Voi dưới mắt các nhà sử học và trong đời sống thiên nhiên (III)
Trích tập tài liệu: Documents relatifs à l’époque de Gia Long, par L. Cadière
Đây là tập tài liệu ghi lại những chứng từ của các nhân chứng như các người Âu Châu, nhất là các thừa sai ngoại quốc hay những thương buôn đã sống, đã nghe kể lại những sự kiện mà họ đã có dịp nghe hoặc quan sát thấy. Và họ đã viết thư về cho bạn bè, cho gia đình hoặc cho các vị bề trên của họ. Phần lớn đều tập trung vào các trận đánh của Gia Long, nhưng cũng có những sự việc liên quan đến Quang Trung..
Nói chung, đây là những tài liệu đáng quý, cho người ta thấy được những chuỗi biến cố đã xảy ra, xác định rõ được nơi chốn và điều gì thực sự đã xảy ra và ai là những tác nhân của những sụ việc đó.. Nói tóm lại theo như tựa đề bản tài liệu giới thiệu:
“En un mot, elles nous fournissent la trame de l’histoire.” (Nói tóm lại một câu, các tài liệu trên cung cấp cho chúng ta một cái nền của lịch sử)
(Documents relatifs a l’époque de Gia Long, L. Cadière)
Đúng vậy, ít ra đó cũng là những tài liệu sống, đầu nguồn của lịch sử.
Tuy nhiên, sự trung thực cũng chỉ có cách tương đối vì do chủ quan của cá nhân, lập trường chính trị của họ vv. Chính vì thế, tác giả L. Cadière, khi thu thập những tài liệu này, ông cũng đã phải cẩn thận, xem xét tỉ mỉ. Vì phần đông, các tác giả các lá thư thường ngả về phía Gia Long và gọi Tây Sơn là giặc.
Trong số những thư từ được gửi đi có tên giáo sĩ La Bartette gửi cho nhiều người. (1780) thư của Longer (13 tháng tư, năm 1784). Thư của Le Roy (1786). Thư của Doussain (1788).
Qua các thư này, tiêu biểu như thư của M. Doussain đề ngày 6 tháng 6, 1787 cho thấy:
“Nguyễn Huệ trong chiến dịch của ông đã bị thiệt hại một nửa số quân lính của ông sau hai ba tháng trong chiến dịch đánh chiếm. Điều đó chứng tỏ công việc của ông không hoàn toàn tốt đẹp, cũng vì thế, ông ép buộc mọi người phải tham gia vào chiến trận. Biết bao nhiêu điều tai hại!.. Biết bao nhiêu nỗi cơ cực khốn đốn.”
(Lettres de M. Doussain, 6-6-1787. Documents, Ibid, trang 19)
Qua những thư khác tóm lược cho thấy thời kỳ hai anh em Nguyễn Huệ-Nguyễn Nhạc đánh nhau tại vùng đất Nam Bộ thuộc các tỉnh phía Bắc đã làm cho dân chúng chịu lầm than khốn khổ thế nào.
Nội dung các thư ấy chỉ muốn chứng tỏ rằng việc binh đao của Tây Sơn đã gây rất nhiều đau thương tang tóc cho người dân. Họ chỉ được tin về về những người này người kia chết. Họ cũng than vãn về việc Nguyễn Huệ đã bắt tất cả thanh niên, tuổi từ 15 trở lên đi lính trong các tỉnh thuộc Nam Bộ ở phía Bắc như các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tinh. Và những người người này được xếp đi hàng đầu ra trận của vị tướng cướp trẻ.
Việc đánh nhau giữa hai anh em Nguyễn Nhạc-Nguyễn Huệ cũng là đề tài được nói đến nhiều. Quân của Nguyễn Huệ đã bị quân của Nhạc đẩy lui ba lần. Cuộc chiến kéo dài đã ba tháng. Và vì thế, không biết được ai là vây hãm ai và ai là người bị vây hãm. Đây là một cuộc nội chiến đã gây đổ máu cho người dân Annam!
Chưa kể những lời trần tình trong các lá thư ấy cho thấy, Tây Sơn đã cho phá hủy một số chùa và nhà thờ. Các sư sãi trong Chùa thì Tây Sơn bắt đi lính và ra mặt trận. Đó là tất cả những điều tốt lành mà Nguyễn Huệ đã làm cho dân Nam Bộ. (Cochinchinois)
Phần Nguyễn Nhạc những được gọi là Vua Trời ( Roi du ciel). Vua Nhạc cũng cho phá hủy các chùa và chỉ cho giữ lại mỗi tổng một chùa mà thôi.
Theo các tài liệu vừa kể trên, tôi nhận thấy không có trận đánh lớn nhỏ nào mà phía Tây Sơ n đã dùng voi cho xung trận cả. Các nhân chứng với tên tuổi vừa kể trên không hề một lần nhắc đến voi trận?
Sự thể như thế phải được hiểu là thế nào? Lý do nào Tây Sơn chỉ dùng tượng voi cho trận chiến với quân Tàu tại trận Ngọc Hồi?
Cuốn Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine (29-8-1749 jusqu’au 11-2-1750)
Trong các cuốn du hành của một số người ngoại quốc khi viết về Đàng Trong họ chỉ nói đến vai trò của voi trong thú giải trí của nhà Vua.
Trong cuốn Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine, vào năm 1749- nghĩa là sau cuốn của A. De Rhodes khoảng 100 năm. Poivre cho thấy các Chúa Đàng Trong chỉ ăn chơi, rượu chè và lo ngủ với các bà vợ. Mọi việc triều chính giao cho ba vị quan và những người này mặc tình thao túng vơ vét thêm một lần nữa.
Xin trích nguyên đoạn văn như sau:
“Ce prince est vain, ignorant, avare, superstitieux et fort adonnnés aux femmes. Il a un seral de trois cents concubines d’òu il ne sort jamais. Les affaires du royaume ne l’occupent point; il les abandonne à trói ou quatre mandarins qui abusent de lautorité qu’il leur donne pour tyraniser le peuple.”
(Voyage de Poivre en Cochinchine, trang 81)
Tranh Chân dung của Pierre Poivre và thủ bút của ông. Nguồn: Collection MARGRY, relative à l’histoire des Colonies et de la Marine françaises. AFRIQUE ET ASIE. Journal de l’expédition commerciale de Pierre Poivre, agent de la Compagnie des Indes, à la Cochinchine et aux Moluques (1748-1755), avec un portrait de lui.
(Vị hoàng tử này là thứ vô tích sự, lười biếng, hà tiện, mê tín và mải mê phụ nữ. Ông có cả thảy 300 nàng hầu nên không bao giờ ông đi ra ngoài. Công việc triều chính không làm ông bận tâm, ông phó mặc cho ba hoặc bốn vị quan, những người này lợi dụng quyền thế có được trong tay để hà hiếp dân chúng.)
“Ông có thú vui đi săn hổ hoặc săn voi thì có hàng trăm người phục dịch. Khi biết có con hổ thì một đám người lo giăng lưới. Đám người khác lo đánh trống, gõ mõ, nổi lửa để con mồi hoảng sợ chạy về phía có giăng lưới. Ở đây đã có sẵn đám người túc trực giăng lưới bắt hổ.” (trang 25)
“Săn voi đực thì cho vài con voi cái đã được thuần, bắt chúng chạy vào rừng tìm voi đực. Voi đực tìm đến thì voi cái chạy hướng dẫn nó vào một nơi có một vài voi đực được thuần hóa quây chung quanh. Rồi những thợ săn tìm cách trói voi lại. Con voi đực bị trói sau đó bị bỏ nhịn đói cho đến khi voi yếu mệt. Sau đó họ cho nó tiếp tục ăn trở lại và cho bốn voi đực đã thuần kèm con voi đực đến tận bờ sông và ở nơi này voi được huấn luyện để thuần hóa. (trang 25)
“Có lần nhà vua còn tổ chức một buổi chiến đấu giữa hổ và đàn voi. Người ta chở những con hổ bị nhốt trong cũi đến một nơi gần một con sông lớn của Huế. Phía đối diện, người ta cho 40 con voi đứng xếp hàng như thể đang chiến đấu. Nhà Chúa cho lệnh chiến đấu bằng cách gõ nhiều lần vào một thanh tre. Nghe hiệu lệnh, một binh lính mở cũi cho một con hổ ra khỏi chuồng. Con vật khốn nạn này trước đó đã bị rút hết móng và bị buộc mõm, yếu ớt nửa sống nửa chết, chân bị cột vào một cái cột. Rồi một con voi được ra hiệu lệnh tiến tới gần con hổ, nhấc bổng con hổ lên không hoàn toàn chết. Sau đó, lính đến dùng rơm đốt những cái râu con hổ vì sợ dân chúng đến bứt những sọi râu này để tẩm thuốc độc.
Trò chơi nhàm chán cứ thế tiếp tục cho đến khi con hổ thứ 18. Sở dĩ có trò chơi không công bằng này, vì nhà vua sợ những con voi bị giết, vì giá trị một con voi rất dắt tiền hơn một con hổ. Vả lại, voi vốn là con vật được coi như sức mạnh chính của triều đình.”
(trang 57)
Câu kết luận của Poivre về sức mạnh của voi đáng để chúng ta suy nghĩ. Xin được trích nguyên văn như sau:
“En voyant tous ces éléphants rangés en ligne, j’ai fait réflexion que ces prétendues forces du Royaume sont bien peu de choses. Toutes ces grosses masses ne ré sisteraient pas longtemps à notre artillerie, et ces animaux sont plus propres à nuire à ceux qui les emploient qu’à le défendre contre des ennemis qui les attaqueroient.”
(trang 57)
(Khi nhìn thấy những con voi xếp thành hàng, tôi liên tưởng đến cái được gọi là sức mạnh của Triều đình thì không có gì đáng nói lắm; tất cả những con vật to xác trên chỉ cần nghe tiếng súng nổ của pháo binh của chúng ta thì chúng đã sợ hãi. Và những con vật trên thay vì bảo vệ cho những người đã xử dụng chúng chống lại quân thù sẽ tấn công chúng.)
Và Pierre Poivre còn đưa ra một nhận xét rất thích đáng và thực tế như sau: Trong đám hàng ngàn binh sĩ dưới quyền của nhà Chúa thường bị bỏ đói ăn và chỉ cần 50 người lính Âu Châu đủ để “giải quyết” xong đám lính tội nghiệp đó.
Tóm lại, dưới mắt giáo sĩ A. De Rhodes cũng như dưới cái nhìn của thương gia Pierre Poivre ở hai thời kỳ khác nhau – một của Đàng Ngoài, một của Đàng Trong — cách nhau một thế kỷ — cho thấy voi chỉ là một vật trang trí cho chế độ, tỏ lộ ra cái uy quyền mà thực chất không thể trở thành “voi trận”.
Chúng sợ tiếng súng nên việc chở súng trên voi để bắn – nghe thì hấp dẫn – nhưng lại là một điều bất khả thi trên thực tế.
Cũng xin nhắc thêm ở đây là tác giả người Anh John Crawfurd trong cuốn “Journal of Embassy, to the Courts of Siam and Cochinchina” một cuốn hồi ký du hành từ Xiêm La sang xứ Nam Kỳ với rất nhiều ghi chú kiến thức đủ loại cũng có nhắc đến, ông cũng được mời chứng kiến một buổi giao đấu giữa hổ và voi như Le Poivre ở trên đã kể lại.
Thay lời kết luận
Viết xong bài này, dư vị để lại trong tâm thức một người đọc và cũng là một người cầm bút là thái độ nghi ngờ những người viết sử. Đó là một thái độ tiêu cực không nên có của người đọc. Và cũng là một thái độ có đôi phần “sa đích” đối với giới cầm bút nói chung. Nhưng cái lỗi ấy cũng cần chia xẻ cái phần trách nhiệm của một số lớn người cầm bút để cái tôi quá lớn, để cái phần “hoang tưởng” che lấp sự sáng suốt bắt buộc mỗi khi viết ra điều gì!
Thời giờ thì có hạn, quỹ thời gian thì mỗi ngày thu ngắn lại, chẳng lẽ mỗi chốc lại lên tiếng phê phán, vạch ra những sai lầm đến ấu trĩ của một số người cầm bút hiện nay? Sự im lặng phải chăng là thái độ tốt nhất?
Tuy nhiên, phần cá nhân người viết bài này, sở dĩ có một thái độ nghi ngờ mang tính phê bình các người viết sử là do sự mở đường của Nguyễn Duy Chính mà tác giả đã có nhã ý gửi cho một số tài liệu sử do ông biên soạn. Đó là thái độ đọc sử, viết sử của ông một cách thận trọng và nghiêm túc, cố gắng tối đa trong việc đi tìm nguồn tài liệu, rồi so sánh đối chiếu, biết đặt lại một số vấn đề sử học trong một cái nhìn mới mẻ, không câu nệ lệ thuộc vào tài liệu cũ.
Trong lúc này thì tôi nghĩ một cách khiêm tốn là thái độ viết sử quan trọng hơn việc viết gì!
Chính vì thế, khi viết bài này, tôi đã có dụng ý lấy phần biên khảo của sử gia K.W. Taylor thay cho phần kết luận của mình:
Tinh thần viết sử của K.W Taylor, theo tôi suy đoán, ấy là điều gì mình còn nghi hoặc, không đủ tài liệu, hoặc không dễ dãi đối với một số tài liệu mà sự kiểm chứng là bất khả thi thì bỏ qua không nói đến. Đó là thái độ trí thức cần thiết mà tôi đã đọc được trong cuốn A History of the Vietnamese. Một cuốn sách thu tóm một cách cô đọng chiều dài lịch sử Việt Nam thu gọn trong 700 trang. Thật khó chứ không dễ dàng gì. Điều thứ hai là tác giả trình bày sự kiện sử học một cách khách quan và trong sáng, không nghiêng ngả về phía này phía kia, không phê phán hầu như bất cứ ai. Điều mà 10 người viết sử Việt đều sa vào lỗi lầm “tổ tiên” này. Điều thứ ba mới thật sự là quan trọng là tác giả tự đặt ra một số chủ đề lớn và trong chủ đề lớn có chủ đề nhỏ và cố gắng đi sát với chủ đề ấy, vì thế tránh được sự dài dòng lê thê, tránh được sự tản mát lan rộng của sự kiện sử học. Chằng hạn chủ đề: Nguyễn Phúc Ánh at Saigon, Ngô Đình Diệm between communists and Americans, Minh Mang’s centralizing policies.
Vì khá cô đọng và bỏ qua những chi tiết rườm rà cũng như không kiểm chứng được nên viết về cả triều đại Quang Trung, sử gia thu gọn trong 4 trang 377-380. Thừa thì chắc là không có. Chẳng thấy ông đả động gì đến voi trận, số quân Tây Sơn ra mặt trận cũng như sự tổn thất của quân nhà Thanh là bao nhiêu như lối viết trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí.
Xin trích đoạn kết luận của sử gia K.W. Taylor về triều đại Quang Trung như sau:
“Nguyễn Huệ còn được biết với danh hiệu Hoàng Đế Quang Trung, trở thành một người anh hùng nổi tiếng do sự tường thuật của các sử gia sau này, mặc dầu sự ngắn ngủi của triều đại của ông. Chính bởi vì những chiến công dũng cảm của ông ngoài mặt trận trong việc đánh bại quân Xiêm ở phía Nam và quân đội Tàu tại phía Bắc. Tuy nhiên, sự hiển hách của những chiến công ngoài mặt trận của ông không đi đôi với tài quản trị đất nước. Không giống những người từng là những người khai sinh ra một triều đại, ông không có đầu óc đi vào các kế hoạch của việc quản trị. Trong khi Nguyễn Huệ chiến thắng ngoài trận mạc và mơ tưởng tới những cuộc chinh phục trong tương lai về phương Bắc, Nguyễn Phúc Ánh lại quan tâm đến công việc đặt nền móng cho một xứ sở mới ở phía Nam.”
(K.W. Taylor. A history of the Vietnamese, Cambridge University Press, 2013, trang 380)
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline