NHÌN LẠI CUỘC DI CƯ 1954 - 1955 (Phần 2)
Sau đây, xin dẫn một chứng từ của những người còn phải ở lại phải hứng chịu sự tuyên truyền của cộng sản, cái thời 54-55 của thế kỷ trước. Người bạn văn miền Bắc, anh Vân Hải hiện vẫn liên lạc với tôi đã viết cho tôi như sau:
Lũ học sinh vùng tạm bị chiếm chúng tôi vừa được anh bộ đội cụ Hồ tiếp quản… Ai chẳng đọc thuộc lòng những lời thơ đừng đi theo giặc vào Nam:
Nghe ai lầm phải lời điêu
Mà đành cuốn gói bước liều ra đi.
Ra đi là bước lưu ly
Đường vào Nam Bộ sầu bi não nùng.
Ra đi là bước long đong,
Bỏ nhà nằm bãi ngủ đồng quạnh hiu.
Ra đi là bước tiêu điều
Đem thân cho giặc sớm chiều vút roi
Ra đi là bước lạc loài
Chủ nhà lại hoá tôi đòi xứ xa…
Hay
Một chiếc nhạn lià đồng tháng tám
Lũ cắt xanh rừng thẳm chực mồi
Nhắc trông ngát cảnh chim trời
Lòng tôi chất nặng những lời hờn căm.
Vì lũ giặc tay cầm thuốc độc
Mưu rắc lên đất nước hoà bình…
Bên cạnh đó là những tin đồn mà các thủy thủ Mỹ thu lượm được qua những người di cư kể lại lúc lên tầu do Việt Minh tung ra như sau:
– Người Mỹ cắt tay của trẻ sơ sinh và quẳng đàn bà xuống biển, còn đàn ông thì bắt đi làm cao su cạo mủ tại các đồn điền cao su.
– Tầu há mồm ra đến biển thì há mồm ra, rồi xô đẩy người ta xuống biển.
– Với những áp lực đủ kiểu, nhờ một lối tuyên truyền xảo trá, tạo ra một cơn hốt hoảng tinh thần nơi dân chúng công giáo.
– Một khi bầu khí hoảng loạn thì mạnh ai nấy chạy, trong khi đó từng toán xe tải nhà binh tiến vào các làng để bốc hốt đi thật nhanh, kể cả dùng bạo lực cưỡng ép tất cả dân chúng.
Độc hại hơn cả, chính quyền Hà Nội còn dùng chiêu bài tôn giáo bằng cách nhờ cậy đến phái đoàn tôn giáo Ba Lan nhằm thuyết phục giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo miền Bắc theo gương Ba Lan “sống đạo trong lòng thế giới cộng sản”.
Tác giả Trần Thị Liên ở bên Pháp có phổ biến một tập tài liệu của phái đoàn tôn giáo BaLan, vào năm 1954. Tài liệu có tựa đề: Vấn đề công giáo miền Bắc Việt Nam qua tư liệu lưu trữ Ba Lan, 1954-1956(**) được phổ biến trên Thời Đại Mới, số 4, tháng 3/2005.
Phái đoàn tôn giáo Ba Lan sang Việt Nam do lời mời của chính phủ Hồ Chí Minh để cố vấn chính phủ về các vấn đề liên quan đến tôn giáo trong đó có nhiệm vụ khuyến cáo các địa phận công giáo nên ở lại và hợp tác với chính quyền cộng sản như ở Ba Lan. Theo báo cáo số 243/10/55 của đại sứ Jery Grudzinski gửi Bộ ngoại giao Warsaw một cách sai lạc về số phận một số giáo dân đã di cư vào Nam: “Thất vọng vì không được cấp phát ruộng đất và trâu cầy như chính quyền Bảo Đại đã hứa hẹn, họ yêu cầu được trở lại miền Bắc”.
Gia đình gián điệp Vũ Ngọc Nhạ – đoàn viên “Tổng bộ tự vệ Phát Diệm” (do giám mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo) – lên đuờng “di cư”. Nguồn avsnonline.net
Tài liệu của phái đoàn Ba Lan cho biết vào những năm 1945-1947, có sự liên minh, hợp tác giữa người Thiên Chúa giáo và Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có cả một chính sách “công giáo vận” mà tài liệu còn cất giữ được tại thư khố quân đội ở Vincennes bên Pháp. Thật vậy, khi thành lập chính phủ, ông Hồ đã chọn Nguyễn Mạnh Hà, một trí thức ở Pháp về làm bộ trưởng bộ kinh tế. Trong phái đoàn tham dư hội nghị Fontainebleau, ông Hồ đề cử ông Nguyễn Đệ tham gia phái đoàn. Ông Đệ có nhiều liên hệ tốt với Pháp và giới ngân hàng Đông Dương. Trong buổi lễ tấn phong giám mục Lê Hữu Từ, cùng một lúc có buổi lễ thành lập liên đoàn công giáo (liên đoàn công giáo không nằm trong hệ thống liên đoàn của Việt Minh) vào tháng 10/1945. Trong dịp này có phái đoàn cao cấp chính phủ gồm Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp về dự, đồng thời cũng cử tân giám mục Lê Hữu Từ làm cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh.
Chính sách công giáo vận có đạt được điều gì cụ thể? Ung Văn Khiêm đã nghiêm cấm mọi hành động phẫn nộ hay khiêu khích với người Thiên Chúa giáo. Hồ Chí Minh đã ra lệnh không giới nghiêm trong đêm Giáng sinh, v.v…
Thật ra chính sách tôn giáo đó chỉ có cái bề mặt của một chủ trương chiến lược, thực tế, người Thiên Chúa giáo vẫn là đối tượng nghi ngờ số một. Nhưng sang đến năm 1950-1951, mối liên hệ tốt đẹp giữa hai bên kể như chấm dứt. Khu tự trị Phát Diệm dần trở thành một thứ tiền đồn chống Cộng sản.
Không lạ gì, khi có cuộc di cư, khu Bùi Chu, Phát Diệm có tỉ số người di cư cao nhất trên toàn miền Bắc. Khoảng 50% dân theo đạo Thiên Chúa giáo.
Việt Minh và cả Pháp cũng không tiên liệu được số người di cư lên cao đến như thế. Tài liệu của phái đoàn tôn giáo Ba Lan đã cắt nghĩa tìm hiểu tại sao có số đông người di cư như thế và cố tình bóp méo một số sự việc. Theo họ, yếu tố chính thức đẩy người ta di cư là vấn đề tôn giáo.
– Yếu tố tôn giáo: Trong bản báo cáo của đại sứ Ba Lan Tomasz Pietka, ông đã xếp yếu tố tôn giáo lên hàng đầu. Ông viết:
“Vấn đề di cư của người công giáo vẫn tiếp diễn”. Chính phủ và đảng đã làm tất cả những gì có thể để giảm bớt, nhưng vẫn gặp những khó khăn to lớn…Vấn đề giáo dân sẽ còn đè nặng lên chính sách nội trị của Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (VNDCCH) trong thời gian tới đây… Vì số yếu tố tôn giáo lên hàng đầu, ông viết:
“Vấn đề di cư của người công giáo vẫn tiếp tục, số lượng người Thiên Chúa giáo bỏ nhà bỏ cửa đi quá đông. Một chiếc tầu Ba Lan, một chiếc tầu duy nhất bên phe cộng sản vào Nam chở bộ đội Việt Minh và gia đình họ ra Bắc, nhân tiện đó khi đi vào Nam, họ nhận chở giúp đồng bào di cư Thiên Chúa giáo vào Nam”. Hiện nay, tầu Kilinski của ta phải lo chuyển giáo dân vào Nam. Cho đến ngày 18 tháng 5, nó sẽ phải chở 10.000 người. Đang có tin đồn, người Pháp muốn đề nghị kéo dài thời hạn 300 ngày cho dân chúng có thể chuyển vùng. Đại sứ Pietka xác nhận: “Chính phủ ta đồng ý để cho tầu Kilinski chở 5400 giáo dân từ Bắc vào Nam, trong tinh thần bắt tay người thiên chúa giáo”.
Trong phần bài viết về số giáo dân di cư vào miền Nam, chúng tôi ước lượng vào khoảng 300.000 người. Số người thiên chúa giáo di cư có đông, nhưng không phải là yếu tố quyết định hàng đầu.
– Yếu tố thứ hai là kinh tế: Kinh tế suy sụp với sự đe dọa của nạn đói. Trong bản báo cáo tháng 2, ông đại sứ viết:
Thị trường cần cung cấp thêm lúa gạo và các nông sản khác đang bị thiếu hụt nghiêm trọng. Cần phải ngăn ngừa nạn đói có thể xảy ra ở khu bốn là nơi hội đủ những triệu chứng như: hạn hán, ruộng đất bị bỏ hoang. Nếu Việt Nam không nhận được viện trợ to lớn về lúa gạo thì tình hình sẽ trở thành nguy ngập và cuộc bầu cử sẽ hết sức bấp bênh.
Báo cáo của đại sứ Ba Lan tháng 3 như sau:
“Một trong những khó khăn nhất mà các đồng chí của chúng ta gặp phải là nguy cơ xảy ra nạn đói… Hiện nay viện trợ của CHNDTQ đã tới nơi, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu. Vụ mùa tháng 5 không khả quan vì hạn hán kéo dài. May thay, nhờ có viện trợ Trung Quốc nên tháng 5, năm 1955, VNDCCH đã tránh được nạn đói”. Theo báo cáo của đại sứ Ba Lan: “Cuối tháng tư tình hình được cải thiện một chút nhờ gạo, gà và khoai lang gửi từ Trung Quốc đã sang tới nơi ”.
(Báo cáo của đại sứ Pietka, Hà Nội, ngày 02/05/1955)
Báo cáo này giúp chúng ta bây giờ mới hiểu ra rằng, Việt Minh khi vào Hà Nội đã nhận một mảnh đất trống, chỉ còn xương với sẩu, chỉ còn lại “Vỏ lon bia và thùng carton rỗng có nhãn hiệu Made in USA” như nhận xét của bác sĩ T. Dooley. Bởi vì tất cả những gì xét ra có thể dùng được thì người Pháp, qua tầu Mỹ đã chuyên chở hết vào miền Nam.
Các gia đình phía quân đội Quốc Gia khi di cư vào miền Nam được phép mang theo cả giường tủ bàn, ghế khảm xà cừ, sập gụ tủ chè v.v… Một người bạn trẻ, anh Vũ Thế Thành hiện Thành vẫn liên lạc với tôi có kể cho tôi là khi di cư vào miền Nam, gia đình anh đã mang theo được chiếc đồng hồ quả lắc coi như gia sản quý giá nhất, thêm hai tấm phản dày. Cho đến bây giờ đồng hồ vẫn chạy, dù chạy chậm vì đã quá cũ. Còn hai tấm phản thì nay cụ bà này đã 92 tuổi vẫn nhất định nằm trên phản đó, nhưng chập đôi lại.
Quá khứ ấy ghi khắc sâu trong lòng cụ bà và cụ sẽ mang theo mình khi về bên kia thế giới.
Nghĩ đến chuyện này, tôi nghĩ người cộng sản còn hên và may mắn. Vì năm 1975, họ đã không gặp hoàn cảnh tương tự như 1954-1955 và họ đã nuốt trọn gói không trừ một thứ gì như một thứ cướp cạn, vì Mỹ quá sai lầm trong cơn tháo chạy.
Tại miền Bắc, những trang bị cơ sở kỹ nghệ tiêu biểu của kỹ nghệ như nhà máy cement Hải Phòng, hãng thủy tinh, đài phát thanh Radio Hà Nội, trang thiết bị cơ sở mỏ Hòn Gai, nhà máy dệt Nam Định. Tất cả cái gì có thể tháo gở được thì tháo gỡ, còn không thì ở trong tình trạng bất khả dụng.
Vì thế, họ đói là phải và giả dụ không có viện trợ cấp thời của Trung Cộng thì dân chúng miền Bắc còn ở lại sẽ ra sao?
Nhưng những nhận định của phái đoàn Thiên Chúa giáo Ba Lan về việc người di cư ở trên rất thiếu xót và thiếu một điều không thể thiếu: Sự kiện người di cư đông đảo là vì người dân di cư sợ và trốn tránh cộng sản.
Không hẳn chỉ là vấn đề đạo Thiên Chúa giáo. Nhưng nếu hiểu tôn giáo là mọi đạo thì hoàn toàn đúng. Vì có khoảng 500.000 người là đạo Phật, đạo Ông Bà, đạo Tin Lành và “đạo nào cũng có“.
Tất cả những người di cư ra đi trước sau chỉ vì lý tưởng: chọn tự do đồng nghĩa với không chấp nhận cộng sản.
Đó là lý do chính yếu. Sợ mà đi, sợ mà trốn, thù ghét mà bỏ vào Nam. Cho nên người giầu hay người nghèo, người các tôn giáo, người “đạo nào cũng có”, rồi trẻ già lớn bé đều cuốn gói vào Nam cả.
Làm sao người cộng sản giải thích được trường hợp một người què cả hai chân, và từ chối không để Hải quân Mỹ bế ông lền tầu chiến. Ông đã bò bằng hai chân và cả hai tay, tay có hai đôi dép làm giầy. Các quân nhân Mỹ đứng khoanh tay nhìn ông bò lên tầu? Chỉ cần một người khuyết tật, một người thôi. Đáng nhẽ người ấy nên ở lại, vậy mà người ấy đã cương quyết ra đi.
Cho nên, không có vấn đề thúc ép phải di cư.
Không ai ép người khác phải di cư được? Nếu tự chính họ không muốn.
Di cư là hình thức tự nguyện cao nhất để đi tìm Tự Do
Cũng vì thế, phái đoàn Ba Lan đã phải thừa nhận thất bại của họ ở cuối bản báo cáo như sau: “Để phản ứng lại chuyến đi thăm của phái đoàn, một chiến dịch tuyên truyền chống Ba Lan đã được đẩy mạnh trong giới công giáo Việt Nam”.
Cụ thể là những sự việc sau đây được phái đoàn ghi lại:
Giám mục Trịnh Như Khuê đã “treo chén” hai linh mục trong Ủy Ban toàn quốc những người công giáo yêu tổ quốc, yêu Hòa Bình do linh mục Vũ Xuân Kỷ làm chủ tịch.
Các giới chức công giáo đã tỏ ra lạnh nhạt nếu không nói là thù nghịch với phái đoàn Ba Lan như các vị giám mục Trịnh Như Khuê ở Hà Nội, giám mục Trần Hữu Đức ở Vinh, linh mục Tân, đại diện ở Thanh Hóa, linh mục Liêm, đại diện ở Phát Diệm, linh mục Hiệp đại diện ở Hải Phòng.
Đặc biệt là giám mục Trịnh Như Khuê, Hà Nội, phái đoàn báo cáo: “Giám mục đã tỏ thái độ thù nghịch đối với phái đoàn, chỉ cho phép hai linh mục cử hành lễ thánh trong một nhà nguyện đóng kín”. Sine assistentia populi. (Không cho phép giáo dân được dự lễ)
Đây là một hình thức tẩy chay của Tổng Giám Mục Trịnh Như Khuê, dùng giáo luật để loại trừ hai linh mục Ba Lan. Đến độ, phái đoàn Ba Lan đánh giá hai giám mục Trịnh Như Khuê và Trần Hữu Đức là “phản động”, mặc dầu hai giám mục này tình nguyện ở lại miền Bắc và khuyên giáo dân cũng ở lại như họ
Số người tập kết ra Bắc
Theo phúc trình của Ba Lan, tàu Ba Lan đã chở 85 ngàn người ra Bắc so với con số 800 ngàn người vào Nam. Theo báo cáo “Chuyên chở bộ đội Việt Minh trên tầu Kilinski 1954-1955 (Nautologia 2001 n.1-2(136), trang 18-21) của thuyền trưởng tầu Jan Kilinski, ngày 07/04/1955 thì tổng cộng chỉ một mình chiếc tầu Ba Lan đã chở khoảng 85.000 người từ Nam ra Bắc, 3.500 tấn thiết bị quân sự và 250 tấn đạn dược ra Bắc. Con số 85.000 người do chỉ một chiếc tầu thôi, giả dụ mỗi lần chở được tối đa 5000 người, tàu JanKilinski phải mất bao nhiêu chuyến hải trình?
Chiếc chiến hạm Mỹ chở nhiều chuyến nhất và nhiều người nhất là tầu General House, đã chở được 50.000 người di cư vào miền Nam. Chiếc General House thuộc loại tầu đổ bộ T-AP, dùng để chuyên chở binh lính. Bình thường chở từ 1200-2000 binh sĩ. Chở quá tải là 3000 người. Trường hợp khẩn cấp có thể chở từ 5000-7000 người. (Trích OPTF, trang 213)
Theo Ramesh Thakur trong cuốn Peacemaking in Viet Nam, (The University of of Alberta Press,1984, trang 131) thì con số người từ Nam ra Bắc thật ít ỏi. Chỉ có 4269 người bỏ miền Nam ra miền Bắc. Trong khi đó Ronald B. Frankum, Jr. viết như sau:
Peacekeeping in Vietnam – Canada, India, Poland, and the International Commission by Ramesh Chandra Thakur. Nguồn University of Alberta, 1984
“At the same time, personnel and equipment moved to the South, The French and Polish were involved in transporting those who wished to go to the North.The French had allocated approximately ten shịps for Viet Minh transportations and had estimated that sixteen thousand of the possible one hundred fifty thousand personnel had already completed the trip north.”
Cùng lúc, các nhân viên và các thiết bị được chuyển vào Nam, Pháp và Ba Lan đã để hết tâm trí vào việc chuyên chở những người muốn được đi ra Bắc. Nước Pháp đã phân phối cho Việt Minh độ 10 chiếc tầu để chuyên chở và ước lượng vào khoảng 16 ngàn người trên tổng số ước lượng có thể là 150.000 ngàn nhân viên đã hoàn tất chuyến đi ra Bắc rồi”. (Trích OPTF, trang 138)
Theo tài liệu trong cuốn Cuộc Di Cư Lịch Sử trang 244, thì chuyến bay đầu tiên chở người ra Bắc vào ngày 08/04/1955 và tổng cộng chỉ có 15 chuyến.
Có 1018 người được chở ra Bắc bằng phi cơ.
Và có 3340 được chở ra Bắc bằng tàu thủy của Pháp. Cộng chung là 4.358 người.
Tài liệu của Phủ Tổng Ủy Di cư rõ ràng là thiếu sót, vì không đề cập đến số lượng người được chở ra Bắc bằng tàu của Ba Lan như đã nêu trên. Vì thế con số hơn 4000 người được chở ra Bắc là không xác thực.
Tuy nhiên, có một sự thực không thể chối cãi là sau này có một số người tập kết đã bỏ trốn về miền Nam như trường hợp anh Trịnh Minh Cầm ở tỉnh Bình Định và đồng bạn. Nhật báo Cách Mạng Quốc Gia thời 1955 có bài viết tường thuật đầy đủ về trường hợp của anh Nguyễn Minh Cầm. Theo anh Cầm, đã có khoảng 300 người đã cùng trốn đi như thế với anh và họ đã vào được đến Quảng Bình, rồi từ Quảng Bình tới được bờ sông Bến Hải. Nhưng khi tới được bờ sông Bến Hải thì chỉ còn lại có 195 người, những người khác đã chết ở dọc đường. (Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, Phủ Tổng Ủy Di Cư, trang 250)
Trên những chuyến tầu chở ra Bắc của tầu Kilinski, Ba Lan, người viết có tấm hình bộ đội Bắc Việt chở ra Bắc cả một đàn voi vốn là phương tiện chuyên chở của bộ đội Bắc Việt ở Cao nguyên Trung phần.
Riêng một số người di cư được tầu Ba Lan “chở dùm” vào miền Nam thì không được cái may mắn như những người di cư được chở vào miền Nam trên các tàu Mỹ. Đó là trường hợp cuộc ra đi bất hạnh của một số đồng bào Ba Làng (Thanh Hóa) di cư vào Nam trên tầu Kilinski của Ba Lan. Và đây là lời kể lại của những con người bất hạnh đó:
“Chúng tôi bước lên tầu Ba Lan với tất cả hồi hộp và lo sợ vì chúng tôi vẫn có cảm tưởng bọn Việt Cộng sẽ đưa chúng tôi đi biệt tích một nơi nào khác, chứ không phải vào Nam. Chính vì sợ thế mà nhiều đồng bào chúng tôi không dám đi… Việt Minh chia chúng tôi làm 3 hạng, hạng “phản động” bị giam xuống đáy tầu, nóng như lò lửa. Hạng “lừng khừng”, hạng “tiến bộ” được đối xử khá hơn, bị gò ép như cá hộp, nghẹt thở và không phân biệt lúc nào là ngày và đêm. Ăn thì mỗi ngày được lưng bát cơm với một miếng thịt bò nhỏ xíu mà mặn không thể tưởng tượng… Một số đàn bà trẻ con vì nhịn đói, nhịn khát, nóng bức quá nên bị ngất đi…Thủy thủ Ba Lan trên tầu này không hề nhìn ngó đến chúng tôi.
(Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, Phủ Tổng Ủy Di Cư, trang 252)
Người Pháp cũng nhờ Hải quân Mỹ chở người tập kết ra Bắc. Vào ngày 15 tháng 8, Hải quân đô đốc Sabin đã từ chối yêu cầu của người Pháp chở 18.000 người tập kết ra miền Bắc. Và kể từ đó, Hải quân Mỹ được lệnh từ chối tất cả mọi yêu cầu chở người tập kết ra Bắc. Chúng ta không kể đến một số không nhỏ nhiều người theo Việt Minh còn lưỡng lự không muốn rời bỏ miền Nam để ra sinh sống ngoài Bắc. Cũng không kể có một số người được cài lại miền Nam để phá rối hiệp định Geneva.
Tài liệu đọc thêm: Người viết hiện đang có trong tay tập tài liệu của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ ghi lại về việc cộng sản cài người ở lại miền Nam Việt Nam như sau: Cuộc xâm lược từ miền Bắc, hồ sơ về chiến dịch chinh phục miền Nam Viêt Nam của Bắc Việt. Trong phần V của tập tài liệu có ghi như sau:
“Khi Việt Nam bị chia đôi, hàng ngàn đảng viên được lựa chọn kỹ càng và được lệnh ở lại tại chỗ miền Nam và gìn giữ guồng máy bí mật của họ cho nguyên vẹn hầu giúp tăng tiến mục đích của Hà Nội. Võ khí và đạn dược được tích trữ để sau này được đem dùng. Du kích quân trở về với gia đình để chờ lời kêu gọi của Đảng. Những kẻ khác rút vào những sào huyệt ở tận rừng sâu.
Đa số, khoảng 90 ngàn người đi ra Bắc Việt.”
(Trích tài liệu của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, trang 26)
Việt Nam Cộng Hòa sau này cũng cho xuất bản một cuốn Bạch thư nhan đề: Chính sách xâm lược của Việt Minh Cộng sản do chính phủ VNCH ấn hành vào tháng 07/1962.
Trong các con số Việt Minh tập kết ra Bắc, con số nào là chính xác? Khi những người miền Nam được gọi là “tập kết” ra Bắc, phần không nhỏ, bọn họ để lại gia đình trong Nam. Vậy con số 85.000 được chuyên chở trên chỉ một chiếc tầu thủy theo thuyền trưởng tầu Ba Lan có tin được không? Cũng không hiểu tầu Kilinski thuộc loại tầu gì? Khả năng chuyên chở tối đa là bao nhiêu? Và họ đã chuyên chở bao nhiêu chuyến từ Bắc vào Nam? Tỉ lệ quá chênh lệch (giữa hai bên) này nói gì?(1)
Những sĩ quan và quân đội quốc gia tiếp quản những khu vực do Việt Minh trao trả lại trước khi ra Bắc theo Hiệp Định Geneva
Đây là một vấn đề ít được sách vở tài liệu nói tới. Theo lời một nhân chứng, đại úy Tùng lúc bấy giờ là sĩ quan tham dự vào chiến dịch tiếp quản này kể lại như sau cho tôi như một chứng từ miệng.
Đại úy Tùng thuộc đơn vị Sub Division Nam Định. Đơn vị này trước đây thuộc quân đội Pháp và đã được chuyển giao cho quân đội Quốc gia vào năm 1954 do sĩ quan Dương Quý Phan làm Tư lệnh. Trong đơn vị này có các sĩ quan như Tôn Thất Xứng (sau này thăng Thiếu tướng) trung tá Phạm Văn Đổng (sau cũng thăng Thiếu Tướng).
Sau đó, đại úy Tùng được lệnh di chuyển vào miền Nam, tháng 07/1954. Đơn vị của ông do đại tá Lê Văn Kim (sau này thăng Trung tướng) làm chỉ huy trưởng cuộc hành quân. Tôn Thất Đính (sau thăng Trung Tướng) làm Tham Mưu trưởng đi tàu há mồm LST của Pháp đổ bộ Sa Huỳnh rồi thẳng đường đến Quy Nhơn. Tuy nhiên, việc tiếp quản lại do một tiểu đoàn dù của Tây đi trước nhận bàn giao trực tiếp từ phía Việt Minh, sau đó mới giao lại cho quân đội Quốc Gia. Sau khi tiếp quản Quy Nhơn rồi lần lượt đến tiếp quản Sông Cầu, Tuy Hòa. Cũng xin nhắc lại trước khi có Hiệp định Geneva thì nơi đây đã xẩy ra một cuộc hành quân lớn tên Operation Atlante có sự tham dự của Đỗ Cao Trí mang một Tiểu đoàn Khinh binh từ Bắc vào Tuy Hòa. Cuộc hành quân kết cục là thất bại.
Tình hình ở Quy Nhơn lúc bấy giờ nằm trong tay quân đội Việt Minh. Không có điện, nước. Chỉ ở đường phố chính có điện nhờ dùng hai dynamô của xe thiết giáp chạy bằng dầu hỏa. Việc giao thông thì có một đoạn đường xe lửa chạy dài chừng 20 kilô mét, chỉ có một toa. Không có đầu máy. Khi chạy thì người ta dùng tay nhận một cái cần từ trên xuống dưới như một thứ piston, cộng thêm sức của chừng 10 người đẩy cho toa xe lửa có đà để chạy. Khi nào toa xe ngừng lại thì xuống đẩy tiếp. Đến nơi thì họ lại nhảy xuống kéo thừng để cho toa xe ngừng lại thay cái thắng.
Tình hình dân chúng thì tỏ vẻ lạnh nhạt, nếu không nói là ác cảm với quân đội Quốc Gia. Một lần, lính Quốc Gia mang trứng gà đến nhà dân để xin luộc, dân chúng từ chối không cho mượn bếp để luộc trứng.
Sau này, quân đội Quốc Gia phải bỏ công rất nhiều, dùng tâm lý chiến để lấy được lòng dân. Đặc biệt, sau khi tiếp quản Quy Nhơn xong thì thủ tướng Ngô Đình Diệm có ra thăm ủy lạo dân chúng và sau đó, trong dân gian đã truyền tụng hai câu thơ như sau:
Mười năm không thấy cụ Hồ
Mới có 10 ngày đã đón cụ Ngô
(Còn tiếp)