Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - NHỮNG NGƯỜI CON HOANG CỦA J. P. SARTRE

04 Tháng Mười Một 20231:06 SA(Xem: 1885)
GS. Nguyễn Văn Lục - NHỮNG NGƯỜI CON HOANG CỦA J. P. SARTRE


Những người con hoang của J. P. Sartre
Nguyễn văn Lục

 

sartre

 

 

 
Sau chiến tranh thứ hai, nước Pháp hoang tàn, đổ nát. Có một De Gaulle trở về, đem vinh dự và hy vọng cho cả nước Pháp. Nhưng chưa đủ. Nước Pháp cần một biểu tượng văn hóa: J.P. Sartre. J.P. Sartre trở thành đứa con tinh thần của giới trí thức, của cả nước Pháp, nhất là sau khi ông làm giám đốc tờ Les temps modernes. Ít khi nào có một trí thức, nếu không nói là lần đầu tiên, vừa là triết gia, vừa là nhà văn tài hoa đến như ông.

Sau khi xuất bản La nausée (1938), Le Mur (1939), ông thay thế dần chỗ ngồi của A. Malraux, và chẳng bao lâu sau của André Gide, trong văn học Pháp. Ông đã tạo cho mình một chỗ đứng, một thế giới của riêng Sartre, Univers Sartrien... Rồi Sartre cho ra đời Chemins de la libertéLes mouches, 1943; tác phẩm lớn L’être et le Néant, 1943; Huis clos, 1944; Morts sans sépulture, 1946; La Putain respectueuse, cuốn sách gây xì căng đan ở nước Pháp năm 1946; Critique de la raison dialectiqueLes mains sales, 1948; Le diable et le bon Dieu, 1951.

Bên cạnh Sartre là một nhà văn trẻ hơn, A. Camus, sau này trở thành cặp Sartre-Camus; mỗi tác phẩm của A. Camus như thể hiện linh hồn của tư tưởng Sartre. Cả hai đã ảnh hưởng toàn bộ giới trẻ và trí thức Pháp, mặc dầu A.Camus luôn luôn từ chối cái nhãn Hiện Sinh mà người ta gán cho ông.

Tác phẩm của hai nhà văn này đề cập đến những vấn đề con người, chẳng hạn như mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, vấn đề trách nhiệm, dấn thân, nhập cuộc, hoài nghi, phủ nhận mọi chủ nghĩa, mọi giáo điều... Rồi vấn đề hiện hữu và hư vô, hiện sinh tại thế, hiện hữu và yếu tính... Đời phi lý, buồn chán, thừa thãi, và con người nổi loạn... Những tư tưởng đó đã gây ra trong văn chương Pháp không biết bao tranh luận, thậm chí cả ngộ nhận, hiểu lầm từ nhiều phía.

Năm 1980, Sartre chết. Nước Pháp đã tiễn đưa một nhà trí thức sáng chói với những lễ nghi vinh dự mà họ đã dành cho Victor Hugo đúng 100 năm trước đó.

1945-1955 là thời kỳ vàng son của Sartre và Camus. Nhưng họ đã chẳng có ảnh hưởng gì tới sinh hoạt văn học Việt Nam. Tình hình Việt Nam lúc đó rối như mớ bòng bong, ai còn bận tâm tới văn chương, triết lý? Đó cũng là cái khoảng thời gian trống và nghèo nàn nhất của văn học Việt, từ Nam ra Bắc. Các trào lưu văn học Tiền chiến hay Tự Lực Văn Đoàn đều tắt tiếng. Người tản cư trôi dạt xuống các vùng Hà Đông, Phủ Lý, Nam Định, vào đến Thanh Hóa, rồi sau đó quay về dinh tê. Kẻ khác tham gia kháng chiến. Mỗi người tứ tán mỗi nơi...

Nhưng kể từ sau Hiệp định Genève với cuộc di cư từ miền Bắc của một triệu người, Sartre và Camus có cơ hội có mặt ở miền Nam và ảnh hưởng của họ kéo dài hơn một thập niên. Ở đây cần xác định rõ là tư tưởng của họ gây ảnh hưởng trong văn chương, tiểu thuyết, một thứ sản phẩm thị dân, đối tượng là các thành phần thanh niên, trí thức thành thị. Dù sao đi nữa, thành phần này cũng là mặt nổi của một xã hội. Nói tới sinh hoạt văn học, nghệ thuật, là nói tới họ.

Còn phần triết học thì quá ít người được biết tới. Thật vậy, vào thời kỳ từ cuối 50 đến 70, tại các đại học Văn Khoa Sài Gòn, Huế, Đà Lạt và sau này Vạn Hạnh... triết lý Hiện sinh của Sartre đã không được giảng dạy. Thảng hoặc có dạy đi nữa trong các chứng chỉ Siêu hình và Lịch sử Triết học, các giáo sư thời bấy giờ cũng chọn Nietzsche, Kierkergaard, Merleau-Ponty, và nhất là Heideigger. Cùng lắm là có đả động qua loa đến G. Marcel hay E. Mounier, những triết gia hữu thần, trái ngược hẳn với trào lưu Hiện sinh của J.P. Sartre.

Xét về mặt nghiên cứu thì ngay các trường đại học quốc gia ở Huế, Sài Gòn, cũng không có điều kiện cung cấp đầy đủ tài liệu cho sinh viên sử dụng, ngoại trừ Viện Đại học Đà Lạt, một đại học bán công mà thành phần ban Giảng huấn hầu hết là các cha Dòng Tên người ngoại quốc – có thể coi đây là một hình thức du học tại chỗ. Nơi đây, có hơn 5000 ngàn đầu sách đủ loại về văn chương và triết học bằng tiếng Pháp. Nhưng vì Sartre không có trong học trình, tôi không dám chắc đã có bao nhiêu sinh viên có đủ điều kiện để miệt mài hết cuốn L’être et le Néant hay Critique de la raison dialectique? Cái sự không dám chắc đó, tôi đặt ngay cả vào bản thân thành phần Giáo sư trong ban giảng huấn nữa! Thật khó mà biết được có bao nhiêu người đã đọc? Vì thế, triết học Hiện sinh ở chiều sâu, ở phần căn cốt sách vở của Sartre, số người biết rành rõi có thể đếm trên đầu ngón tay. [1]

Nhưng âm vang của “hư vô,” “hữu thể,” “tồn thể,” “những xao xuyến siêu hình,” “dấn thân,” “nhập cuộc,” “trách nhiệm,” “người trong cái toàn thể,” “người trong hoàn cảnh,” “tha nhân,” “đời phi lý,” “con người phản kháng”... là những từ ngữ quyến rũ đến độ người ta phải nói tới, phải suy nghĩ. Nó như một thứ ma lực lôi cuốn giới trẻ, sinh viên, trí thức. Những cuốn tiểu thuyết của họ, nhất là của Camus, đặt tâm thức giới trẻ vào những suy nghĩ miên man về ý nghĩa cuộc đời, đặt nghi vấn về tất cả mọi vấn đề, của chính tự thân và của người khác, rồi cuối cùng rơi vào sự trống rỗng không lời giải đáp. Có thể nói, tâm trạng thanh niên trí thức lúc bấy giờ là thử tìm hiểu xem cuộc đời đáng sống hay không đáng sống?! Một câu hỏi đáng lý chẳng nên đặt ra cho một người trẻ tuổi sắp sửa bước vào đời. Cái để lại trong tâm thức người trẻ, sau khi nghi vấn, tra hỏi về đủ mọi vấn đề là tâm trạng trống rỗng, vô nghĩa như người khách lạ. Và có lẽ đó là ảnh hưởng lớn nhất mà triết lý này để lại.

Ví giả J.P. Sartre chỉ là một triết gia thuần túy và không bao giờ là nhà văn; Ví giả A. Camus là một nhà văn không mang trọng trách rao truyền một tư tưởng triết lý. Nếu họ không có chức năng đó, hoặc họ chỉ đảm nhiệm một vai trò, một chức năng nhất định, như các triết gia hiện sinh khác như Heidegger, Kierkergaard, thì hẳn triết lý hiện sinh đã không gây ồn ào, náo nhiệt như thế. Cái ồn ào mà tôi muốn nói ở đây là nó đã làm nảy sinh ra rất nhiều những đứa con hoang đủ loại.

Triết lý hiện sinh vỉa hè là bằng chứng của vô số những nhận định ngộ nhận, hiểu lầm và qui chụp, đẻ ra những đứa con hoang mà chính J.P Sartre cũng chẳng bao giờ có thể nhìn thấy hết được. Bởi vì nó đã trở thành một sản phẩm xã hội và bất cứ một hiện tượng xã hội nào cũng có thể bị đưa lên giàn phóng để tra xét và nguyền rủa.

Cái triết lý hiện sinh vỉa hè ấy, qua F. Sagan, đã trở thành sản phẩm tiêu thụ xã hội có tính cách thời thượng mà thực chất không dựa trên một suy lý nghiêm chỉnh nào để có thể quy chiếu vào Sartre hay Camus được. Sản phẩm của đứa con hoang đó được du nhập vào Việt Nam và được đón tiếp ồn ào ở thành thị. Từ kiểu ăn mặc, đi đứng, kiểu lái xe, ngồi lên xe; rồi âm nhạc, điện ảnh với “nouvelle vague,” với James Dean. Sagan một bên, James Dean một bên. Phải chăng đó chính là hai đứa con hoang của Sartre? Từ lối sống, lối nghĩ, lối làm tình, đến cả lối chết... Tại miền Nam, trong thi ca, tiểu thuyết và báo chí, chỗ nào cũng thoáng ẩn hiện bóng dáng của thứ triết lý này. Đến độ, người ta thấy rằng từ Mai Thảo đến Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền đều là những kẻ truyền thừa của thứ triết lý ấy. Khi mà Quách Thoại chẳng may mệnh yểu, Mai Thảo nói tới sự tự do chọn lựa cái chết, buộc mọi người phải liên hệ tới sự tự do tuyệt đối của triết lý Hiện sinh. Hiện tượng bề ngoài được bao trùm bởi cái không khí hiện sinh đó thật ra chỉ phù phiếm, chẳng có căn bản gì. Tờ Sáng Tạo, được tiếng là cửa ngõ đi vào triết lý hiện sinh, từ đầu tới cuối chỉ có bốn bài viết về hiện sinh, trong khi tờ Đại Học ở Huế có 21 bài, tờ Bách Khoa có 24 bài.

Một số nhà văn nữ thập niên 60, như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lệ Hằng, Chu Tử, Nguyễn đình Toàn v.v... ít nhiều cho thấy bóng dáng của Sagan hiện diện trong truyện của họ. Tôi không dám bảo là họ bắt chước, nhưng có nhiều người cho rằng đó là thứ triết lý thời thượng, một kiểu theo đuôi hay làm dáng trí thức. Vậy thì phải chăng đây cũng là một thứ con hoang của Sartre? Trong giới giáo sư dạy triết thời đó, thế hệ thứ hai với những người như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh, Trần Nhựt Tân, Trần Văn Nam... Hầu như tất cả các luận án cao học ngành Triết thời đó đều đề cập đến các triết gia hiện sinh, nhưng đặc biệt không thấy một luận án Triết nào trong số họ đề cập đến triết hiện sinh của Sartre. Cắt nghĩa điều này như thế nào? Huỳnh Phan Anh viết Văn chương và kinh nghiệm hư vô. Nguyễn Quốc Trụ viết Văn chương và sự khả hữu. Trần Công Tiến viết Từ Hiện Tượng luận Husserl đến Hiện tượng luận Heidegger. Liệu có bao nhiêu độc giả đã đọc họ và có bao nhiêu người hiểu họ? Tôi chỉ có thể đặt câu hỏi, nhưng không thể trả lời thay cho những người khác. Cách trình bày khó hiểu và đôi khi khúc mắc, tối tăm trong những tác phẩm vừa kể đôi khi cho thấy một trí tuệ phi thường của người viết. Độc giả có tâm trạng mặc cảm khi đọc những bài viết như thế. Nơi đây, triết học thực sự trở thành một món quà mà Thượng đế chỉ dành cho một số người đã được lựa chọn. Không ai dám truy vấn chính mình đến ngọn nguồn về trình độ đọc sách và truy vấn người viết về khả năng hiểu biết và diễn đạt. Người viết không cần biết người đọc hiểu được bao nhiêu. Nếu người đọc không hiểu thì lỗi thuộc về họ. Phải chăng nơi các giáo sư triết này thấp thoáng bóng những đứa con hoang của Sartre? Một hình thái theo đuôi, bắt chước, thời thượng? Liệu phê phán như thế có oan cho họ không? Với thiện chí của người trí thức trẻ, cố gắng nghiên cứu triết lý hiện sinh, họ trở thành đứa con hoang của Sartre, bị xếp ngang hàng với những cô cậu hippy choai choai.

Trong nghiên cứu văn chương, người ta đọc thấy những đề tài như Chinh phụ ngâm với tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đầyNguyễn Công Trứ với cảm thức hư vôTản Đà với khát vọng vĩnh cửu. Đến Phật giáo, Lão giáo cũng nhập cuộc. Người ta vào đạo Phật qua lối ngõ của J.P. Sartre. Từ lăng kính Nho, Phật, Lão đến lăng kính Hiện tượng luận.

Công giáo bảo thủ nhập cuộc kiểu khác: hạ bệ và nguyền rủa thứ triết lý này. Đại loại như “Chúng tôi tố cáo mầm phản loạn trong Văn nghệ”, “Lại một trạng thái cuồng loạn phơi bày trong tiểu thuyết”, “Chúng tôi cực lực phản đối cái thuyết dã thú hóa ra con người của ông Thạch Chương”, “Tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, sự buôn lậu tư tưởng trong một con bịnh dân thành phố...” Đấy là những bài viết nhằm phê phán triết học ấy ở bình diện luân lý. Họ không nhằm phê phán Sartre, bởi một lẽ dễ hiểu, họ không có điều kiện để hiểu Sartre. Họ chỉ có thể phê phán những sản phẩm xã hội mà họ nghi ngờ là từ Sartre mà ra, những sản phẩm bị coi là con hoang của Sartre. Vì sự phê phán trên bình diện luân lý của tiểu thuyết đã đi trật đường, liệu có thể xếp sự chống đối của họ cũng vào loại con hoang của Sartre không? Con hoang của những đứa con hoang?

Hết văn chương, tôn giáo lại thêm chính trị nhập cuộc. Những người anh em theo phía bên kia nay chửi thứ triết lý hiện sinh với ẩn ý chính trị ở Lữ Phương, Khải Triều… Chẳng hạn như các bài “Đọc các tác phẩm của Chu Tử”, “Hiện tượng dâm ô, đồi trụy trong văn học hiện nay”, “Từ văn hóa cải lương đến văn chương đồi trụy và thứ cần sa của ngoại bang”. Đã hẳn những bài viết như thế không cần đòi hỏi bất cứ một chút kiến thức nào về chủ nghĩa hiện sinh cả. Đó chỉ là những thứ con hoang đến hoang tưởng, gán cho Sartre bất cứ cái gì mà họ muốn.

Người ta tưởng rằng những đứa con hoang của J.P Sartre sau ngày 30-04 đã tiêu tan theo cuộc cách mạng ấy. Nhưng không, Sartre vẫn đội mồ sống dậy. Sartre cùng với Camus vẫn còn đó, bằng xương, bằng thịt.

Theo dịch giả nổi tiếng thời 60-70 Trần Thiện Đạo, cuốn L’étranger của Camus đã có 3 dịch giả dịch rồi. Chuyên gia dịch hàng đầu của miền Bắc, ông Dương Tường, lại cất công dịch một lần thứ tư, 1995. Rồi Nguyễn Văn Dân là người thứ 5 lại mới dịch lại vào năm 2002. Dịch lại như thế vì tác giả quá nổi tiếng? Vì tác phẩm quá hay? Vì người đọc ham chuộng? Vì người dịch trước dịch dở, tồi tệ? Vì có người dịch rồi thì dịch sau đỡ tốn công sức? Camus có bao nhiêu tác phẩm, tại sao lại cứ nhè cuốn đó mà dịch? Cái hiện tượng dịch lại sách đã dịch cũng thấy được ở cuốn Bác sĩ Zivago, dịch lần thứ ba. Hay hơn thế nữa, lấy sách dịch in lại mà không cần đề tên dịch giả như trường hợp của Phùng Khánh?

Sự tụt hậu về sinh hoạt dịch ở Việt Nam có đến 50 năm và một thế kỷ. Sách mới không dịch, cứ nhè sách cũ, sách đã dịch rồi dịch lại như một nhu cầu đọc giải trí, thay vì nhu cầu nghiên cứu. Một hiện tượng quái gở không hiểu được. Tại sao lại dịch lại những cuốn như vừa kể, mà trước đây được xếp vào loại sách phản động, không phản động thì đồi trụy?

Phải chăng vì những đứa con hoang của Sartre vẫn tiếp tục hoành hành trên thị trường chữ nghĩa ở miền Nam?

Đứa con hoang có thể là cuối cùng của Sartre có lẽ là giáo sư tiến sĩ Trần Trọng Đăng Đàn. Đối với văn học miền Nam nói chung, ông giáo sư này là kẻ chém treo ngành. Ông chém, chặt, nhổ, bứng từng dây mơ rễ má cái văn học, văn hóa đồi trụy ấy. Ông viết cuốn Văn hóa văn nghệ, Nam Việt Nam, 1954-1975 dày hơn ngàn trang mà tôi phải bỏ ra 50 đô la để bê nó về. Sót ruột lắm! Gọi là nghiên cứu của một tiến sĩ giáo sư mà từ trang đầu đến trang cuối chỉ thấy chửi là chửi. Ông chửi rất bài bản, nhìn đâu cũng thấy đồi trụy, đĩ điếm, thấy nọc độc của chủ nghĩa thực dân. Ông chửi các nhà văn, nhà văn hóa miền Nam kể như không trừ một ai. Chửi tất cả các sách dịch bất kể tác giả, bất kể loại, trong đó có Camus, Sagan. Giáo sư đi theo vết chân của Lữ Phương, Khải Triều, mắc bệnh quáng gà mất rồi.

Ra khỏi khuôn viên đại học Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực thời đó, ra khỏi Sài Gòn, người dân miền Nam vẫn sống hiền hòa, vẫn chịu đựng chiến tranh, không có chút nào là triết nọ. Thần tượng của họ là Bà Tùng Long, cùng lắm là Lê Xuyên, là Bạch Tuyết, Hùng Cường, là Kim Dung. Đổ oan cho toàn miền Nam cái tiếng văn hoá đồi trụy, nọc độc chế độ thực dân mới thật là hồ đồ.

Nếu cho rằng cái văn chương ấy, cái nọc độc ấy, cái âm mưu ấy làm ung thối miền Nam đến toàn là đĩ điếm, đồi trụy thì phải cắt nghĩa thế nào về hiện trạng xã hội Việt Nam hiện giờ? Nó là do cái nọc độc nào, cái âm mưu nào đã đưa xã hội đất nước con người đến một tình trạng sa đọa được hợp lý hóa, được hợp pháp hóa và nhất là được bình thường hóa. Cái sa đọa đạo đức, xã hội trầm kha nhất của đất nước hiện nay là bình thường hóa sự sa đọa, mất ý thức về sa đọa. Chữ mà người ta dùng để chỉ về điều này được gọi là thời mạt.

Phải chăng đây là thời mạt của Sartre còn sót


30 Tháng Mười 2015(Xem: 19898)
Bài viết nầy, tạm gọi là chút tình tri ngộ, tri tình, tri ân cùng ông giữa cõi đời và cõi người rất mong manh, mộng ảo nầy.
25 Tháng Chín 2015(Xem: 19167)
1/ Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs của Mỹ đã bất ngờ đưa ra thông báo quyết định ngưng đầu tư vào Trung Cộng. 2/ Tập đoàn Lý Gia Thành đã chuyển dần tài sản từ Trung Quốc sang Châu Âu
28 Tháng Tám 2015(Xem: 17931)
Liệu Đế quốc Trung Cộng có "may mắn" thoát được số phận tan vỡ ra từng mảnh hay không và phe nào sẽ thắng thế trong cuộc tranh chấp quyền lực đẩm máu ?
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43392)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
27 Tháng Hai 2015(Xem: 19859)
Luận đề của "Đoạn Trường Tân Thanh" hiển nhiên là thuyết "tài mệnh tương đố"", gọi nôm na là "hồng nhan bạc mệnh".
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 27325)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22346)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29948)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 38374)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 37217)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 31099)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 22064)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 39253)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16424)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 40056)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 14220)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50865)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 29154)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31737)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 91159)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 70721)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 96589)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 103602)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 140081)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 154351)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 121141)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 160162)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 149364)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 165292)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 158116)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160590)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 169100)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 164508)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27772)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42902)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 44183)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39645)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 30231)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 43411)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87664)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 97942)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67449)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93593)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32750)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 78389)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74675)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39480)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 40000)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47384)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46584)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 147059)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23485)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.