Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Thư của một người cầm bút ở miền Nam gửi những người có hiểu biết trong nước (I)

12 Tháng Giêng 201810:27 CH(Xem: 8842)
GS. Nguyễn Văn Lục - Thư của một người cầm bút ở miền Nam gửi những người có hiểu biết trong nước (I)

Thư của một người cầm bút ở miền Nam gửi những người có hiểu biết trong nước (I)


blankNam Cao là một nhà văn nhân bản lớn, một nhà văn vượt mọi kích thước thông thường. Ông mang theo một sứ điệp phản bác tất cả những trào lưu tư tưởng, những chủ thuyết bất nhân biến con người thành những công cụ.

Thư của một người cầm bút ở miền Nam gửi các vị thức giả ở trong nước

(Nhân có những tranh luận chung quanh vấn đề loại bỏ tác phẩm Chí Phèo(1) của nhà văn Nam Cao ra khỏi chương trình trung học phổ thông môn Ngữ văn, lớp 11.)

Nhắc lại một quá khứ

Sau 1954, một số lớn nhà văn thuộc lớp tiền chiến đã chọn ở lại miền Bắc thay vì di cư vào Nam. Đó là một chọn lựa đem lại thiệt thòi cho những người di cư từ miền Bắc vào Nma. Hầu hết các nhà văn chọn di cư vào Nam đều thuộc lớp nhà văn trẻ, chưa có tiếng tăm trên Văn đàn.

Thật vậy, các nhà văn có tầm cỡ đã chọn ở lại như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thế Lữ, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Đặng Thái Mai, Nguyễn Công Hoan, Huy Cận, Trần Tiêu, Bùi Hiển, Lan Khai(với cuốn Mực mài nước mắt), Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Tú Mỡ, v.v..

Nhóm các nhà văn trong Nhân Văn Giai Phẩm như Trần Dần, Văn Cao, Phan Khôi, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Sỹ Ngọc, Nguyễn Sáng, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Hữu Loan và Thụy An, v.v. và có Đoàn Giỏi, người Nam Kỳ tập kết độc nhất có bài đăng trên báo Nhân Văn.

Lại có những nhà văn cũng được kể là thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, nhưng ít ai nghe tên tuổi như Hoàng Yến, người khu 5 dám phê bình thơ Tố Hữu Hữu là “những vạc nước lã, trong khi chúng ta cần những cốc sữa đặc” . Hoàng Quế cũng chống đối kịch liệt, sau bị đưa xuống Hải Phòng lao động. Hoàng Tố Nguyên, thi sĩ người Nam Kỳ đã dám mắng Xuân Diệu là “tên địa chủ trong văn học”. (Xuân Vũ, “Hà Nội – Hà ngoại. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của ông Phó chủ tịch hội ve chai”. Trang 72)

Sự chọn lựa của các nhà văn có tiếng một thời nay số phận họ ra sao? Chúng tôi chắc khỏi cần nhắc lại làm gì ở đây. Nhưng chắc chắn là số phận của họ kém may mắn hơn những nhà văn lớp trẻ đã chọn vào Nam.

Nếu chỉ nói riêng về trường hợp nhà văn Nam Cao (tên thật là Trần Hữu Trí) bắt đầu cầm bút từ năm 1936) và các truyện ngắn của ông gần 20 chục truyện được đăng trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy và Ích Hữu. (Tiểu thuyết thứ bảy là nơi tập trung rất nhiều nhà văn sau này nổi tiếng một thời ở ngoài Tự Lực Văn Đoàn)

Truyện Chí Phèo mà chúng ta sẽ nói ở đây được sáng tác vào năm 1941. Nghĩa là trước khi Nam Cao tham gia vào cuộc Cách Mạng tháng 8. Còn số phận các truyện viết sau đó của Nam Cao thì như thế nào?

Tôi chỉ nhận ra có một truyện ngắn có tựa đề: Đôi mắt, được ghi năm 1948. Truyện này được chọn đăng trong: Truyện ngắn Việt Nam. 1945-1985. (Nam Cao, truyện ngắn Đôi Mắt, Văn Học, nxb Văn Học, Hà Nội – 1985, trang 248-258)

Đây là một truyện không ra truyện, nhạt nhẽo đến vô duyên.

Đọc truyện Đôi Mắt, tôi tự hỏi phải chăng đây có thực sự là nhà văn Nam Cao viết hay không? Câu hỏi tiếp theo là XHCN miền Bắc đã có được cái may mắn có một gia tài văn hóa với đội ngũ các nhà văn có tiếng tăm hàng đầu mà không nơi đâu có được như cụ Phan Khôi, như Nguyễn Tuân, như Văn Cao và Nam Cao! Miền Bắc cũng là nơi có được một triết gia như Trần Đức Thảo có tầm vóc quốc tế đã bị đầy đọa trong suốt cuộc đời của ông. Giả dụ những vị này ở miền Nam thì số phận của họ sẽ như thế nào?

Các nhà văn, nghệ sĩ trên phải được kể là những nhân tài của đất nước. Trường hợp Văn Cao, ông sáng tác được bao nhiêu bản nhạc sau 1954? Trong khi Phạm Duy ở trong miền Nam sáng tác trên dưới 1000 bài ca.

Tôi chỉ tiếc cho một thế hệ nhà văn đáng lẽ làm nên sự nghiệp lớn lao cho cả đất nước đã bị chôn vùi trong bóng tối của một thứ chủ nghĩa đáng nguyền rủa. Chỉ vì một cái mà Eric J. Hobsbawm gọi tên nó là “Thời đại của những thái cực”(3).

Có một điểm khá đặc biệt là tất cả những nhà văn ở miền Bắc bị vứt bỏ cách này cách khác thì họ lại được trân trọng ở miền Nam.

Trong bài viết này, tôi muốn tự nhắc nhở mình, phải nhớ lấy, trong một tuyển tập Truyện ngắn của Bảo Ninh, “Hà Nội lúc không giờ” đã nhận xét một cách khinh bỉ văn học miền Nam như thế nào:

“Chúng tôi phát hiện dưới tầng hầm tòa nhà chính một cái kho tối om đầy ự sách báo giấy má đã mốc meo. Chỉ một mình Tú, một tay mọt sách, nguyên sinh viên trường Tổng Hợp là không ngại rúc vào đó, ngụp lặn lục tìm trong bụi, tha về phòng một bao tải nặng chịch những cuốn tiểu thuyết chưa bị mối xông. Nhưng bởi tất cả đều rặt một nòi thối tha mục nát văn chương chống cộng, chữ nghĩa tối tăm, mờ ám, nội dung láo toét, ít ai kiên nhẫn đọc nổi quá nửa trang, chất giấy lại không hợp để vấn thuốc và khổ thì quá nhỏ để gói bọc một thứ gì, thành thử đống sách của Tú chẳng mấy ai buồn ngó, dù rằng nó cứ vơi đi. Người ta thấy các mẩu vụn của những Chu Tử, những Xuân Vũ, những gì đó nữa quanh chỗ đựng điếu cầy và trong nhà bếp, nhà cầu.”

(Bảo ninh, “Hà Nội lúc không giờ”. Truyện ngắn. nxb Văn Hóa Thông Tin. Hà Nội-2002, trang 83.)

Sự khinh miệt các nhà văn miền Nam đến thế là cùng.

Thưa các anh, ngày hôm nay, tôi muốn gửi đến các anh một thông điệp là những người các anh triệt hạ, bôi xóa tên tuổi họ — những nhà văn thời tiền chiến — những nhà văn trong Nhân Văn Giai Phẩm, ngay cả những nhà văn miền Nam, rồi bắt họ tù đầy thì ở miền Nam trước 1975, họ được trân trọng tìm đọc hoặc được mang giảng dạy công khai tại chương trình trung học thi Tú tài I và tại giảng đường đại học.

Thật vậy, toàn bộ các tác giả trong Tự Lực Văn Đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ đều nằm trong chương trinh giáo dục, kỳ thi Tú tài I. Không kể các nhà thơ như Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Chế Lan Viên hay các nhà văn Hiện thực xã hội như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan cũng được tự do giảng dạy tại miền Nam.

Chỉ riêng trường họp nhà văn Nam Cao thì được đưa lên giảng dạy tại Đại Học Văn Khoa với tác phẩm Chí Phèo. Nguyễn Văn Trung trách nhiệm việc giảng dạy này.

Nên có thể nói không gì mà chúng tôi không được học. Không một nhà văn, một nhà thơ, một nhạc sĩ nổi tiếng nào ở miền Bắc trước 1954 mà không được giảng dạy hoặc phổ biến công khai trong nhà trường, tại giảng đường đại học, tại các đài phát thanh hay đài truyền hình, hay được in lại trong các nhà sách. Và cuối cùng, còn được lưu trữ đầy đủ trong các thư viện.

Cá nhân tôi đọc Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Trần Tiêu, Bùi Hiển, Tô Hoài trong thư viện. Không một bài hát nào của Văn Cao thời Tiền Chiến mà không được trình diễn công khai qua các giọng ca như Thái Thanh.

Có thể nói, văn học miền Nam không thẹn với hai chữ Khai Phóng vì nó đã không quan tâm, phân biệt biên giới địa lý, không phân biệt ý thức hệ hay chủ nghĩa giáo điều.

Là người cầm bút ở miền Nam, tôi phải biết tạ ơn miền Nam đã cho tôi những cơ hội vô cùng quý giá được học, được đọc những tác giả đương thời, từ thời tiền chiến nổi tiếng một thời mà giới trẻ thanh niên miền Bắc đã không có được cái may mắn đó. Họ bị bịt mắt và họ chỉ được đọc những gì mà Đảng cho phép.

Tôi xin trích một đoạn của Bùi Văn Nam Sơn trong bài ông giới thiệu cuốn sách Triết học Kant của Trần Thái Đỉnh như sau:

“Muốn tìm ‘lối vào’ triết Đông ư? Chúng tôi có thầy Nguyễn Đăng Thục uyên bác và bừng bừng tâm huyết (trong một giờ học, Thầy chỉ mạnh tay vào một cuốn sách chữ Hán- hình như là quyển ‘Đạo giáo nguyên lưu’ — rồi gằng giọng hỏi: ‘Thế hệ chúng tôi mất rồi, ai trong các anh chị còn đọc được những quyển này?’); có thầy Kim Định bay bổng, thầy Nguyễn Duy Cần cặm cụi, Thầy Lê Xuân Khoa hào hoa.

Còn triết Tây? Chúng tôi có thầy Nguyễn Văn Trung (Những vấn đề cơ bản, Mác-xít), Thầy Lý Chánh Trung (Đạo đức học), Thầy Lê Thành trị (Huserl, Sartre…) Nhưng “sợ” nhất vẫn là thầy Nguyễn Văn Kiết! Thầy nổi tiếng nghiêm khắc, lại dạy rất khó.

Bốn tác giả lớn nhất và khó nhất của triết học cổ điển Đức (Kant, Fichte, Schellling, Hegel) được thầy dồn lại trong một “cours” (giáo trình) chỉ ngót trăm trang, đọc muốn vỡ đầu mà chỉ có thể hiểu được lõm bõm. Mà nào phải chỉ cần đọc để tìm hiểu thôi đâu, còn “phải học” để đi thi nữa chứ; thi hỏng thì.. Thủ Đức đang chờ sẵn.”

(Trần Thái Đỉnh. “Triết học Kant”, nxb Văn Hóa Thông tin, 2005. Bài viết giới thiệu của Bùi Văn Nam Sơn có nhan đề“Nhân cuốn ‘Triết Học Kant’ của gs Trần thái Đỉnh được tái bản lần 3: Hồi niệm và viễn cảnh.)

Bùi Văn Nam Sơn, sinh viên du học Triết ở Đức, tình nguyện về Việt Nam. Ông cũng là tác giả dịch và chú giải cuốn sách đồ sộ: Phê phán Lý tính thuần túy (Kritik Der Reinen Vernunft) của Immanuel Kant do nxb VH, năm 2004. Cuốn sách dày 1261.

Hiện ông đang sống ở Việt Nam. Làm nghề gì thì tôi không biết(2).

Nhưng tôi xin phép được đào sâu thêm nữa về vấn đề giáo dục ở miền Nam.

Chương trình và mục đích của việc giáo dục ở miền Nam không phải do chính quyền Đệ I hay Đệ II Cộng Hòa đề ra. Chương trình ấy do một đại hội giáo dục gồm các nhà giáo dục, các vị giáo sư soạn mà mục đích và tôn chỉ là tinh thần Nhân Bản, Khai Phóng..

Nhân bản có nghĩa là giáo dục để đào tạo con người, vì con người và cho con người. Việc đào tạo mang ý nghĩa cao cả theo như Vercors gọi là “ cái làm cho người là người” (qualité d’homme).

  • Thứ nhất là dạy cho con người biết yêu mến cái đẹp trong thiên nhiên, trong nghệ thuật, trong thi ca, trong hội họa và trong văn chương triết lý mà chúng ta đã kế thừa được từ truyền thống văn minh Hy Lạp.
  • Điều thứ hai dạy cho con người biết yêu mến và tôn trọng quyền lực pháp lý, tôn trọng sự công bằng mà chúng ta được thừa hưởng từ trong thể chế của đế quốc La Ma và sau này từ Cách Mạng Pháp.
  • Và điều thứ ba quan trọng hơn cả và cũng khó khăn hơn cả, đòi hỏi hơn cả là làm thế nào để con người biết yêu mến và tôn trọng con người. Điều khó khăn này, một số trong chúng ta đã học được trong lời giảng dạy của truyền thống Ki Tô giáo.

Và đó là những đòi hỏi khẩn thiết nhất trong bất kỳ thời đại nào. Mỗi khi con người không được tôn trọng, con người bị chà đạp, con người bị khinh bỉ, con người bị giam cầm tù đầy một cách bất công thì kể như xã hội ấy đã có nguy cơ bị diệt vong và nền văn hóa của nó kể như đã chết. Và như lời lên án của Vercors: “L’homme a perdu sa qualité d’homme”. Con người ngày nay đã đã làm mất hết phẩm giá làm người của nó.

Nếu chúng ta chia xẻ được những suy nghĩ như trên thì sẽ dễ dàng hiểu được tại sao, Chuyện Chí Phèo là một tác phẩm lớn, lớn của Việt Nam mà lớn của nhân loại nữa.

Cái nhìn đó cũng là cái nhìn nhân bản. Nói đơn giản là một chủ nghĩa vì con người, coi trọng giá trị làm người dù đó là những con người thấp kém, vô học, dù đó là Chí Phèo hay Thị Nở. Một chủ nghĩa vì con người sẽ vượt qua những ranh giới địa lý, ranh giới chủng tộc, ranh giới ý thức hệ, ranh giới tốt xấu, ranh giới giầu nghèo, ranh giới giai cấp xã hội..

Và muốn hiểu được điều ấy phải vượt hay phá bỏ tất cả những rào cản như vấn đề giai cấp, vấn đề xã hội, vấn đề luân lý thông tục, vấn đề thế thái nhân tình, cái nhìn theo thói quen của xã hội thường khinh bỉ Chí Phèo, miệt thị nhan sắc của Thị Nở.

Xin thú thực với lòng mình, tôi đã mang và ấp ủ trong lòng từ nhiều năm nay về hình ảnh quá đẹp nối kết thân phận Chí Phèo với Thị Nở. Tôi thường tự so sánh họ với hai nhân vật trong một cuốn film của Ý. Film La Strada (Con đường) của đạo diễn Federico Fellini. Chí Phèo là hình tượng của Zampano. Và Gelsomina và Thị Nở đều là những phụ nữ bất hạnh.

(Đạo diễn film La Strada, 1954, Federico Fellini đã dựng nên hai mẫu hình nhân vật. Người thứ nhất là anh chàng Zampano, khỏe mạnh, lực lưỡng, tính nết cục cằn, bạo tàn như súc vật. |Anh làm nghề bán thuốc dạo, bằng cách giật đứt sợi giây xích sắt sau khi uống thuốc. Nhân vật thứ hai là một thiếu nữ yếu đuối –Gelsomina- còn thơ dại, con nhà nghèo vùng quê mà mẹ nàng vì không có tiền đã bán nàng cho anh chàng Zampano. Không nên quên là trước đây, chị của Gelsomina cũng đã được bán cho Zampano và sau đó cô đã bị chết.

Số phận hay định mệnh đã ràng buộc hai thân phận người ấy lại với nhau mà nhiều lần Gelsomina đã có ý định bỏ trốn đi vì sự đối xử tàn bạo của Zampano. Sau này, vì nghề bán dạo thuốc không còn thu hút nổi khách làng quê. Zampano quyết bỏ đi để bớt đi một miệng ăn. Nhưng cũng kể từ đó, sự mất mát của cả đôi bên như thể không thể nao thiếu vắng được. Zampano thì buồn bã rồi rượu chè. Gelsomina dù được hai chị em nhà kia đem về nuôi nấng, nhung cô cứ buồn bã rồi bệnh mà chết. Zampano say khướt đi tìm lại hình bóng Gel Somina, đến khi gặp thì được hai chị em nhà kia cho biết cô đã chết.

Đó là một bi kịch về thân phận người.)

Số phận hẩm hiu đã nối kết họ lại, tình người đã hé lộ. Nhưng rồi để vuột tay.

Rất tiếc là sau này tôi đã trót dại tìm mua cuốn film về Chí Phèo. Tôi trách những người làm film Chí Phèo vì đã bôi nhọ Thị Nở và đã vẽ hề cho Chí Phèo một cách không cần thiết.

Họ đã quá xúc phạm đến nhân phẩm Thị Nở khi đưa ra hình ảnh một người phụ nữ cực kỳ xấu xí cả về nhân dạng đến tính nết và ông đã giết chết chẳng những Thị Nở, mà còn giết chết cả Nam Cao nữa. Và tôi nghĩ rằng những ai không có một tâm hồn, không có một tấm lòng thì tốt hơn hết nên vứt tác phẩm của Nam Cao vào thùng rác.

Cái đẹp nhất cũng như cao cả nhất, dù là một Chí Phèo thì anh vẫn là một con người, có một con tim và từ chỗ đó tình người đã nở hoa giữa hai thân phận khốn khổ nhất. Thị Nở lần đầu tiên được để vào, được chan hòa sung mãn và hạnh phúc, được trở thành một người đàn bà như những người đàn bà khác.

Chí Phèo cũng lần đầu tiên được có người chăm sóc, được đút cho ăn cháo và hiểu thế nào là ở trên đời này vẫn còn những người tử tế. Từ đó lóe lên một tia hy vọng về thân phận người, dù trong hoàn cảnh cực đoan vẫn là nguồn hy vọng và đáng sống. Đây cũng là lần đầu tiên, cả hai nhận thức được một cách trọn vẹn là họ cũng có cơ may được làm người như mọi người.

Trên đời này, dù là một sợi tóc đi nữa, xem ra thừa thãi, vô ích, nhưng dù nhỏ nhoi nó vẫn cần thiết và có ý nghĩa để tồn tại huống chi một con người, dù là một con người như Thị Nở, như Chí Phèo.

blank

Tháng 7 năm 1950, nhà văn Nam Cao cùng Nguyễn Huy Tưởng đang trên đường đi chiến dịch Biên giới. Từ trái sang phải: Tô Hoài, Xuân Thủy, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao. Lúc này, Nam Cao đã là tác giả của nào là Chí Phèo, Sống mòn, Đôi mắt, Ở rừng… những tác phẩm đóng đinh vào văn học Việt Nam. (Nguồn: Nguyễn Huy Thắng con trai của Nguyễn Huy Tưởng, “Nhà văn Nam Cao và cái sự tương đối”, Tiền Phong, 2008)

Hiểu như thế, Nam Cao là một nhà văn nhân bản lớn, một nhà văn vượt mọi kích thước thông thường. Ông mang theo một sứ điệp phản bác tất cả những trào lưu tư tưởng, những chủ thuyết bất nhân biến con người thành những công cụ.

Chính những chủ thuyết ấy đã tàn phá xã hội và thời đại chúng ta, vì họ gieo rắc sự khủng bố, sự giam cầm và đưa toàn thể xã hội đến chỗ tuyệt vọng.

Vì thế, trong Hội Nghị bảo vệ Hòa Bình và Văn Minh Ky tô giáo tại Florence năm 1955, các đại diện đã công khai tuyên bố:

“Thời đại chúng ta là một thời đại hy vọng” (Notre temps est un temps d’espérance)

Và để củng cố cho lập luận, tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể sau đây:

  • Khi một binh sĩ VNCH, giữa khói lửa chiến tranh, can đảm bế một em bé ra khỏi vùng lửa đạn, anh là một con người nhân bản, có tình con người. Cuộc chiến nào cũng có bắn giết tàn bạo, nhưng nó không giết được tình con người.
  • Khi một bác sĩ quân y VNCH gọi một trực thăng đến tải thương một thương binh về bệnh viện Cộng Hòa, ông không cần biết danh tính người thương binh thuộc phe ta hay phe địch, nhiều phần thương binh ấy là một người lính phía bên kia. Bổn phận của ông là cứu sống người thương binh nhân danh con người. Và khi một viên y sĩ khác mổ xẻ để cứu sống người thương binh ấy thì hiển nhiên ông cũng không cần kiểm tra xem đó là một người lính quốc gia hay một Việt Cộng. Chỉ biết đó là một con người cần được cứu sống. Cái đẹp của cuộc chiến tranh đôi khi là ở chỗ đó.
  • Cuốn Nhật Ký Đặng Thùy Trâm có một số phận thật kỳ diệu. Sau một trận càn quét. Bệnh viện của bác sĩ Trâm bị tiêu hủy và Trâm trở thành liệt sĩ. Một người Mỹ có tên là Frederic Whitehurst, một sĩ quan quân báo, đã nhặt được hai cuốn nhật ký của cô. Ông đã giữ nó trong một phần ba thế kỷ và tìm mọi cách làm thế nào tìm được gia đình của liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Và cuối cùng ông đã tìm được gia đình của Đặng Thùy Trâm để trao lại. Ngày 29 tháng tư 2005, Frederick Whitehurst đã viết một lá thư như sau:

    “Tôi là Frederick Whitehurst. Tôi đã giữ ký ức về chị cô, bác sĩ Đặng Thùy Trâm ba mươi lăm năm nay… Sau bao nhiêu năm tìm kiếm, điều này giống như một giấc mơ và việc tìm ra gia đình cô khiến tôi bật khóc.”

(Nhật ký Đặng Thùy Trâm, bìa sau cuốn nhật ký)

Câu chuyện thật là đẹp, đầy tình người.

Tuy nhiên, câu chuyện đã mất đi một phần cái đẹp khi người ta cố tình xóa bỏ danh tính một trung sĩ Thông dịch viên, một người lính Quốc gia trong câu chuyện. Thật sự người tìm ra cuốn nhật ký này là một trung sĩ thông dịch viên. Anh ta đã đọc và thấy nó cần được giữ lại. Anh đã cắt nghĩa nội dung nhật ký đó và bàn thảo với viên cố vấn Mỹ và trao cho Frederick Whitehurst yêu cầu ông này giữ lại. Nếu không có người trung sĩ thông dịch yêu cầu giữ lại thì có thể cuốn nhật ký đã không còn nữa. Nó đã bị đốt như các tài liệu không cần thiết khác.

Vậy mà trong lời giới thiệu cuốn nhật ký, nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã không nêu tên người lính VNCH đó, và chỉ nói trống gần như một cách khinh bỉ là:

“bởi theo lời của một người lính ngụy, thông dịch viên người Việt trong đơn vị anh ta, thì “ở trong đó có lửa.”

Người trung sĩ thông dịch viên đó là ông Đỗ Trung Hiếu, hiện nay đang ở Mỹ và đã gặp hai chị em của bác sĩ Đặng Thùy Trâm đến thăm và tặng sách.

Tình người hình như chỉ có thể nở từ một phía chăng? Thật là đáng tội nghiệp cho Vương Trí Nhàn vì ông ta vẫn chưa học được bài học mà đáng nhẽ ông phải học được qua hai nhân vật Đỗ Trung Hiếu và người sĩ quan quân báo Mỹ.

(Còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline
28 Tháng Tám 2015(Xem: 17824)
Liệu Đế quốc Trung Cộng có "may mắn" thoát được số phận tan vỡ ra từng mảnh hay không và phe nào sẽ thắng thế trong cuộc tranh chấp quyền lực đẩm máu ?
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43131)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
27 Tháng Hai 2015(Xem: 19586)
Luận đề của "Đoạn Trường Tân Thanh" hiển nhiên là thuyết "tài mệnh tương đố"", gọi nôm na là "hồng nhan bạc mệnh".
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 27141)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22167)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29699)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 38150)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 36611)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 30724)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 21894)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 39049)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16313)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39801)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 14122)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50638)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 29009)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31488)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 90889)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 70264)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 96119)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 103207)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 139668)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 154176)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 120722)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 159833)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 149028)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 164978)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 157888)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160189)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 168781)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 164181)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27688)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42736)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 43987)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39371)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 30103)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 43180)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87119)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 97423)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67275)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93237)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32537)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 78020)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74501)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39226)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39621)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47066)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46250)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 146932)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23391)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.