”
“Anh có biết là ngồi trong đám tù này anh đã cao hơn nhiều người tù khác không?”
“Không biết.” Tôi bắt đầu ương ngạnh.
“Vậy bây giờ biết rồi. Theo tôi!”
(Còn tiếp)