Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - ĐỌC NHỮNG CHỨNG TỪ CỦA MỘT NẾP SỐNG ĐẠO MỘT THỜI

22 Tháng Tư 20231:34 SA(Xem: 2521)
GS. Nguyễn Văn Lục - ĐỌC NHỮNG CHỨNG TỪ CỦA MỘT NẾP SỐNG ĐẠO MỘT THỜI
Nguyễn Văn Lục


Mỗi lần có dịp đọc các tài liệu có liên quan đến đạo và nhìn lại quá khứ là mỗi lần rút tỉa ra được một bài học về đời sống, về nếp sống đạo của một thời trong suốt những năm trước 1945 cho riêng mình và cho những vị chức sắc trong hàng giáo phẩm trước 1954, sau 1954 và ngay cả sau 1975.

Và tôi cũng đã đọc lại cả những tài liệu được bên cộng sản mớm mồi và xuất bản như cuốn: Dieu et Cesar của Lm Trần Tam Tỉnh và bản dịch tiếng Việt, Thập Giá và Lưỡi Gươm do Lm Vương Đình Bích dịch. Đọc để mà hiểu mức độ xảo trá, lươn lẹo, bóp méo của Trần Tam Tỉnh và Vương Đình Bích.

Tôi cũng không quên một luận án tiến sĩ của Trần Thị Liên: Les catholiques Vietnamiens pendant la guere d’Indépendance, 1945-1954: entre la reconquête coloniale et la résistance communiste.

Luận án của bà Trần Thị Liên trình bày cho thấy vai trò tiến thối lưỡng nan của người công giáo trước cộng sản và vai trò Bảo Đại được sự hỗ trợ của người Pháp. Một mặt không chấp nhận được cộng sản. một mặt không dễ dàng gì hợp tác với Bảo Đại. Điển hình là vai trò của giám Mục Lê Hữu Từ lập “Khu Tự Trị” Phát Diệm (position autonome par rapport à la résistance communiste et au gouvernement de Bao Đại theo quan điểm của Trần thị Liên) Trong vai trò “tự trị” của giám mục Lê Hữu Từ. Câu hỏi đặt ra là Khu Tự Trị tồn tại được bao lâu trước áp lực cộng sản?

Cuối cùng giám mục Lê Hữu Từ cũng như Phạm Ngọc Chi cũng đành cổ súy cho cuộc di cư vào miền Nam sau năm 1954.

Quan điểm của Trần Thị Liên chỉ là một quan điểm lý thuyết “lý tưởng”. Vấn đề then chốt là “phải chọn bên” trong những hoàn cảnh thực tế, dù có những điểm không thích đáng không tránh được. Với tôi, đó là sự chọn lựa dứt khoát chối từ cộng sản một cách triệt để, không do dự, không áy náy!

Cộng sản chiếm được miền Bắc nhờ Mao Trạch Đông. Tôi vẫn cảm thấy hãnh diện là người di cư vào miền Nam theo viễn cảnh “đất lành chim đậu”. Sau này, xét về gốc gác, tôi phủ nhận mình là người miền Bắc mà coi mình mang thân phận người miền Nam trong vinh quang lẫn tủi nhục! Như thế là dứt khoát giã từ cộng sản!

image002

https://thuviendaminh.net

Trở về thực tế, tôi nhận thấy giai đoạn ấy, nó như một bức tranh toàn cảnh hiện thực sống động về con người, về những thuật ngữ nhà đạo, những từ ngữ rất chuyên biệt thường được nhà đạo dùng, về những nhân vật đạo đời điển hình, về xã hội, về chính trị thời cộng sản mà tôi đã có dịp sống những thời gian đó ở Hà Nội từ tháng 6-1946 cho đến lúc di cư. Cả một quá khứ của nếp sống đạo thời trước sống lại trong tôi; thiển nghĩ nhiều người cũng muốn được nhìn lại để lấy kinh nghiệm. Nó như một dòng chảy ký ức tuổi thơ ùa về. Nó có những vùng u tối, sai trệch. Nhưng phần lớn thể hiện sự trung thực và trong sáng như một thời một vang bóng!

Tôi đặc biệt chọn cuốn: “Chứng từ của một Giám Mục. Những câu chuyện về một thời” của Phao Lồ Lê Đắc Trọng.

Cả cuộc đời tác giả từ thuở niên thiếu đến khi chết, gắn bó với Giáo phận Hà Nội, rồi Nam Định và được dịp kể lại. Lối viết, cách trình bày vừa nhiều chi tiết nhỏ nhặt, với nhiều nhân vật đạo đời thời ấy, với sự thật thà đo đếm được, đơn sơ mà lôi cuốn. Và vì tôi cũng đã thấy, những chi tiết câu chuyện thời ấy, cho tôi cảm nhận như đã trải qua khi đọc sách như có cả tôi trong mỗi dòng sự kiện.

Tôi tìm thấy tôi trong từng chứng từ được tác giả kể lại. Như thế, nó không còn là những chi tiết, tình cảm cá nhân với cá nhân mà nó còn gắn liền với lịch sử giáo hội Hà Nội và cả Giáo Hội Việt Nam nói chung và số phận dân tộc Việt Nam bị đọa đày dưới gông cùm cộng sản bàng bạc trong mỗi biến động xã hội chính trị. Nói chung nó là một thứ gia tài, một khối nguyên liệu. Xin được chia xẻ cùng bạn đọc.

Những chi tiết vụn vặt thời niên thiếu

Thời ấy trường học hiếm lắm. Nhiều làng xã gom lại may ra có được một trường học. Người nào đi học chữ Nho là có gốc gác lắm. Nhất là các thầy lang phải đọc được sách thuốc bằng chữ Nho. Sau này nhà đạo có sách kinh bổn bằng chữ Nôm. Các bà mụ dòng Mến thánh Giá phải biết đọc chữ Nôm. “Biết đọc, nhưng không biết viết”. Việc dạy chữ đều do các thầy trong xứ Nghệ ra dạy nên được gọi là “thầy đồ Nghệ”.

Kịp khi chữ quốc ngữ ra đời. Các thầy đồ Nho bị khinh khi, bị gọi là “hủ Nho”, có móng tay dài cáu bẩn, không tắm. “Móng tay đầy ghét, gãi lưng. Bật toành toạch.”

Ngày tết, các làng bên lương có dựng những những dàn đu bằng cây tre cao đến 15, 20 thước. Trai gái từng đôi ra đánh đu kẽo kẹt từ xa cũng nghe thấy. Tiếng cười, tiếng reo inh ỏi. Bên giáo thường không tham dự vì coi là “kém nết na”. Nhiều người còn tổ chức chơi cờ người và thường được tổ chức ở sân đình. (Các quân bài được tượng trưng bằng người di chuyển theo lệnh, theo tiếng trống.)

image004

Hình ảnh bức tranh dân gian Đông Hồ hội đu – bắt trạch trong chum

Trong những tuần “làm phúc” (có cha về giảng và dâng lễ). Cha già Sinh đi cáng, đi võng, có hai người khiêng, có thầy giáo hoặc chú lớn giúp việc. Giáo dân trong họ cử người gánh mấy đôi “hòm vuông” trong đó có đồ lễ và các thứ dùng. Khi cha Sinh làm lễ, ngồi giảng hàng giờ. “Nói đến sùi bọt mép, lấy khăn lau rồi lại tiếp tục. Giáo hữu ngủ gật ít nhiều, song không một ai kêu ca giảng dài.” Kêu ca “giảng dài” là phong trào xuất hiện mãi sau này.

Có lần đi đón cha Thược. Cha cưỡi ngựa, đám rước chạy theo. Ngựa đi nhanh vì có cơn mưa. Về đến nhà thờ họ, phải đưa ngựa đi lấy thóc ăn tử tế. “Không thì cha chửi cả làng không cho ngựa ăn.”

Lễ xong, mở tiệc lớn thường là giết bò. Không có tư gia nào đủ lớn. Tiệc thường được tổ chức ngay trong nhà thờ. Khi các cha ăn tiệc, các giáo dân vây quanh để “ hầu cơm”. Khi cha Lớn Thược cười, khi cười răng vàng hiện ra, người rung rung ghế gàn như gãy.

Giáo dân kính mến các cha là thế. ”Sự quý mến đó có giúp gì cho các cha trên đường nhân đức thiêng liêng hay chỉ gúp làm nảy tính kiêu kỳ, xa cách, ủy mị, biếng nhác việc bổn phận, tạo nên một số lớp người lạ thường, kỳ dị?

(Những câu trong ngoặc kép tóm tắt/trích trong “Chứng từ của một Giám Mục”. Phao Lồ Lê Đắc Trọng, nxb Diễn Đàn Giáo Dân, trang 16-25)

Tuổi thơ và bước đường mục vụ của thầy tu Phao Lồ Lê Đắc Trọng.

Đi ở nhà thầy.

Tác giả tự đặt câu hỏi: Tại sao tôi đi ở nhà thầy?

Theo tác giả: “Họ đạo tôi ở có truyền thống đi tu.” Ngay trong gia đình của tác giả, đã có 2 người tình nguyện đi tu. Như anh của tác giả đi nhà thầy, anh thứ ba là Kính cũng đi ở nhà thầy.

Cái lý do tiềm ẩn tác giả vạch ra là đi nhà thầy lúc làm cha thì oai phong và lẫm liệt lắm. Hãy nghe kể về trường hợp cha Thược như sau:

“Ngài thích vẻ quan cách, đi đứng ăn mặc nói năng ra dáng một vị quan lớn nên quen gọi ngài là “Cha lớn Thược”, như vẫn gọi các quan lớn. Cha cưỡi ngựa mặc áo sa tanh đen, quần lụa trắng, đội nón lông có chóp bạc, chân mang ghệt lúc cưỡi ngựa. Bên cạnh có chú Tập đeo máy chụp hình, đi xe đạp.”

(Sđd, trang 31)

Hình ảnh ấy gợi nhớ đến một vị quan lại hơn là hình ảnh một linh mục sống thanh đạm, nghèo khó.

Cái cảnh ấy có khác chi cảnh các cha, các giám mục bây giờ về kinh lý các nhà xứ. Nào cờ xí, nào xe hơi đưa rước; họ có cắm cờ hội thánh, trống chiêng đội kèn Tây vang đội; giáo dân cộng với các “bà mụ” (các sơ) đứng hai bên làm hàng rào danh dự. Tiền bạc công sức đổ vào những buổi đón tiếp như thế mât bao nhiêu trong một năm? Có nhiều cha phải lên lịch, vì tuần nào cũng bận bịu phải đi dự tiệc. Tiệc 25 làm linh mục, tiệc 50 năm, đám ma các cha thầy, các sơ. Rồi còn đám cưới, sinh nhật, tiệc tiễn đưa đi xứ mới, v.v...

Trên hơn 40 năm sống ở nước ngoài, tôi chưa hề thấy có những cuộc tiếp đón lộng lãy, xa hoa như thế? Mọi việc đều đơn giản và âm thầm.

Kịp khi giám mục đi qua vội vã quỳ mọp, cúi lạy hôn nhẫn như một vinh dự hiếm có trên đời, “Con xin phép lạy cha.”…

Sau này, thầy Trọng đã làm giám mục có dịp được hỏi vị này vị kia, tại sao đi tu? Nó bắt đầu từ thuở nhỏ với những lý do rất vô tội như “thích được đi xe đạp (vì xe đạp hồi đó hiếm hoi lắm), có vị nói thấy các đáng bậc được “ăn ngon”. Còn có vị khác thích được “kéo chuông”. (Sđd, trang 33)

Nhưng nó cũng cho thấy chẳng có vị nào nói thẳng những lý do cụ thể, “rất người” của một đứa trẻ, để chỉ thấy những lý do rất cao thượng, rất lý tưởng, được coi là “ơn gọi” thúc đẩy từ Thiên Chúa như đi tu “ dâng mình cho Chúa”, vì được “Chúa gọi” bla, bla… Nó cũng có đấy! Nhưng không dễ gì cho một đứa trẻ 10 tuổi đầu bắt gặp được tiếng gọi sớm từ trên cao!

Và vị giám mục Phao Lồ kết luận một cách rất thực tế, “Cái thú từ hồi thơ ấu tồn tại, phát triển trong con người suốt đời là thế.” (Sđd, trang 35)

Sau 1975, vào miền Nam, Giám mục Trọng đã thẳng thắn nhận xét một cách thực tế như khi có giao tiếp giữa hai miền:

“Giám mục đoàn yếu, nhiều vị tuổi già, bệnh tật lại ở những vị trí quan trọng. Thiếu đoàn kết, chia rẽ theo miền, theo địa phương tuy chưa đến độ trầm trọng. Vị thì chỉ lo cho giáo phận mình, không quan tâm đến quyền lợi chung, vị khác lo bảo vệ vinh quang (học vị), hầu hết nhút nhát, sợ sệt, nhất là các vị ở miền Nam, vì luôn bị mặc cảm chiến bại.”

(Sđd, trang 256)

Còn linh mục thì sao?

Vì các vị chủ chăn giáo phận như thế thì hàng linh mục làm sao hoàn hảo được. Giám mục thế nào thì linh mục thế ấy, và có thể kém xa nữa.

Miền Bắc ít linh mục, ít phức tạp. Miền Nam, nhất là Sài Gòn nhiều linh mục, rất phức tạp. Có một số vị học hành nhiều, nhưng một số linh mục coi nhẹ căn tính linh mục, mà nặng về học vị..(…) Người Việt Nam lại quý trọng những người có bằng cấp, được nhiều sùng bái, bởi đó sự ngả nghiêng của những vị đó có thể tác hại nhiều đối với những người sùng bái.

Sự giàu có đang xâm nhập vào hàng giáo sĩ, cả Nam-Bắc. Các nhà của vị giáo sĩ đầy đủ tiện nghi, hiện đại hơn là giáo dân. Người nghèo khó đến nhà linh mục, không có chỗ mà ngồi.”

(Sđd, trang 256-257)

Mong rằng những nhận xét chân tình trên được các giáo phận miền Nam biết lắng nghe và sửa đổi.

Cơn bão thời đại: Từ ngày lễ Độc Lập làm biến đổi diện mạo tôn giáo.

Người ta thấy bắt đầu có sự xuất hiện của Việt Minh, nhất là trong dịp ngày lễ Độc Lập. Nhiều tu sinh trong Chủng Viện đã ngả theo Việt Minh, lơ là việc học tập. Bầu khí căng thẳng giữa các cha người Pháp và các thầy. Theo tác giả:

“Trong Nhà Chung Hà Nội, có mấy anh em chủng sinh rất thân Việt Minh, sùng bái cụ Hồ, ca tụng cụ Hồ từ cái khăn bông vắt vai đến đôi dép Cụ đi, như các anh Thiết, em ông Toàn, con cha Hạnh- Hùng ( nhạc sĩ Hùng Lân) con cố Hương-Hùng Thái Hoan, con cha Bộ Viết kết hợp với Bộ Hân của cha Viết, lúc này đã xuất và đứng chủ công ty vệ sinh giàu có…Bấy nhiêu anh hay tụ họp ở một buồng tầng dưới cùng nhà Tràng Tập. Họ viết biểu ngữ: “Je suis Canadien”, rồi treo ở cổng Nhà Chung. Mọi người ở Nhà Chung, các cha Tây, Ta đều im lặng.”

(Sđd, trang 41)

Muốn được đi tu, “đỗ cụ”, chủng sinh phải có một cha đỡ đầu trong suốt hành trình tu tập. Linh mục đỡ đầu được coi như người cha. Nếu có hai ba chủng sinh thì họ coi nhau như anh em. Giám mục Phao lô Lê Đắc Trọng (1917-2009) có cha nuôi là linh mục Vũ Xuân Kỷ theo phía bên kia. Cha Kỷ là đại diện cho “Ủy Ban Liên Lạc những người công giáo yêu tổ quốc, yêu hòa bình.”

(Anh tôi, Nguyễn Văn Thông (1922-1991), cùng cha nuôi với Gm Trọng nên hai người coi nhau như anh em. Sau này, Cha Trọng một cách tự nhiên gửi gắm tôi ăn học, ở nhờ người anh họ của cha là ông bà Chí Thành, ở trong nhà cùng với chị Thoa, anh Đản, chị Thiêm, chị Xuyến, Đính, v.v. Năm 1954, các anh chị ấy đều di cư vào miền Nam làm nên sự nghiệp. Chỉ trừ ông Chí Thành ở lại, bị cộng sản giam tù 10 năm, và trước khi chết mới được cho về nhà. Cha nuôi Vũ Xuân Kỷ kín đáo giúp đỡ việc thăm nuôi khi anh tôi ở bệnh viện; một phần do địa phận Hà Nội và do giám mục Trọng phụ trách; một phần khác giao cho người cháu của cha nuôi là ông Vũ Đình Liệu cũng theo Việt Minh. Ông Vũ Đinh Liệu, từ 1945, được điều vào miền Tây, Trà Vinh rồi khu 9; sau 30/04/1975 lên đến Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.)

Kháng chiến bùng nổ vào buổi tối ngày 19 tháng 12 năm 1946

Theo lời cha Trọng, mọi việc giao thiệp đều do Santeny, có quan hệ gần gũi giao tiếp với ông Hồ Chí Minh. Tác giả viết:

“Phái bộ Santeny ở ngay đầu phố trông sang nhà Thờ Lớn. Binh lính thì đóng doanh trại, thỉnh thoảng các xe díp chạy ra đường phố, ra ngoại ô, dần dần đi xa hơn nữa. Và quân ta tìm cách làm khó dễ: hỏi giấy không được, ta đắp ụ ngăn đường.. Đi làm gì? Đi đâu? Chỉ là một cách thị uy, và ta gọi đó là những cuộc “khiêu khích”. .và mỗi ngày mỗi mạnh mẽ. Ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đều sống trong bầu khí đó. (…) Thì lúc này danh từ” kháng chiến” đã bắt đầu manh nha.. Việc đắp ụ đào đường đã mở rộng ra Hà Nội khá xa, về phía bên Nam. Hà Nội mở xuống, Nam Định mở lên. (…) Đâu đâu cũng có “đội quân phá hoại” được thành lập. Xẻng, quốc trên vai, chứ không phải súng. Có lúc vui buột miệng: “Phá hoại muôn năm”. Mỉa mai! Thành thật hay bông đùa? Biết đâu lại là khẩu hiệu tiên tri! Và từ đây mà đi, chiến tranh phá hoại! Thực dân! Đế quốc phá hoại: nhà cửa , đường xá, đồng ruộng rừng sâu,của cải,mạng sống, văn hóa, mê tín, tôn giáo, tất tất cho đến ba bốn chục năm sau, lúc Liên Xô vẫn còn tồn tại. Nhân dân Việt Nam rất tán tự; Tên của Liên Xô viết tắt: CCCP, có người đọc “Các Chú Cứ Phá”. Rồi sau đó người ta tiếc!

Nhưng hối bất cập!”

(Sđd, trang 42-43)

Khu Phố Tây

Lúc bấy giờ tôi ở khu Phố Tây, phố nhà thờ Thánh Tử Đạo Phố Cửa Bắc; cái nhìn của tôi có thể khác một chút vì vị trí địa lý đặc biệt của nó.

Trong những ngày này, mặc dầu tuổi còn nhỏ, nhưng tôi cũng đã nhận ra có sự căng thẳng giữa đôi bên có thể nhận thấy được. Các con đường Khu Phố Cổ thường không được đào đắp mô, mà họ lấy tủ bàn ghế của các nhà hai bên đường phố ra chồng chất lên nhau để ngăn cản xe của Tây đi qua lại. Rồi đồn nhau trong các mô có cài lựu đạn. Người ta bảo nhau tránh xa vì trong đó có gài mìn. Nhưng chẳng hiểu Tây có biết điều đó không?

image006

Dân Hà Nội dựng chiến lũy chống Pháp ngày 19 tháng 12 năm 1946. Nguồn: OntheNet


Gài mìn hay không thì tôi không biết! Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau thì những đống tủ bàn ghế đó biến đâu mất.

Thanh niên tự vệ đục tường những ngôi nhà thuộc khu phố cổ để một người có thể chui qua được mà không để Tây đi tuần ngoài dường bắt được. Thứ nữa để thanh niên tự vệ liên lạc nhà nọ với nhà kia mà không bị lộ. Chính tôi thường len lỏi giữa nhưng căn nhà đó tìm kiếm của dư thừa mà người di tản còn để lại như gạo muối đường. Tôi nghĩ mình tự nhiên biến thành loài chuột lúc nào không hay!

Tôi cũng nhận thấy tự nhiên Khu phố Tây bình thường đông người qua lại bỗng vắng bóng cảnh các bà đầm dắt con nhỏ đi lại như trước. Câu lạc bộ các sĩ quan không quân Pháp nằm sát cạnh bên sườn nhà thờ Cửa Bắc, những ngày thứ bảy, chủ nhật đều có ăn uống, âm nhạc, nhảy đầm cũng êm ắng. Lính Tây say rượu cũng không thấy nữa!

Hình như mọi người đang chờ đợi một điều gì đó sắp xảy ra! Trong chờ đợi căng thẳng người ta tự hỏi bao giờ?

Rồi khoảng 9 giờ tối ngày 19 tháng 12, năm 1946, súng nổ tắc bọp, tắc bọp liên hồi từ đâu vọng lại. Xen trong tiếng tắc bọp là tiếng súng liên thanh của quân Pháp nổ ròn. Đấy là sự khác biệt mà người ta nhận thấy về vũ khí của đôi bên. Việt Minh cho nổ nhà đèn, thành phố Hà Nội tối om. Người ta bắt đầu hoảng sợ thật!

Dưới mắt một đứa trẻ như tôi chiến tranh đã khởi đầu một cách kỳ lạ như thế!

Lúc ấy, đang ở nhà thờ xứ Cửa Bắc, tôi cùng vài đứa trẻ khác chỉ kịp chui xuống hầm cầu thang gác dẫn lên từng lầu hai. Cha chính xứ lúc bấy giờ là cố Caillon, người to con, râu xồm, tiếng Việt quen gọi là Cố Năng, đành núp dưới cái bàn ăn. Nấp như thế chỉ là một bản năng tự vệ nhất thời.

Đối diện nhà thờ Cửa Bắc là sở Hành Chánh Tài chánh của Pháp nằm trên Con Đường Đôi (Vì có hai chiều xe cộ lưu thông)


Đối diện nhà thờ Cửa Bắc, gần Cửa Bắc thành Hà Nội trên đường Phan Đình Phùng. Nguồn: Google Maps

Ngay từ buổi sáng ngày 19, Tây hình như biết trước đã chuẩn bị sẵn sàng ứng chiến với hai xe tăng chặn hai bên cửa Sở Hành Chánh Tài Chánh, coi như bản doanh của Tây, chĩa súng đại liên ra ngoài. Sau này, tôi biết Santeny ngay buổi tối 19, bị thương nhẹ ở chân được đưa vào trú ngụ trong Sở Hành Chánh Tài chánh.

Sáng hôm sau hầu như yên tĩnh trở lại, tôi chỉ thấy vài cây súng xưa, phần lớn là những khẩu súng gỗ lẫn với vài thanh kiếm hoặc mã tấu và cả tầm vong vạt nhọn, v.v... vứt la liệt đối diện con đường Đôi, trước Sở Hành chánh tài chánh. Có thể không ai tin, nhưng sự thật chính mắt tôi nhìn thấynhư thế.

Sau này tôi còn được biết bộ đội chính quy của Hồ Chí Minh, Trường Chinh với Võ Nguyên Giáp, người khởi động cuộc chiến, đã rút ra khỏi thành phố trước ngày bùng nổ kháng chiến để bảo toàn lực lượng, chỉ để lại đám “thanh niên tự vệ” làm bia đỡ đạn thay cho bộ đội chính quy.

Đấy cũng là một mặt khác của cuộc chiến này!

image008

Quân Việt Minh thiết lập điểm chiến đấu chống Phap tại chợ Đồng Xuân ngày 19 tháng 12 năm 1946. Ảnh: TTXVN

Họ, những thanh niên tự vệ thành đã là những người hy sinh đầu tiên cho cuộc chiến tranh này. Và họ đã cầm cự như thế giữa các khu phố cổ chừng hơn tháng sau thì không còn bóng dáng một ai nữa. Họ đã rút đi? Hay đã bị bắt, bị giết?

Con số là bao nhiêu không ai biết được! Cho đến bây giờ cũng không ai biết. Họ trở thành những chiến sĩ vô danh làm viên gạch lót đường! Tôi thiết nghĩ, cần có một tượng đài vinh danh họ mới phải!

Tây hình như đã làm chủ tình hình ngay từ đầu ít nhất là trong các khu phố Tây. Chiến tranh như một trò đùa hư thật, thật hư!

Cũng vào buổi sáng ngày 20, tôi đã tò mò leo lên gác chuông nhà thờ, cao chừng 30 chục mét Từ nơi đây, có thể nhìn ra phía bờ đê sông Hồng cách đó không xa; người ta có thể nhìn thấy đoàn người gồng gánh, trẻ một bên thúng, thúng bên kia là đồ đạc; họ bồng bế nhau, hoặc kéo xe bò, xe kéo lũ lượt ra khỏi thành phố sơ tán. Nó như một đám rước rồng rắn!

Đó là cái cảnh ấn tượng nhất mở đầu cho cuộc chiến tranh này! Chưa gì dân đã bỏ chạy.

Nhưng ngược lại, có nhiều giáo dân khá giả trong khu phố Tây, thay vì sơ tán, họ đã chạy vào nhà xứ thay vì chạy ra khỏi thành phố. Trong số người ấy, đặc biệt có ông bà chủ hãng xe đòn đám ma Đức Bảo. Tôi nhận ra họ vì trước đó đã xem nhiều đám ma. Tuổi thơ vô tội , tôi chỉ nhớ từng đó chi tiết. Tôi nhớ ông bà Đức Bảo còn gọi chúng tôi phát chút tiền nhỏ; làm sao quên được!

Bên sở Sở Hành Chánh Tài Chánh, chắc là theo yêu cầu của Cố Năng, Tây cho phát gạo, muối, đường cho dân chạy loạn.

Dân chúng bỏ chạy và dân chúng ở lại. Ai là người theo Tây?

Thầy Trọng, ở khu Đại chủng viện, ông đã viết lại như sau,

“Lúc ấy đang là trưởng Tràng thì trước đó, giám Mục Thịnh-Francois Chaize Thịnh đã dự đoán những công việc có thể sẽ xảy ra, ngài đã đạp xe lên Đại chủng Viện, dắt xe vượt qua các ụ đất để trấn an các thầy và hứa sẽ có cha Phạm Bá Trực- đại biểu Quốc Hội, làm chánh xứ Hà Đông sẽ làm trung gian đàm phán với Việt Minh.

Tối ngày 19-12-1946 Việt Minh xông vào Đại chủng viện Xuân Bích(St. Sulpice), khi mở cửa thì một anh du kích cầm quả lựu đạn. Lựu đạn lóe sáng, chúng tôi sợ quá, chạy tán ra. May quá, lựu đạn không nổ. Họ bắt chúng tôi giơ hai tay..(..) Trong khi đó thấy họ dẫn các cha từ trên gác xuống… Các cha đi hàng một, cha Bề Trên đi đầu, đi lặng lẽ, có liếc mắt nhìn chúng tôi. Không ai nói với ai nửa lời.”

(Sđd, trang 49)

Họ ra tay lục soát, phá phách. Các cha giáo đều là người Pháp như cha Bề trên Paliard, cha Đoan(Uzemeauc), Cha Gastine (Tín), Cha Courtois. Không biết họ dẫn các cha đi đâu. Sau này họ bị trục xuất. Phần những thầy, họ cho tập trung vào một chỗ giao cho ba thầy Quí, Trình và Trọng không được để ai chạy trốn.

Theo tác giả, khi giải tán, mạnh ai nấy đi, chỉ trừ mấy thầy quê ở Hà Nội, nghĩa tử của các cha Pháp ở lại. “Trong đó có thầy Tông, thầy Tiệp, Trương, Mai liều chết ở lại.” (Lm Phêro (hay Peter) Hoàng Quốc Trương di cư vào Nam, du học Mỹ, về và dạy tại Đại Học Khoa Học Sài gòn và Viện Đh Đà Lạt.)

Lúc đó giám mục Phao Lô Lê Đắc Trọng đã làm Giám Mục Phó, địa phận Hà Nội.( Sau khi Giám mục Thịnh mất, Đức Cha Khuê lên làm Tổng giám mục rồi làm Hồng y cũng qua đời. Tổng giám mục Phạm Đình Tụng thay Giám mục Trịnh Như Khuê và yêu cầu Lm Trọng làm giám mục Phó Hà Nội để giúp đỡ; TGM Tung sau là Hồng y. Giám mục Trọng kết luận:

“Sau năm mươi năm, các thầy giáo về chầu Chúa hết. Cả trăm học trò do các ngài đào luyện, chỉ còn lại Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng, cha Phao lồ Lê Đắc Trọng, cha Chinh Gioan Đỗ Tông, Cha giáo Giu se Nguyễn Ngọc Oánh, cha già Bàng, cha Cương (Hải Phòng), cha Khiết, cha Khuất (Hưng Hóa)Cha Khẩn, hai cha Lịch, cha Dương(miền Nam).

Tất cả chỉ còn có thế. Con số còn lại nhỏ đi dần dần gần với tuổi 80 hay ngoài 80. Tuy vậy, ảnh hưởng Xuân Bích trong 2/3 thế kỷ. Và hy vọng còn kéo dài trong nhiều thế kỷ mặc dù chính biến đêm 19 tháng 12, 1946 chấm dứt hoạt động của trường Xuân Bích Hà Nội.”

(Sđd, trang 53)

Câu kết luận thực tế thật là buồn. Vì chiến tranh đã xóa sổ một phần tổ chức sinh hoạt nhà đạo. Ngay từ đầu cuộc chiến tranh, cộng sản đã không tha công giáo!

Cuộc chiến tranh Việt-Pháp trở nên toàn diện

Việt Minh mỗi ngày mỗi thắng thế. Hà Nội là khu do Pháp nắm giữ. Ngoài Hà Nội có khu Tự trị như Phát Diệm. Ra khỏi Hà Nội có khu làng Thạch Bích, gọi là “làng Tề” (allié), có nghĩa quân Pháp đã dẹp hết Việt Minh, lập đồn bốt, có chính quyền riêng. Nhiều khi quân Pháp chiếm nhà thờ, lấy tháp chuông nhà thờ làm đồn bót. Tháp nhà thờ vừa là nơi canh gác, vừa là nơi bảo vệ làng. Chung quanh làng có rào kẽm gai, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Có lính canh gọi là thân binh (Partisans).

Vì thế, những người muốn “dinh tê” về Hà Nội thì đi lối vào Thạch Bích, rồi sau đó có thể an toàn vào Hà Nội.

Tác giả Lê Đắc Trọng Trọng viết:

“Trước hết, tôi xin một giấy sơ tán lên Bắc Giang. Đã nói khu Bắc Giang (Việt Bắc) mới là khu an toàn. Và xin đi Bắc Giang là đúng hướng. Khi định tâm cứ hướng Bắc mà đi, thế nào cũng phải qua Hà Nội. (…) Qua Hà Nội thì phải qua Thạch Bích trước đã. Tới được Thạch Bích là an toàn. Thạch Bích lúc này là làng Tề, có bót, có súng.

Vào một ngày tháng 8-1947, chúng tôi quyết định lên đường “dinh tê”, tôi và anh tôi mặc quần đùi, áo mai ô, đeo bị cói đựng ít quần áo, đầu đội nón, chân đi đất. Ra khỏi làng, lúc 3 giờ sáng, trong mình có mang giấy tản cư lên Bắc Giang. Lên đường nhằm thẳng Thạch Bích, nghĩa là thẳng Hà Nội mà đi. Có ai hỏi thì nói chúng tôi đi Bắc Giang. Tới Thạch Bích, chúng tôi nghỉ vài hôm, chúng tôi nhập một đoàn công voa tới Hà Nội an toàn.(…) Ít lâu sau, anh tôi lại đưa được thầy Trịnh Văn Căn, sau này là Hồng Y, Tổng giám mục Hà Nội về học như đã đưa tôi. (…)

Tôi còn biết một nhân vật có tiếng giàu có, làm Giám đốc Sở Rượu Hà Nội. Và từng làm Phó Đốc Lý thời Pháp, từng là kỹ sư ở Pháp về. Đang tản cư ở khu Vân Đình, ông phải giả vờ tận tụy theo kháng chiến, lập một xưởng máy ở đó, y như muốn cắm ở đó mãi mãi. Thế rồi bất thần bỏ lại mọi sự trốn vào Hà Nội.

Mỗi người tìm một cách riêng đi vào Hà Nội.

Sđd, trang 60

Một cách gián tiếp cho thấy mọi người đều lo trốn chạy cộng sản trước 54 và sau 1975 cũng vậy.

Lễ truyền chức cho cha Trọng

“Lúc ấy không mời được họ hàng. Chỉ còn hai anh chị em con dì tôi sót lại Hà Nội: anh Nguyễn Khắc Chí (Chí Thành), bị quân đội Pháp giam, nay về nhà. Trước đây anh chị có bảy, tám xe ca chở khách, nay chẳng còn gì. Còn những anh chị em khác ở cách Hà Nội 26 cây số mà không về được.

Lễ truyền chức vào ngày 1-4-1948, Chúa nhật thứ IV Mùa chay. Hai tân linh mục, với người dự lễ ngồi đủ các ghế nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Thái Hà, do Đức cha Thịnh truyền chức…(..)

Truyền chức xong, Nhà Dòng thiết một bữa tiệc mừng ngay tại nhà cơm của Dòng (không ăn ở nhà cơm riêng của chủng sinh.) (..)

Chủ nhật sau lễ Phục sinh, tôi về làm lễ mở tay ở nhà thờ Cửa Bắc.. (Anh họ tôi, Chí Thành làm Trùm xứ Cửa Bắc nên có mở một bữa tiệc nhỏ ở nhà số I, phố Hồng Phúc, là nhà Tổ của chị họ tôi. Khách tiệc vỏn vẹn chỉ có mấy chục anh em chủng sinh Hà Nội trọ ở Dòng Cứu Thế như tôi.”

(Tóm tắt Sđd, trang 65- 67)

Tình thế chiến tranh kéo dài, bất lợi cho người Pháp

Từ khi Mao Trạch Đông lãnh đạo nước Tầu năm 1949 cung cấp vũ khí đạn dược cho Việt Minh, tình thế trở nên bất lợi cho người Pháp. Bảo Đại viết:

“La menace de communiste chinoise se confirme, les troupes de Mao Tsés-toung sont entrées à Pekin le 22 janvier.”

S.M. Bao Đai, Le Dragon d’Annam, nxb Plon. 1980. trang 217

(Sự đe dọa của cộng sản Tàu đã rõ rệt, quân đội của Mao Trạch Đông vào Bắc Kinh ngày 22 tháng hai.)

Phía Pháp phải tìm một giải pháp ngoại giao để đàm phán với Tàu cộng. Bảo Đại liệt kê các tên tuổi.

Phía phái đoàn Pháp cỏ chủ tịch là ông Herzoc cùng với các ông Marolles, De Pereyra, de Raymond, Risterruci. Và một số chuyên gia quân sự.

Về phía Việt Nam có Hoàng thân Bửu Lộc, một luật sư ở Paris cùng với quý ông Nguyễn Đắc Khê, bác sĩ Phan Huy Đán, Phan Văn Binh, Trương Công Cừu, Nguyễn Quốc Định, Đinh Xuân Quảng, Trần Văn Hữu. (S.M Bao Đai, “Le Dragon d’ANNAM”, trang 218-219)

Giải pháp ngoại giao gặp bế tắc và thất bại mặc dầu đã được long trọng ký kết bởi đôi bên tại Vinh Hạ Long.

Và người Pháp quyết định đưa một danh tướng là De Lattre de Tassigny sang phụ giúp chính phủ Việt Nam lâm thời- lúc ấy còn nằm trong Chính phủ Liên HIệp Pháp- là thủ tướng Trần Văn Hữu.

Trước khi sang Việt Nam, De Lattre đã xin yết kiến Giáo Hoàng Pio XII. Và xin chúc lành của tòa thánh Vatican cho sứ vụ của De Lattre.

Tóm lược cuốn “Le Dragon d’Annam” của S.M Bao Dai.

De Lattre đến Sai Gon vào đầu tháng 12-1950 với vai trò vừa là Cao Ủy Đông Dương, vừa là đại tướng trong quân đội thay tướng Carpentier. Sau đó ông bay ra Hà Nội dự ngày kỷ niệm một năm trận chiến 19-12-1949. Tướng De Lattre de Tassigny muốn mời Bảo Đại duyệt binh để chúng tỏ sức mạnh của quân đội Pháp và Việt Nam.

Sau đó, ông xây dựng một quân đội Việt Nam hiện đại bậc nhất ở Viễn Đông. Ông chỉ định đại tá Nguyễn Văn Hinh1 đứng đầu quân đội, một sĩ quan không quân từng tham dự chiến tranh thế giới năm 1944-1945; Hinh là con trai của Nguyễn Văn Tâm. De Lattre đã mở màn bằng một vài chiến thắng quyết định ở Vĩnh Yên, rồi đến Mao Khê và BenTam.

Những cuộc hành quân do tướng De Lattre thực hiện đã làm tướng Võ Nguyên Giáp suy yếu và buộc phải rút lui vì những trận mưa bom lửa dội xuống đầu họ chết cháy cũng nhiều. Con duy nhất của đại tướng De Lattre, trung úy Bernard đã chết trận tại Ninh Bình vào ngày 30 tháng 5, 1951. Thi hài của Bernard de Lattre de Tassigny đã được đưa về Hà Nội. Một buổi lễ cầu hồn dự định sẽ được tổ chức với sự tham dự của De Lattre và thủ tướng Trần Văn Hữu.

Theo John Colvin, Tướng de Lattre de Tassigny tổ chức lễ cầu hồn cho con tại Nhà thờ lớn Hà Nội/ Nguồn: Volcano under snow: Vo Nguyen Giap, John Colvin, 2001, trang 94

De Lattre đã nói với Bảo Đại:

“Sire, mon fils Bernard n’est pas mort pour la France. C’est pourtant la mention qu’on inscrira dans sa tombe. Mais ce n’est pas exact. A Ninh Binh, Bernard est mort pour le Viêt Nam.”

S.M Bao Dai. Le Dragon D’Annam, nxb Plon, 27-11-1979. trang 279

“Thưa Bệ Hạ, con trai của tôi không chết cho nước Pháp. Mặc dầu vậy người ta sẽ ghi trên tấm mồ của nó là chết cho nước Pháp. Nhưng điều đó không chính xác. Ở Ninh Bình, Bernard đã chết cho Việt Nam.”

Jean de Lattre de Tassigny

image011

Tướng Jean de Lattre de Tassigny hôn áo quan của Bernard de Lattre de Tassigny trước khi hạ huyệt ở Briitany, Pháp. Bên cạnh là Simonne.DE LATTRE, mẹ của Bernard. Nguồn: © LIFE magazine số 25 tháng Sáu, 1951, trang 27.

Cuộc đối đầu giữa cha chính Nguyễn Văn Vinh và đại tướng De Lattre

(Chuyện bên lề giữa cha Vinh và De Lattre.)

Cha chính Vinh vốn du học nhiều năm bên Pháp, trước 1945, rồi bị kẹt ở lại Pháp vì đệ nhị thế chiến 1939-1945, sau này ông cũng đối đầu với Việt Minh trong vụ treo cờ Việt Minh dịp lễ Noel và đã bị đầy lên trại Cổng Trời và đã chết ở trên ấy.

(Đại úy nhảy dù Kiều Duy Vĩnh của quân đội Quốc gia Việt Nam ở lại miền Bắc, sau bị đầy lên trại Cổng Trời, ông viết “các vị thánh Tử Đạo” đăng trong tập san Thế Kỷ 21. Khi được thả ra, ông cho hay chỉ còn hai người sống sót: ông Nguyễn Hữu Đang và Kiều Duy Vĩnh; Kiều Duy Vĩnh qua đời tháng 7-2012 tại Hà Nội.)

Tướng De Lattre trong lễ cầu hồn cho Bernard de Lattre de Tassigny, đòi ngồi một mình trên Cung Thánh, bất kể đến vai trò của thủ tướng Trần Văn Hữu. Tướng De Lattre vaf Lm Vinh tranh cãi gay gắt về việc sắp xếp chỗ ngồi. Sự việc kết thúc khi thủ tướng Việt Nam Trần Văn Hữu tự nguyện rút lui2.

Sau này, Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê, phải đổi cha Vinh về dạy học ở Chủng viện Pio XII. Cha Vinh đã tuân lệnh Bề trên về chủng viện dạy học. Tôi có dịp được cha dạy tiếng Anh và cả tiếng Pháp.

Chỉ ít tháng sau, Tướng De Lattre cũng bị bệnh và chết sau một cuộc giải phẫu.

Tiếc cho một nhân tài quân sự, tiếc cho một người hết lòng chiến đấu cho một Việt Nam độc lập3 và giả dụ nếu ông còn sống, có thể không có một Điện Biên Phủ xảy ra chăng?

Sau 1954, hàng giáo sĩ và giáo dân lũ lượt bỏ đi Nam. Lợi hay hại?

Theo cha Trọng: Trước 1954, đường đi xuôi đầy nguy hiểm vì chỗ nào cũng gài mìn. Nhiều khu Tề là hai mang: “Ngày Tây, đêm Việt Minh. Và người ta bảo nhau: Đừng đi ô tô kẻo dễ bị mìn. Cứ đi xe đạp, đi giữa đường, chỗ nào vết gì khác thì tránh, hai bên vệ cỏ cũng nên tránh, vì hay có mìn.” (Sđd,trang 73) .

Khi ấy tôi cũng chứng kiến nhiều cảnh người chết vì mìn, nhất là trên con đường số 5 giữa Hà Nội-Hải Phòng. Nhìn những xác chết đàn ông, đàn bà, bị ám khói đen tôi vừa sợ sự tàn độc của Việt Minh, vừa oán hận họ.

Khi có cuộc di cư, tôi thấy đây là một dịp may nên sẵn sàng ra đi.

Người ta lo sợ cho tương lai nên nhiều người có quyền thế, có máu mặt phải tính trước. Ông Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu, nổi danh một thời theo Tây đã biếu không khu đất ở Thái Hà Ấp rộng mênh mông bát ngát cho các cha Dòng Chúa Cứu Thế Tây, ít ra được các cha giữ hộ.

Những người như ông Chí Thành, sau 1954 được cộng sản để làm như công chức lưu dụng, ít lâu sau được đi nghỉ 10 năm ở trại tập trung Yên Bái, mang bệnh và được cho về chết ở nhà.

Sau 1975, nó cũng rập một khuôn mẫu như vậy. Cho nên, chẳng lạ gì, khi có cuộc di cư vào miền Nam, người dân bỏ làng bỏ xứ ùn ùn kéo nhau đi, bỏ lại tất cả.

Giám mục Seitz Kim ở khu Quần Ngựa. Cha tụ tập trẻ mồ côi ngoại thành Hà Nộ về cơ sở lớn nuôi trẻ đang sống lang thang đầu đường xó chợ, dạy nghề cho họ ở Khu Lacordaire, Quần Ngựa. Sau này giám mục Seitz ( Kim) trao lại nhà Lacordaire cho các cha dòng Don Bosco. Họ đã đào tào được nhiều trẻ thành người có nghề nghiệp. Năm 1950, khu Quần ngựa được chuyển thành chủng viện Pio XII.

Rồi gần 1 triệu người một lòng cuốn gói vào miền Nam năm 1954. Một triệu người là con số không nhỏ. Ai có thể khuyến dụ và thuyết phục người dân bỏ nhà bỏ cửa, bỏ mồ mả tổ tiên, bỏ lại xóm làng tất tưởi, bồng bế nhau, già trẻ lớn bé vào nơi đất lạ?

Đó là một di cư muôn phầnbất định, không ai biết trước tương lai sẽ như thế nào?

Giám mục Kim trong coi giáo hạt Kontum, chăm sóc sẽ các dân thiểu số ở đây. Sau 1975, ông cũng bị cộng sản trục xuất.
Theo cha Trọng:

“Lý do chính yếu là họ sợ hãi cộng sản. Nhất là các địa phận thuộc các cha Tây Ban Nha trông coi. Riêng Hải Phòng, giám mục Trương Cao Đại đi đầu tiên và hầu như chỉ còn vài cha già ở lại. Các địa phận Phát Diệm với Giám Mục Lê Hữu Từ và cha Hoàng Quỳnh, Tổng bộ Tự Vệ dĩ nhiên phải bỏ đi. Và Bùi Chu với giám mục Phạm Ngọc Chi theo chân Giám mục Lê Hữu Từ cũng bỏ đi vào Nam.”

Chẳng biết, giám mục Lê Hữu Từ còn nhớ những bức thư ve vãn, đầy nhân nghĩa gửi liên tiếp cho ông không? Những lá thư đề ngày23/01/ 1947, 11/01/1947, 01/02/1947 rồi 17/02/1947? (Trần Tam Tỉnh, Dieu et César. Les catholiques dans l’histoi re du Viet Nam. Trong Ho Chi Minh et Lê Hữu Từ, trang 65-67).

Có lẽ càng nhớ ông càng thấy bị lừa và đi cho nhanh vào miền Nam!

Riêng Hà Nội, Tổng giám mục Trịnh Như Khuê cấm các cha bỏ đi. Và chỉ cho các chủng sinh của Chủng viện Pio XII và các cha giáo di cư được vào miền Nam.

“Tuy vậy cũng 80 cha bỏ đi còn lại khoảng 100 vị ở lại. Trong đó còn lại Khâm sứ Dooley (người Ái Nhĩ Lan), các cha thừa sai Pháp ở lại và có một số linh mục trẻ, đầy năng động, du học ở ngoại quốc về như Phạm Hân Quynh, Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Văn Vinh, Nguyễn Ngọc Oánh.”

Sđd, trang 358

Theo tài liệu gia đình, anh tôi là người đi ngược chiều, hàng triệu người đã bỏ miền Bắc vào miền Nam. Chỉ có anh tôi và cha Nguyễn Ngọc Oánh quay trở về Hà Nội.

Cha Nguyễn Văn Thông trước khi ra Bắc, có về Saigon để thăm viếng gia đình và gặp cha Nguyễn Huy Mai, giám đốc chủng viện Pio XII di cư vào miền Nam. Cha Mai muốn giữ cha Thông ở lại dạy chủng viện. Nhưng Giám mục Khuê viết thư vào cấm cha Mai giữ cha Thông và cha Oánh ở lại.

Mẹ tôi đau khổ không nói gì, phần bố tôi đòi về Bắc với anh. Cha Thông khuyên bố tôi ở lại lo cho gia đình.

Theo Cha Quynh, lúc đó làm thư ký tòa Giám Mục. “Chính cha Quynh lúc đó cũng vừa kịp thời viết thư mời gọi cha Thông và cha Oánh về nước”

(Nguyễn Khắc Đại “Phạm Hân Quynh. Con người- Sự kiện- Giai Thoại.” nxb TRỜI ĐẤT MỚI, Cộng Hòa Liên Bang Đức, tháng 11-2012, trang 77)

  • Ngày 29 tháng tư-1955, Cha Thông và cha Oánh về đến Hà Nội.Từ 1955 đến 1957, làm việc ở Tòa Tổng Giám mục Hà Nội.
  • 1957, Đại Chủng Viện được mở cửa trở lại. Cha Thông được chỉ định làm giáo sư Đại Chủng Viện.
  • 1960 Đại chủng viện bị đóng cửa, cha được chỉ định làm phó xứ nhà thờ lớn Hà Nội.
  • Trong thời gian này, cha chính Vinh (du học trước 1945) có tổ chức các lớp giáo lý vào mỗi tối thứ hai hàng tuần cho giới trẻ, thứ tư cho các ông và thứ sáu cho các bà.
  • Khởi đầu, nghe một cha thuyết trình về một bài giáo lí. Có ba cha luân phiên nhau thuyết trình là cha Thông, cha Oánh và cha Quuynh. Cha nào giảng cũng hay, cũng hấp dẫn, nhưng cha Quynh có phần dí dỏm hơn. (…) các buổi giáo lý mới đầu từ vài chục đến hàng trăm người. Nay lên đến trên hai ngàn nguời.(…) Dẫu sao thì đây cũng là những nỗ lực của cha Thông, cha Oánh và cha Quynh, đã kịp thời làm được ích lợi cho Giáo hội trong những ngày đầu sống chung”. (Nguyễn Khắc Đại, sđd, trang 93)
  • Các buổi giáo lý mới khởi sự từ giữa năm 1955 sang đến năm 1956 thì bị chính quyền cộng sản lo ngại và dẹp bỏ vì được nhiều người hưởng ứng.
  • 12-10-1964, 7 giờ sáng, cha Thông bị dẫn ra tòa án thành phố nghe lệnh bị bắt giữ, rồi tống giam vào Hỏa Lò. Công an đến lục soát phòng cha ở trong một ngày và tịch thu một số tài liệu và sách vở.
  • Cha Thông Bị giam ở Hỏa Lò 4 năm, sau bị đưa đi Trại Cổng Trời, Hà Giang được coi là gian khổ hơn cả. Rồi chuyển về Lào Cay. Sau đó một lần nữa bị quay về Trại Cổng Trời. Sau đó quay về Hỏa Lò bị giam 18 tháng.
  • Cuối cùng bị đưa về quản thúc ở xã Thọ Cách (Ý Yên Nam Định) từ lễ sinh nhật 1976 đến 4-9-1987. Tòa tuyên án 13 năm tù ở và ba năm quản chế. Nhưng thay vì quản chế 3 năm tính ra là 11 năm. Cộng chung là 24 năm bị giam cầm, bị hành hạ, bị đầy đọa


Sau này, một số thanh niên cũng bị bắt vì học giáo lý với cha cho hay đây là một vụ án xử công khai, có loa phóng thanh ra ngoài. Cha bị kết án nhiều tội, nặng hơn cả là tội làm gián điệp.

Đây là cái tội nặng nhất và vu vơ nhất. Gián điệp cho ai và ai thuê mướn?

Trong số các linh mục du học về giúp địa phận Hà Nội. Không một ai thoát nạn. Cha Vinh bị giam tại Cổng Trời và chết trên đó. Cha Thông cộng chung 24 năm tù. Cha Phạm Hân Quynh bị bắt ngày 8-10-1960, biệt giam tại một nhà xứ Hải Phòng hẻo lánh trong 28 năm. Bốn năm quản chế ở Đồng Giới. Bốn Năm quản chế ở Đồng Duệ. Bốn năm quản chế ở Cầu Thượng. Cuối cùng còn lại bị quản chế tại Xuân Hòa. (Nguyễn Khắc Đại. Sđd, trang 221)

Người bị nhẹ nhất là cha Oánh, bị giam tại một nhà xứ cách Hà Nội vài chục cây số. Năm 2005, tôi có về thăm cha, ông chỉ còn là một ông già nhút nhát, sợ sệt không dám thổ lộ một chút xíu gì về anh tôi cả.

Gớm thay cho sự tàn độc của cộng sản giết người từ từ cho đến lúc suy tàn, mất tính người. Khi anh tôi được thả về, vào miền Nam, anh ấy hầu như mất tính người qua lá thư anh gửi cho tôi sang Canada.

Cha Trọng ghi nhận như sau:

“Song le, các ngài cũng là mục tiêu để người ta nhắm mà tiêu diệt. (…) Đã là tín hữu, là tư sản, là trí thức, tất nhiên lúc này được xếp vào hàng “địch”. Đàng này còn là trí thức công giáo nên là địch gấp đôi. Bởi đó tất cả các vi linh mục có trình độ cao, ở ngoại quốc về đều trở thành mục tiêu. Và không một vị nào được an thân. Cha chính Vinh bị đi tù và chết trong tù, cha Thông ở tù hàng chục năm cho đến lúc mất tính thì đi quản chế… (…)

Ấy cái định mệnh linh mục trí thức ở Hà Nội là như thế. Người ta thu xếp để các ngài chẳng làm được việc gì.

Và có làm thì chỉ có mà chết.”

Sđd, trang 358-360

Cuộc di cư 1954-1955

Tôi thiển nghĩ phần này đã có quá nhiều người viết nên xin dừng lại ở đây. Trong một bài viết nhan đề Nhìn lại cuộc di cư 1954-1955, tôi đã ghi lại hình ảnh gây ấn tượng và xúc động nhất là có một người đàn ông tật nguyền cụt chân đến đầu gối và ông phải dùng hai tay để đi. Ông đã không muốn nhờ đến các thủy thủ Mỹ và tự mình leo lên tầu.

Tôi tự hỏi, một người cùng khổ như ông, có lý do gì để ông phải từ bỏ miền Bắc vào miền Nam? Chỉ vì một lý do rất đơn giản là: Hễ đã là cộng sản thì con người muốn làm người không thể sống chung được!

Nhân dịp 30/04.

© 2023 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline biên tập, trình bầy và phụ chú.

1 Nguyễn Văn Hinh (1915-2004), sinh tại Mỹ Tho, quốc tịch Pháp, du học và theo chương trình giáo dục của Pháp từ Tiểu học cho đến khi học xong Tú tài II. 1936 gia nhập quân đội Pháp, 1937 tốt nghiệp trường Võ bị Không quân Salon de Provence, Pháp với cấp bậc Chuẩn úy. 1944 Hinh tham gia Lực lượng Pháp quốc tự do chống phát xít, được thăng cấp Thiếu úy, Chỉ huy trưởng Liên Phi đoàn oanh tạc và chiến đấu tại Blida, Algerie, Bắc Phi. Sau Thế chiến, ông theo đoàn quân Viễn chinh đi khắp các xứ Thuộc địa của Pháp trước khi trở về Việt Nam. 1948, phục vụ trong Quân đội Liên hiệp Pháp tại Việt Nam, thăng cấp Trung úy và được cử làm Sĩ quan Tùy viên cho Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân. Giữa năm 1949, ông thăng cấp Đại úy chính thức gia nhập Quân đội Quốc gia và được cử làm Chỉ huy trưởng Phi đoàn Vận tải GT/62. Đầu năm 1952 ông Hinh được Quốc trưởng Bảo Đại thăng cấp Đại tá. Tháng 3 cùng năm ông được thăng cấp Thiếu tướng và được chỉ định làm Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam.

2 Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, Chân dung linh mục Việt Nam: cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh

3 Từ tháng 12 năm 1950 đến tháng 11 năm 1951, de Lattre chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Quốc gia Việt Nam (tiếng Pháp: État du Viêt Nam) là một chính phủ thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, trong giai đoạn từ giữa năm 1948 đến 1955. Tuy nhiên, về hình thức, Quốc gia Việt Nam gần như là một nước quân chủ chuyên chế do chưa có Hiến pháp và Quốc hội với Quốc trưởng là cựu hoàng Bảo Đại (được Pháp công nhận). Trong thực tế thì quyền cai trị vẫn thuộc về Pháp, với Cao ủy Pháp kiểm soát tài chính, thương mại, quân sự và chính sách đối ngoại của Quốc gia Việt Nam. Tướng de Lattre chỉ huy quân đội Pháp đánh nhau với Việt Minh


 

30 Tháng Ba 2019(Xem: 9536)
Cho nên, nay kết quả cuộc điều tra mang lại thắng lợi cho TT Trump và đảng Cộng Hòa cầm quyền - nếu không gì xảy ra bất ngờ - thì TT Trump sẽ tái đắc cử dễ dàng hơn trước đây.
28 Tháng Hai 2019(Xem: 10919)
Một số nhận định sau đây về tư duy phản biện, tư duy sáng tạo, đức dục, và triết lý giáo dục Việt Nam và Hoa Kỳ qua thu thập tài liệu rất hạn hẹp và kinh nghiệm cá nhân của tôi do đó rất chủ quan...
25 Tháng Hai 2019(Xem: 9389)
Có lẽ hi hữu nhứt cho một Hội Nghị Thượng Đỉnh Quốc Tế là - trong thời đại hàng không bay chớp nhoáng - có một phái đoàn dùng phương tiện giao thông "thô sơ" bằng xe lửa
25 Tháng Hai 2019(Xem: 10346)
Bài viết sau đây chỉ là một số thu thập tài liệu và nhận xét hạn hẹp rất chủ quan của tôi về giáo dục Việt Nam và Hoa Kỳ do đó có thể có nhiều thiên kiến.
05 Tháng Hai 2019(Xem: 9600)
Thực vậy nhìn lại dòng lịch sử VN trên 4000 năm sẽ thấy có nhiều năm Kỷ Hợi "đặc biệt" đối với sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Điển hình nhứt là 2 biến cố lịch sử:
04 Tháng Hai 2019(Xem: 10764)
Vốn là người lạc quan nên người viết có nhiều mong đợi và tin tưởng vào tương lai con người và gia đình Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước.
26 Tháng Giêng 2019(Xem: 18135)
Bài viết sau đây chỉ là kinh nghiệm và nhận định chủ quan về việc học và dạy học tại Việt Nam và tại Hoa Kỳ của chính tôi. Do đó có thể rất chủ quan, hạn hẹp và có nhiều thiên kiến.
26 Tháng Giêng 2019(Xem: 10163)
Thiện ý bao giờ cũng trang bị đầy đủ. Thiện chí bao giờ cũng có thừa. Chinh vì cái có thừa đó mà trong triết học tôn giáo mới có một nhận xét mỉa mai như sau: Ở dưới Hỏa ngục thì đầy những kẻ có thiện chí.
19 Tháng Giêng 2019(Xem: 9700)
Hay nói theo kiểu triết lý hiện sinh: Hỏa ngục chính là cái nhìn của kẻ khác. Nhìn cây thấy rừng, phải rồi. Nhưng đôi khi phải vào rừng mới biết cây thế nào.
12 Tháng Giêng 2019(Xem: 10554)
Nụ cười của bậc Giác Ngộ là nụ cười của đức Phật đã thành. Còn nụ cười của chúng ta là nụ cười của Người Giác ngộ sẽ thành vậy.
31 Tháng Mười Hai 2018(Xem: 10230)
Như vậy hy vọng trong Năm Mới, độc giả thưởng thức được một tác phẩm có cái nhìn hoàn toàn mới về truyện kiếm hiệp Kim Dung, mà bỏ qua không đọc thì rất uổng.
31 Tháng Mười Hai 2018(Xem: 18233)
Tuy đề tài là như vậy, nhưng không phải chờ đến năm mới chúng ta mới làm mới cuộc sống của chúng ta, mà chúng ta có thể làm mới cuộc sống của chúng ta bất cứ lúc nào khi chúng ta tỉnh ngộ.
17 Tháng Mười Hai 2018(Xem: 9590)
Hình như đây là nỗi đau khốn khổ nhất đời bà mà không có chỗ bù trừ. Mất con, hầu như mất cả cuộc đời còn lại.
02 Tháng Mười Hai 2018(Xem: 9872)
Trong gần 2 năm qua, mỗi khi có một hội nghị quốc tế thượng đỉnh thì luôn luôn có những diễn tiến bất ngờ mà hiếm ai có thể tiên đoán trước được.
01 Tháng Mười Hai 2018(Xem: 8196)
Cho nên, cho đến bây giờ, tôi vẫn thấm thía khi đọc mấy câu thơ của cụ Nguyễn Khuyến khi viết về Chợ Đồng. Cũng như sau này, tôi có dịp được sống trọn vẹn những phiên chợ miền cao mà tôi đã mô tả trong truyện Dì Xinh.
18 Tháng Mười Một 2018(Xem: 9493)
Việc tranh chấp giữa Cố Tế và cô Mến đã qua đi như nước chảy qua cầu và hầu như chỉ còn là câu chuyện của mấy người luống tuổi trong làng từng chứng kiến hay nghe kể lại.
12 Tháng Mười Một 2018(Xem: 4894)
Chửi đã hay mà chúc dữ như thế cũng không chê vào đâu được. Phần bà Trùm làm dấu Thánh Giá xin Chúa rộng lòng thương xót cất tội cho mọi người.
11 Tháng Mười Một 2018(Xem: 9657)
So sánh với các cuộc bầu cử giữa kỳ trong quá khứ,- nhứt là cuộc bầu cử 2014 dưới thời TT Obama - lần này dưới thời TT Trump thì quả khác xa.
04 Tháng Mười Một 2018(Xem: 4793)
Lịch sử xây nhà thờ làng Yên Phú là một lịch sử đầy oan trái. Những cánh đồng lúa của bổn đạo mới trong làng – như những luống cầy vỡ đất mà mỗi luống cầy hằn lên những đau thương, tủi nhục và mồ hôi nước mắt.
22 Tháng Mười 2018(Xem: 9461)
Bầu cử giữa nhiệm kỳ TT (midterm elections) là một điểm độc đáo của hiến pháp Hoa Kỳ mà xét ra không có quốc gia nào trên thế giới có được
20 Tháng Mười 2018(Xem: 10011)
Vấn đề tôn giáo và kỳ thị chủng tộc là những đề tài nóng hiện nay. Nó đã gây ra biết bao cuộc chém giết đẫm máu những người vô tội hầu như vô phương giải quyết.
20 Tháng Mười 2018(Xem: 15730)
Đền thờ Tiên Sư tỉnh Biên Hòa xưa (tỉnh Đồng Nai hiện nay) được đặt ở vị trí trang trọng nhất của Trường Tiểu học Nguyễn Du, một ngôi trường trên trăm năm tuổi tại thành phố Biên Hòa.
13 Tháng Mười 2018(Xem: 9551)
Cuộc phỏng vấn trên truyền hình của đài ABC News hôm thứ sáu (12/10) vừa qua với Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Melania Trump đã gây sôi nổi ...
13 Tháng Mười 2018(Xem: 9468)
Kể từ năm 1970, các buổi lễ chính thức để tưởng niệm nền Đệ nhất Cộng hòa -tưởng niệm cố tổng thống Ngô Đình Diệm- đã được tổ chức công khai ở Saigon.
07 Tháng Mười 2018(Xem: 9384)
Thực vậy cuộc biểu quyết tín nhiệm Thẩm Phán Kavanaugh vào Tối Cao Pháp Viện được ghi nhận gay go, rắc rối, ồn ào và kết quả thay đổi bất ngờ & mong manh nhứt trong lịch sử Mỹ.
05 Tháng Mười 2018(Xem: 5321)
Ông còn nhắc nhở làm sao quên được những câu thơ của Tố Hữu, nhà thơ chính thức của Đảng đã viết vào năm 1953, khi Stalin chết.
30 Tháng Chín 2018(Xem: 9189)
Tính đến nay, Đức Phật đã nhập diệt 2,562 năm, nhưng Giáo Lý cao siêu mà Ngài đã dày công hoằng dương trong 45 năm dài vẫn còn lưu lại cho nhân thế.
28 Tháng Chín 2018(Xem: 10250)
Về hai cuốn sách tiếng Anh và Pháp có thể nói rõ bản tiếng Pháp là bản dịch từ bản tiếng Anh. Có thể có một hai chỗ sửa đổi của Bùi Tín theo như lời nói đầu...
23 Tháng Chín 2018(Xem: 4624)
Thực tập Pháp Như Thật chúng ta rút kinh nghiệm để huấn luyện cái Tâm của mình. Quan trọng là làm sao cho Tâm luôn an trú trong "bây giờ và ở đây"
21 Tháng Chín 2018(Xem: 10771)
Bùi Tín đã vĩnh viễn ra đi tại Paris. Cát bụi đã trở về cát bụi cho một kiếp nhân sinh, nhưng tiếng và tăm qua ngòi bút của ông còn ở lại.
14 Tháng Chín 2018(Xem: 8402)
World Cup 2018 đã chấm dứt. Nước Pháp đoạt giải vô địch bóng đá thế giới. Kỳ tích lần thứ hai đến với nước Pháp sau 20 năm vắng mặt
31 Tháng Tám 2018(Xem: 9106)
Nhớ lại hồi còn thiếu niên, chúng tôi ở trong nội trú với hơn 100 đứa trẻ mà chỉ có ba bàn bóng bàn. Giờ nghỉ ai chơi, ai không chơi? Chúng tôi tự đặt ra hai luật
25 Tháng Tám 2018(Xem: 9679)
Cuốn Những Huyền Thoại Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm sẽ giúp bạch hóa một số điều đã bị ngộ nhận theo tin đồn hoặc theo những luận điệu bôi bẩn, chụp mũ của một số người.
23 Tháng Tám 2018(Xem: 20274)
Bài viết sau đây chỉ là kinh nghiệm của chính tôi khi làm khải đạo tâm thần, cá nhân, và hướng nghiệp tại thành phố Portland thuộc tiểu bang Oregon trong khoảng thời gian từ năm 1978 tới năm 2007.
18 Tháng Tám 2018(Xem: 9865)
Con đường tu Thiền là con đường đi về ngôi nhà tâm linh của mình. Trên đường đi phải qua nhiều cửa ải. Một trong những cửa ải đó là "năm triền cái".
11 Tháng Tám 2018(Xem: 5506)
Ông Diệm là một người đạo đức, sống như một nhà tu hành, không có tham vọng vật chất và thật sự có lòng yêu nước, thương dân. Ông tự tin vào lương tâm trong sáng
04 Tháng Tám 2018(Xem: 5332)
Nay thì xin đi vào chính nội dung cuốn sách của ông. So ra với lần xuất bản trước, 1998, lần này dày hơn đến 100 trang. Điều gì đã thêm vào như thế?
04 Tháng Tám 2018(Xem: 5356)
Tóm lại, Tu Phật giúp cho Thân Tâm chúng ta được hài hòa, Tâm chúng ta được sáng suốt và cõi lòng chúng ta luôn từ bi cởi mở.
25 Tháng Bảy 2018(Xem: 6081)
Nhân dịp Vĩnh Phúc cho tái bản cuốn: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, tôi ghi lại một phần nội dung cuộc mạn đàm liên quan đến quyển sách mới tái bản của ông.
23 Tháng Bảy 2018(Xem: 5239)
Thật khó tìm lại được một tấm gương tài đức vẹn toàn và cung cúc tận tụy hy sinh cho đại cuộc như vậy trong cõi đời đầy nhiễu nhương này.
22 Tháng Bảy 2018(Xem: 4975)
Ở đời phàm việc gì cũng có nguyên nhân của nó, không phải tự dưng mà niềm vui nỗi buồn cứ vây quanh lấy mình. Vì thế muốn thoát khỏi những phiền não khổ đau,...
14 Tháng Bảy 2018(Xem: 19560)
Chánh Niệm được xem như là cội nguồn, là gốc rễ để Tâm được an tịnh. Khi tâm an thì thân khoẻ và trí tuệ sáng suốt hơn.
12 Tháng Bảy 2018(Xem: 9098)
Sử Việt nhìn lại là một nỗ lực của tác giả với tham vọng là muốn đặt lại những dữ kiện lịch sử vốn đã trở thành nếp sồng, nếp nghĩ theo lối mòn suy nghĩ đã đóng băng, hoặc được coi như những sự thật không cần bàn cãi nữa.
08 Tháng Bảy 2018(Xem: 5307)
Phước và Huệ gọi là "Phước Huệ Song Tu". Cả hai phương pháp Tu này hỗ trợ lẫn nhau, giúp cho đời sống hiện tại của chúng ta được an ổn hạnh phúc.
07 Tháng Bảy 2018(Xem: 4989)
Vào cuối tháng 3, năm 2012, theo lời kể lại của Giovanni Maria Vian đã tháp tùng Giáo Hoàng trong hai chuyến đi thăm Mexique và Cuba, Giáo Hoàng Benoit XVI tỏ ra hết sức mệt mỏi và kiệt sức. Và chính ở thời điểm này, ngài nghĩ tới quyết định từ chức.
26 Tháng Sáu 2018(Xem: 10233)
Đã thế, những người của Maifia đã đóng trọn vẹn hai vai trò băng đảng tội phạm và người công giáo thuần thành cùng một lúc. Giết ai cũng được, nhưng không được giết các linh mục.
22 Tháng Sáu 2018(Xem: 4766)
... lời tuyên bố của Mussolini tuyên bố ngày 20 tháng ba-1945 như sau:” Không ai có thể xóa bỏ được 20 năm lịch sử của chủ nghĩa Phát Xit tại nước Ý”.
15 Tháng Sáu 2018(Xem: 8920)
Trước 1975, dân miền Nam VN thường chỉ nghe nói và biết về Mafia qua cuốn Godfather của Mario Puzo do Ngọc Thứ Lang dịch.
09 Tháng Sáu 2018(Xem: 8969)
Nước Vatican vỏn vẹn có 44 mẫu vuông- một nước có thể không thể nhỏ hơn. Nhưng lại có một thẩm quyền tinh thần và đạo đức hầu như được toàn thể thế giới nhìn nhận.
01 Tháng Sáu 2018(Xem: 10406)
Khi đã hiểu sanh tử như thế nào, hiểu sự sống từ đâu đến và chết đi về đâu, thì đối với sự sống, chúng ta không tham cầu bởi chúng ta biết tấm thân ngũ uẩn này không thực chất tính
26 Tháng Năm 2018(Xem: 10078)
Người nào kinh nghiệm được trạng thái Niết Bàn là người đó thoát khổ, giải thoát. Như vậy Niết Bàn không phải ở đâu xa mà nó ở ngay trong tâm của người liễu đạo bây giờ và ở đây!
28 Tháng Tư 2018(Xem: 11571)
Biến cố 30.04.1975 xảy ra quá bất ngờ đối với toàn thể dân VN chúng ta. Từ cấp lãnh đạo cho đến người dân bình thường của cả 2 miền Nam Bắc không ai cảm thấy hoặc đoán trước được chuyện sẽ xảy ra.
20 Tháng Tư 2018(Xem: 10454)
Gia tài văn học của Sagan để lại khá đồ sộ. Khoảng 30 cuốn tiểu thuyết, 9 vở kịch. Cộng chung ngót nghét 50 chục tác phẩm..Nhiều cuốn chuyện đã được dịch ra đến 15 thứ tiếng.
14 Tháng Tư 2018(Xem: 10107)
Cuộc đời của Sagan có thể tóm tắt bằng mấy chữ : Vinh quang và xì căng đan với những phiêu lưu đủ loại với 5 lần đối diện với tử thần.
06 Tháng Tư 2018(Xem: 10182)
Bà đã chọn biệt hiệu lấy lại trong tác phẩm của Proust, một tác giả được bà ưa chuộng: Hélie de Talleyrand Périgord, princesse de Sagan.
30 Tháng Ba 2018(Xem: 9358)
Ngoài ra, bài viết này chỉ nhằm tìm chỗ đứng của TLVĐ trong văn học. Những chi tiết về giai đoạn thế hệ văn học sau 1954 ở miền Nam ...
23 Tháng Ba 2018(Xem: 8732)
điều cần thiết là tìm hiểu xem sự đóng góp cho văn học của Nam Phong ra sao và sự khác biệt giữa Nam Phong và TLVĐ như thế nào?
16 Tháng Ba 2018(Xem: 8382)
Điều chúng ta chưa biết thì có nhiều hy vọng là một ngày nào đó chúng ta sẽ biết. Nhưng sợ nhất là những điều chúng ta đã có sẵn trong tay tưởng như sự thật.
11 Tháng Ba 2018(Xem: 11454)
Thực vậy cả năm qua từ khi TT Trump cầm quyền, cả hai bên Mỹ và Bắc Hàn có rất nhiều hành động và lời nói khiêu khích đối chọi thiếu điều muốn tấn công bằng võ khí nguyên tử giết nhau.
09 Tháng Ba 2018(Xem: 9100)
Ngày nay nhìn lại, chúng ta mới thấy được tư tưởng tiến bộ của giám mục Adriano, quyết tâm bảo vệ cho tính “chính đáng” cũng như “ tính chất cùng tồn tại” ...
02 Tháng Ba 2018(Xem: 8565)
Giám mục Adriano thuộc tu hội dòng Augustine chân đất, hay còn được gọi là Dòng Augustine Chiêm niệm.
15 Tháng Hai 2018(Xem: 4847)
Bắt gặp một tài liệu cổ và hiếm thì đó là một điều thích thú. Trong chỗ riêng tư, đó có thể còn là một nỗi vui, môt niềm hân hoan.
09 Tháng Hai 2018(Xem: 5456)
Đây là tập tài liệu ghi lại những chứng từ của các nhân chứng như các người Âu Châu, nhất là các thừa sai ngoại quốc ...
03 Tháng Hai 2018(Xem: 10274)
Con người do Thân và Tâm hợp lại mà thành nên Thân và Tâm lúc nào cũng đi liền với nhau như hình với bóng, vì thế hễ Thân đau thì Tâm khổ.
02 Tháng Hai 2018(Xem: 9380)
Trương Vĩnh Ký không cho biết voi “xuất trận” từ đâu? Đây là câu hỏi thiết yêu quan trọng nhất mà người viết bài này không bao giờ tìm được câu trả lời thỏa đáng.
26 Tháng Giêng 2018(Xem: 4735)
Ngày nay, sự hiểu biết về đời sống các thú hoang đã có thể ở trong tầm tay của bất cứ ai muốn tìm hiểu các sinh hoạt của chúng qua các tài liệu sách báo hay phim ảnh.
19 Tháng Giêng 2018(Xem: 4211)
Thảo Trường vừa là một thiếu tá trong quân đội VNCH, vừa là một nhà văn với tác phẩm “Thử Lửa”, rồi “Chạy trốn” và nhất là tập truyện “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp”.
13 Tháng Giêng 2018(Xem: 9466)
Vì thế con người sống ở đời phải sống sao cho xứng đáng. Phải biết sống một cách thiện lương. Làm lành lánh dữ. "Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành".
12 Tháng Giêng 2018(Xem: 8859)
Nam Cao là một nhà văn nhân bản lớn, một nhà văn vượt mọi kích thước thông thường. Ông mang theo một sứ điệp phản bác tất cả những trào lưu tư tưởng, ...
05 Tháng Giêng 2018(Xem: 8223)
Trong khi đó không có người kế thừa chỗ của những kẻ đã ra đi. Ghế trống mỗi ngày một nhiều không ai ngồi thay thế. Ai có thể thay thế được những người ấy?
29 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 8919)
Như thế cho thấy, tác giả viết bài còn có giá lắm chứ! Hơn 10 năm sau, Nguyễn Văn Trung ngưng cầm bút, nay sống lủi thủi ở nột góc nhà, không một bạn bè, it ai thăm hỏi. Và hoàn toàn bị rơi vào quên lãng!
23 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 9308)
Họa Phước cũng do chúng ta làm chủ, không ai ban Phước giáng Họa cho chúng ta, vì thế chúng ta sớm thức tỉnh để chọn lối sống thích hợp ở đời này...
22 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 8477)
Phần công trình biên khảo của ông Nguyễn Văn Trung, tôi nghĩ, ông đã làm trọn vẹn công việc của một nhà biên khảo
15 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 8587)
Điều chắc chắn là người miền Nam sau này có thể tự hào bởi vì họ có được một thứ văn minh, văn hóa riêng cho họ –
09 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 10162)
Con người ai cũng mong muốn có được hạnh phúc, và dĩ nhiên ít hay nhiều gì ai cũng có hạnh phúc. Hạnh phúc đến với mỗi người tuỳ theo môi trường sống và quan niệm sống
08 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 8670)
Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã đóng góp cho triết học và văn học miền Nam với nhiều tác phẩm đủ loại.
02 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 5162)
Bài giảng này của CHS Ngô Quyền VÕ KIM HUÊ, Khoá 10 (bút hiệu Trần Kim Vy) muốn chia sẻ cùng Thầy Cô và các bạn cũ đồng môn không phân biệt tôn giáo.
01 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 8661)
Đó là tất cả di sản tinh thần của một cuộc đời cầm bút miệt mài của một người trí thức miền Nam trong 20 năm.
24 Tháng Mười Một 2017(Xem: 8988)
Vĩnh biệt anh Lê Phụng, một con người trên muôn người. Và nay cả Thiên đàng và Niết Bàn đều có giấy mời anh vào.
16 Tháng Mười Một 2017(Xem: 14212)
Trong một xứ mù thì kẻ chột làm vua. Nước ta là nước dân chủ nhất thế giới nên kẻ dù ngu nhất cũng có cái quyền được ngu.
10 Tháng Mười Một 2017(Xem: 8177)
Sự biện minh cho một hành động hay một quyết định chỉ chính đáng khi người ta xác tín đó là môt lý tưởng.
03 Tháng Mười Một 2017(Xem: 24048)
Thực sự Bức Tường Bá Linh trong ngày đó không bị bị bạo lực phá sụp. Lực lượng biên phòng Đông Đức được lịnh cho mở cửa bức tường... Đây là một đặc điểm ly kỳ của cuộc cách mạnh hi hữu này: rất ôn hòa
03 Tháng Mười Một 2017(Xem: 4148)
Giữa Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan, họ chẳng những coi nhau như đồng chí mà còn như ruột thịt máu mủ.
28 Tháng Mười 2017(Xem: 19740)
Tóm lại, Chúng ta tu tập để làm chủ Nghiệp, không cho phép Nghiệp làm chủ dẫn dắt chúng ta vào con đường xấu.
27 Tháng Mười 2017(Xem: 10389)
Miền Nam sẽ được sống những ngày an bình khỏi bị họ quấy rối. Tiếc thay chúng ta đã không làm.
20 Tháng Mười 2017(Xem: 8747)
Tôi tự hỏi bao giờ thì họ hết ảo tưởng và giấc mơ về một chủ nghĩa xã hội cộng sản?
13 Tháng Mười 2017(Xem: 8285)
Ai được gọi là nằm trong Lực lượng thứ ba? Nhóm nào được gọi là lực lượng thứ ba? Tổ chức của nó là gì? Ai là người lãnh đạo? Bấy nhiêu câu hỏi, nhưng không có câu trả lời trọn vẹn!!
07 Tháng Mười 2017(Xem: 9720)
Người sống với Thiền là người an trú trong chân tâm thường trụ của mình, tức luôn sống với chánh niệm một cách tự nhiên.
06 Tháng Mười 2017(Xem: 4466)
Trường hợp Nguyễn Văn Trung không phải là người duy nhất mà có thể có cả trăm người khác cũng hành xử như vậy.
29 Tháng Chín 2017(Xem: 4905)
Nếu những trí thức ấy mê Mác xít coi như con đường giải phóng dân tộc, vọng ngoại thì có khác gì giới trẻ mê, theo đuổi lối sống Hippie và nhạc kich động?
22 Tháng Chín 2017(Xem: 18673)
Cuộc bầu cử quan trọng nhứt của nước Đức sẽ xảy ra vào chúa nhựt 24 tháng 9 tới này. Đó là cuộc bầu cử quốc hội liên bang và qua đó sẽ quyết định ai được tín nhiệm làm Thủ Tướng trong nhiệm kỳ tới
22 Tháng Chín 2017(Xem: 3889)
Ngày 18 tháng 8 vừa qua, bộ sách Lịch Sử Việt Nam được công bố và sau đó được đài BBC tổ chức hội thoại bàn tròn và mời một số vị phát biểu về bộ sách này.
15 Tháng Chín 2017(Xem: 12538)
Khi còn ở Quảng Ngãi, thiếu tá Nguyễn Bé là người chủ trương đổi các chương trình huấn luyện Biệt Kích Nhân Dân ở Quảng Ngãi năm 1964 để huấn luyện hoạt động bình định..
08 Tháng Chín 2017(Xem: 9550)
Trong cuốn Hồi ký viết chung với Dương Đình Lôi, “Hai ngàn ngày đêm trấn thủ Củ Chi” (gồm 7 quyển, 2250 trang)
03 Tháng Chín 2017(Xem: 17636)
Đây chính là người cư sĩ của Đức Phật. Từ Pháp hoá sanh, là người thừa tự Pháp, không thừa tự vật chất.
01 Tháng Chín 2017(Xem: 8302)
Hoàn cảnh tại Quảng Ngãi cũng có thể suy rộng ra địa bàn cả nước. Hóa ra kẻ tội phạm chính vẫn là gian thương, tham nhũng.
25 Tháng Tám 2017(Xem: 13737)
Chinh chiến là điều bất đắc dĩ. Bằng cách nào đó bớt được chuyện binh đao, máu đổ, đầu rơi là chuyện ai cũng muốn làm.
19 Tháng Tám 2017(Xem: 16745)
Ngôn ngữ thi ca của Nguyễn Lương Vỵ sẽ đưa chúng ta chạm trán điều gì qua ba đoản khúc trong sự liên hoàn hoài niệm của bài thơ Niệm Khúc?