Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P16)

07 Tháng Tư 201712:48 SA(Xem: 8513)
GS. Nguyễn Văn Lục - Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P16)

Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P16)


Tình trạng Quốc Gia Việt Nam vào những năm 1950

Sự ra đi của ông Ngô Đình Diệm sau khi Bảo Đại ký Hiệp Định Élysée ngày 8 tháng 3,1949 mà Ngô Đình Diệm coi như một sự đầu hàng của Bảo Đại trước người Pháp. Ông Diệm đã công khai lên án và coi như cắt đứt mối liên lạc với Bảo Đại.

Phần Bảo Đại tự coi như sứ mạng dành lại độc lập cho đất nước đã xong. Hay ít ra ông cho rằng đây là bước khởi đầu cho tiến trình dành độc lập. Tuy nhiên, khi nghe tin De Lattre De Tassigny chết ngày 11-1-1952, Bảo Đại đã mất hết mọi hy vọng cho một nền hòa bình cho Việt Nam. Ông viết trong Hồi ký:

“Sau cái chết của Đại tướng  , tôi có cám tưởng hòa bình chỉ còn là một hy vọng hão huyền.”

(S.M. Bao Daï, ibid., trang 293)

Tình trạng Quốc gia Việt Nam từ trong Nam ra Bắc trong giai đoạn này ít có sách vở đề cập chi tiết một cách đầy đủ.

blank

Lễ an táng tướng Jean De Lattre De Tassigny ở nghĩa trang Mouilleron-En-Pareds, ở Vendee, Pháp. 18/1/1952. Nguồn: Getty Images / Jarnoux Maurice

Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ khi nhìn vào cảnh hồi cư từ năm 1947, khi Pháp đã mở rộng được các khu vực bình định. Người ta thấy có khởi sắc và hy vọng. Đời sống sinh hoạt của người dân có phần nhộn nhịp hơn cả thời 1945. Điều này có thể cắt nghĩa được vì các thành phố và thị trấn đã được bình định như ở Trung Châu Bắc Việt và Trung bộ đã tạm yên. Trong Nam thì tương đối ổn định hơn vì Việt Minh vốn yếu, thiếu hậu cần tiếp liệu.

Lực lượng chính quy của Việt Minh đã bắt buộc rút vào chiến khu để bảo toàn lực lượng khiến đời sống dân chúng có thể tạm an tâm lo buôn bán làm ăn. Có thể nói, nơi nào được bình định nơi đó sung túc theo nghĩa chiến tranh nuôi dưỡng chiến tranh. Các cơ sở kinh danh, các xí nghiệp của người Pháp, người Tàu và người Ấn Độ lại được dịp xây dựng và phát triển.

Các cửa hàng đủ loại đầy ắp hàng hóa sản xuất trong nước cũng như nhập cảng cung cấp cho nhu cầu của người dân. Các tiệm ăn, rạp hát đầy ắp người ra vào, ăn uống.

Nhưng tôi nghĩ đó chỉ là bề mặt của sự phồn thịnh. Nó chỉ giúp tạo ra cảm giác an bình nhất thời cho người dân. Nó cũng cho thấy chọn lựa giữa Việt Minh và Quốc gia quả đã rõ ràng. Không ai còn ngu dại gì đi theo Việt Minh.

Cái khó nhất của chính quyền quốc gia là thiếu ổn định về mặt hành chánh và chính trị. Việt Nam có ba kỳ thì mỗi kỳ có hội đồng địa phương, chính phủ địa phương do một tổng trấn cai quản. Sự phân biệt ra ba kỳ rất rõ rệt tượng trưng bằng lá cờ vàng có ba vạch đỏ.

Chính phủ Trung ương do Bảo Đại chọn lựa đều nằm ở Nam Kỳ. Làm thế nào chính phủ Trung ương có thể điều hành các địa phương do có nhiều cơ quan chòng chéo lên nhau?

Vì thế, điều mâu thuẫn trái khoáy, phi lý là các vị Tổng trấn quyền hành bao quát cả một Phần vượt lên trên quyền hành của các Tổng trưởng? Điều này có khác gi thời kỳ Pháp thuộc, các vị Thống sứ, Khâm sứ mạnh hơn quan Toàn Quyền ở Trung ương?

Các vị Thủ tướng như Nguyễn văn Xuân, Trần văn Hữu, v.v. hầu như chỉ thực sự quản lý hành chánh ở phía Nam. Đã thế còn bị nghi kỵ là thân Tây, từng có vợ Pháp và được Pháp ưu đãi trọng vọng. Nhiều người vẫn có cảm tưởng đất Nam Kỳ là vùng đất tự trị của Pháp.

Cho nên việc chọn lựa các vị thủ tướng có khuynh hướng thân Tây là một sự yếu kém thấy rõ của Bảo Đại.

Các chức vụ chọn người đều dựa trên chuyên môn của từng bộ một cách không hợp lý. Y tế thì phải là một bác sĩ. Bộ Tư Pháp thì phải là một luật sư, Kinh tế thì phải một giáo sư, giáo dục cũng là một giáo sư.

Không lạ gì sau này thời ông Ngô Đình Diệm, người ta trình đưa lên ông Ngô Đình Nhu một vài trăm các chính khách tên tuổi, nghề nghiệp cùng địa chỉ với các chức danh như thương gia, luật sư, nghiệp chủ, y sĩ và thân hào. Ông Ngô Đình Nhu muốn biết rõ về năng lực và phẩm cách của của nhiều người để khi cần thì yêu cầu giữ những chức vụ quan trọng hoặc tham gia chính phủ. Nhưng những vị trên thật sự không đáp ứng nổi vai trò chính trị cho mỗi bộ ngành.

Sau khi xem danh sách và bình nghị như trên, ông cố vấn chỉ cười, “Chúng ta chỉ có những con người mà lịch sử cho chúng ta.” (Nous n’avons que des hommes que nous donne l’histoire). (Đoàn Thêm, ibid., trang 211)

Lập trường và viễn kiến chính trị của Ngô Đình Diệm khi ở ngoại quốc

Việc đi ra nước ngoài của Ngô Đình Diệm là một ngã rẽ chính trị cũng như một quyết định quan trọng trong cuộc đời làm chính trị của ông. Ở trong nước, ông bị kẹt giữa giữa hai thế lực: Việt Minh cộng sản mà đằng sau là cộng sản Tàu và Nga. Phía bên kia là thực dân Pháp với những người Quốc gia và công giáo đã ngả theo Pháp, hay nói đúng hơn giải ngả theo pháp Bảo Đại.

Có thể vì thế, gọi lập trường của ông Diệm là lập trường thứ ba: Không theo Pháp cũng như chống Việt Minh. Chọn lựa này có thể tiêu biểu bằng con số 60.000 nguời chạy về ẩn náu tại vùng Phát Diệm nam 1946.

Lập trường của ông Diệm đẫ được cựu hoàng Bảo Đại ghi lại trong Hồi Ký của ông như sau:

“Diệm là người phản đối mạnh mẽ nhất. Đối với Diệm, những nhượng bộ của Pháp rõ ràng không đủ khi hạn chế chủ quyền của Quốc Gia bằng cách sát nhập vào Liên Hiệp Pháp. Đối với ông ta, đó là những đề nghị sai lệch. Trần Văn Lý cũng chia sẻ quan điểm của Ngô Đình Diệm. Cả hai đã bị ảnh hưởng bởi các diễn biến của các phong trào giải thực đang diễn ra đồng thời tại Ấn Độ và Miến Điện và họ đã đưa ra một chương trình nhờ đó cho phép Việt Nam có quy chế tự trị Dominion. (Quy chế tự trị trong Liên Hiệp Anh). Đối với họ, đó là giải pháp duy nhất có thể chấp nhận được với những người Quốc Gia Việt Nam”

(S.M. Bao Daï, ibid., trang 198-200)

Với Diệm, “chúng ta chỉ có một thái độ: Chờ Đợi”

(S.M. Bao Daï, ibid., trang 198)

Vì thế, khi sang Nhật cùng với người anh của ông, qua lời tuyên bố rõ rệt của TGM Ngô Đình Thục ở Osaka đã gói ghém trọn vẹn, nói thay cho quan điểm chính trị của Ngô Đình Diệm:

“Nhân dân Việt Nam không muốn Bảo Đại cũng như Hồ Chí Minh, nhưng nhân dân Việt Nam mong muốn có một nền độc lập trọn vẹn do người Pháp trao lại. Sẽ không cần một Hồ Chí Minh và hòa bình sẽ được ngự trị trên đất nước Việt Nam nếu người Pháp thuận trao trả độc lập cho Việt Nam.”

(Political views of Ngo Đinh Thục, Catholic Bishop of Vinh Long le 18/6/1950 trong Foreign relations of the US, 1950, Vol VI (Gullion) to the Secretary of State, Saigon, june 23, 1950. Trich lại trong Trần Thị Liên, ibid., trang 364)

Đây có thể là lần đầu tiên, anh em ông Ngô Đình Diệm bày tỏ công khai chống Bảo Đại.

Phần Ngô Đình Diệm, ông cũng đã nhắc lại giải pháp mà người Mỹ đã dành cho Phi Luật Tân. Ngày 21/9/1950, trong cuộc tiếp xúc với William S.B. Lacy, ông Diệm yêu cầu người Mỹ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam qua lời tuyên bố như sau:

“Diệm bày tỏ công khai lập trường của ông và đã gây ấn tượng trong chính giới Mỹ khi ông yêu cầu người Mỹ cung cấp vũ khí cho quân đội của công giáo, Diệm có ý ám chỉ dân quân công giáo ở trong vùng Phát Diệm. Ông cũng cho biết còn có một lực lượng công giáo nữa ở Huế-Tourane từ năm 1947, (Lực lượng công giáo của Trần Văn Lý) nhưng lực lượng này đã bị phân tán vì không được sự yểm trợ tài chánh của người Pháp vì chính những thành quả tốt đẹp của họ.”

Diệm cũng không quên nhắc nhở lại người Mỹ đến những thành quả tốt đẹp mà họ đã làm ở Phi Luật Tân và Nam Dương. Diệm nói thêm:

“Người Pháp phải trao trả hoàn toàn quyền kiểm soát xứ Nam Kỳ cho Việt Nam. Bởi vì người Pháp không có khả năng phân biệt những người Việt Nam theo cộng sản và người Việt Nam không cộng sản, điều mà người Việt Nam có thể chính họ có thể phân biệt một cách dễ dàng, đặc biệt là ở Nam Kỳ. Ông Diệm còn cho biết chính ông cũng có trong tay một danh sách những người cộng sản nguy hiểm và quan trọng nhất ở đó. Diệm nói tiếp, một khi người Việt Nam có thể kiểm soát được Nam Kỳ thành công, những người Pháp sẽ phải rút ra khỏi xứ Nam Kỳ và ở lại Bắc Việt, ở đó, quân đội Pháp trở thành một chốt then chốt chống lại sự xâm lấn của Tàu cộng. Diệm tiếp tục nói: sau khi miền Nam đã được bình định, vấn đề Bắc Việt sẽ được xem xét lại.”

(Tran Thi Liên, ibid., trang 365)

Trong đoạn văn trên cho thấy, Ngô Đình Diệm không muốn gạt bỏ 100% vai trò người Pháp trong cuộc chiến. Điều quan trọng hơn cả, ông đã nhìn thấy trước những nỗi hiểm nguy trước sự đe dọa của Tàu cộng, điều mà Bảo Đại hầu như chưa quan tâm đến cho đủ.

GM. Ngô Đình Thục hoàn toàn ủng hộ quan điểm của Ngô Đình Diệm và nói thêm rằng nước Mỹ có bổn phận theo dõi và làm áp lực trên nước Pháp để họ tuân thủ những điều đã được thỏa thuận ở điện Elyssée, ngày 8-3.

Khi đến Mỹ vào năm 1951, ông Ngô Đình Diệm lại có dịp một lần nữa tái xác nhận những quan điểm chính trị của ông. Nhưng nay với một thái độ từ tốn hơn. Trong dịp trao đổi với Ngoại trưởng Mỹ D. Acheson vào ngày 15-1-1951, ông Diệm tỏ ra mềm dẻo hơn khi phát biểu:

“Lần này, Diệm phát biểu với một thái độ ôn hòa hơn lần trước. Hình như ông cảm thức được mối đe dọa nặng nề của Tàu cộng và cảm thấy có thể chấp nhận được quan điểm tự chủ dành cho các quốc gia trong khối liên hiệp ở Pau. Trong các cuộc trao đởi không còn có những quan điểm bài Pháp một cách lộ liễu như trong các cuộc trao đổi trước đây.”

Phúc trình của Acheson có nhắc tới việc Diệm có gửi một thư cho Bảo Đại qua trung gian Thủ Hiến Nam Phần Nguyễn Trung Vĩnh trong đó có nội dung như sau:

“Đối diện khủng hoảng mà đất nước đang gặp phải hôm nay, ông Diệm sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm chức vụ Thủ tướng và thành lập một một chính quyền mới với điều kiện Bảo Đại dành cho chính phủ Trung Ương nhiều quyền hành rộng rãi hơn và tránh tình trạng dễ dãi với các chính quyền của các phần đưa đến tình trạng lấn quyền tại các nơi ấy.”

(The Secretary of State (Acheson) to the legation at Saigon, Ocober 25-1950, p.909-910. Trích lại trong Tran Thi Liên, ibid., trang 366)

Diệm đã đề nghị với Bảo Đại như thế và tiếp tục ở lại Mỹ chờ đợi sự hồi đáp của Bảo Đại.

Đại diện chính phủ Mỹ ở Viêt Nam đã rất chú ý đến những đề nghị của Ngô Đình Diệm qua người đại diện là ông Gullion. Tuy nhiên, đại diện tỏ ra bi quan về sự có thể tìm ra một giải pháp có thể thỏa thuận được giữa Bảo Đại và Ngô Đình Diệm. Chuyện hầu như không thể xảy ra. Bản Phúc trình nhận xét:

“Sự quyết tâm của Ngô Đình Diệm sẵn sàng tham gia là một dấu hiệu tích cực và khích lệ trong tiến trình từ thái độ chờ thời và có tính cách bè phái. Chúng tôi đồng ý với quan điểm của ông ta và thấy rằng chính quyền Trung ương phái được củng cố thêm. Giám Mục Chi có cho biết Bảo Đại Đại đã tiếp nhận được lá thư của Ngô Đình Diệm. GM Chi nhận thấy Bảo Đại như chưa muốn trả lời Ngô Đình Diệm. Dù thế nào thì thành phần trong chính phủ hiện thời cũng sẽ có sự tham dự của một vài người công giáo. Và người ta cũng nhận thức được là có sự ác cảm cực lớn của Bảo Đại đối với Ngô Đình Diệm- căn cứ trên những sự giao tiếp từ xa xưa giữa hai người. Thái độ khinh bỉ dai dẳng của Diệm đối với cựu hoàng đã thêm vào chuyện cựu hoàng đã từ chối không mời Ngô Đình Diệm mỗi lần lập chính phủ.”

(The Secretary of Stae, ibid., trang 366)

Phần quan điểm của người Mỹ thì họ chấp nhận một chính quyền đoàn kết quốc gia trong đó với nhiều thành phần công giáo là điều đáng khích lệ. Tuy nhiên, người công giáo là thiểu số chỉ chiếm 10% dân số. Nếu để người đứng đầu chính phủ là một người công giáo thì điều đó tỏ ra thất lợi vì nó làm thay đổi toàn bộ hình ảnh về một chính quyền quân sự và chính trị. Người ta nghĩ đến việc thành lập một chính phủ với Bảo Long đứng đầu mà đằng sau có Hoàng hậu Nam Phương công giáo và Hoàng thân Cường Để.

Nhưng chỉ riêng đối với viên đại sứ mới, ông D. Heath có một ý hướng rõ rệt cổ võ cho lá bài Ngô Đình Diệm trong vai trò Thủ tướng. Bởi vị thành phần chính phủ Trần Văn Hữu ngày 18-2-1951 đã làm người Mỹ thất vọng không ít. Mình Trần Văn Hữu đã đảm trách 4,5 chức vụ chủ chốt. Đó là thông lệ xấu. Chẳng hạn chính phủ Nguyễn Phan Long kiêm ngoại giao với nội vụ, Trần Văn Hữu kiêm Quốc Phòng với ngoại giao rồi cả nội vụ và tài chánh. (Đoàn Thêm, ibid., trang 202)

Chính phủ Trần Văn Hữu dựa hơi người Pháp với 14 trên 16 bộ trưởng gốc Nam mà không có sự tham gia của Đại Việt, VNQDD, công giáo hay giáo phái cũng như thành phần người quốc gia độc lập. Trong từng ấy khuôn mặt, không có khuôn mặt chính trị nào có tầm cỡ.

Và vị đại sứ Hoa Kỳ khẳng định rằng:

“Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh là người Việt Nam duy nhất có tư thế của một lãnh tụ có tầm vóc quốc gia. Và sau Hồ Chí Minh là Ngô Đình Diệm, nhà lãnh đạo công giáo hiện đang có mặt ở Hoa Kỳ. Trong các công cuộc trao đổi ở Paris, ông Pignon, thủ tướng Pháp đi đến kết luận chỉ có một giải pháp duy nhất cho Bảo Đại là giao phó việc thành lập chính phủ cho Diệm. Ông Pignon còn nói thêm rằng hoàng thân Bửu Lộc, người đại diện cho Bảo Đại ở Paris, đã có những nhận định chính trị sáng suốt đáng nể cũng đã ngầm đồng ý với ý kiến của Pignon.”

(The Minister at Saigon ( Heath) to the Secretary State ( Acheson), Saigon, February 24, 1951, p.384. Tran Thi Lien, Ibid, trang 168)

Bảo Đại và Bảy Viễn

blank

Bảy Viễn. Nguồn: Pierre Darcourt

Riêng Bảo Đại, từ năm 1949-1950 có cơ hội cấu kết với tên trùm băng đảng Bảy Viễn, từng vượt ngục Côn Đảo nhiều lần và còn nợ chính quyền Nam Kỳ (Cochinchine) tám năm tù phải trả ngoài Côn Đảo. Vậy mà bảo Đại kết bạn đi săn, đi ăn uống, nhất là chia sẻ trai gái lẫn tiền bạc nên sẵn sàng nói người Pháp phong cho Bảy Viễn lên chức tướng.

Bảy Viễn nay oai phong, lẫm liệt, có mặt trong các cuộc duyệt binh chính thức với tư cách một viên tướng, có mặt trong các cuộc tiệc tùng, cai quản luôn các quân đội Cao Đài, Hòa Hảo.

Làm thế nào y đủ uy tín để điều khiển quân đội quốc gia mà tiền thân của y mọi người đều biết là một tên cướp? Dưới trướng của y có 3000 quân đội hộ vệ. Để có tiền chi phí, Bảo Đại đã giúp Bảy Viễn giành lại sòng bài Đại Thế Giới từ tay các tài phiệt người tàu từ Ma Cao sang làm ăn.

Đây là một sòng bài nổi tiếng toàn Châu Á đạt kỷ lục về số doanh thu kể từ năm 1946. Trong sòng bài có 50 căn nhà, được rào che chắn cẩn thận, mỗi nhà có 4, 5 sòng bài. Người ta chen chúc nhau vào chơi bài, sát phạt nhau mà thực tế người thua nhiều hơn người được. Bên cạnh đó còn có ba nhà hát, và hai rạp chiếu bóng, vũ trường với sàn nhảy rộng đến 300 mét vuông. Rồi còn những khu ăn chơi kín đáo hơn với các cô vũ nữ đủ loại, với các buồng ngủ như các lô cốt với cửa kính mờ.

Hàng tháng, Bảy Viễn nộp cho chính quyền 500.000 đồng bạc Đông Dương. Phần của Bảo Đại là 250.000 (tương đương 24 triệu franc theo giá hối đoái năm 1950) (Trích dịch tóm lược Pierre Darcourt, “Bay Vien, Le Maitre de Cho Lớn”, Hachette)

Ngoài Bảy Viễn còn có ba người thân cận bên cạnh Bảo Đại như những cố vấn là Hoàng thân Bửu Lộc, luật sư, Nguyễn Đệ, một triệu phú, con của cựu khâm sai, phó vương Bắc Kỳ và Phan Văn Giáo.

Phan Văn Giáo, gốc công giáo. Ông thiết lập một đội Bảo Vệ Đoàn do người Pháp trang bị súng ống. Do cái công trạng ít ỏi đó, ông yêu cầu Bảo Đại chức vụ Tham Mưu Trưởng quân đội Việt Nam. Và ông hy vọng với đám Vệ Binh Đoàn, ông sẽ chiến thắng Việt Minh tại các vùng Vinh và Thanh Hóa. Vậy mà đã được Bảo Đại phong Trung tướng để điều khiển 4 tỉnh miền Nam Trung Việt: Bình, Phú, Nam, Ngãi. Kết quả ra sao thì đã rõ. Và dưới thời chính phủ Trần Văn Hữu, ông được đề cử là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng! Người Pháp coi ông là một nhân vật then chốt trong guồng máy của Bảo Đại.“Người gần gũi” của Quốc Trưởng.

blank

Phan Văn Giáo và Bảo Đại, Đà Lạt 1949. Nguồn: OntheNet

Đây là việc bổ nhiệm và phong tướng thật khác thường của Quốc Trưởng. Người Pháp không tin tưởng vào tư cách và tài cán của Phan văn Giáo. De Lattre không chấp nhận Phan văn Giáo trong vai trò Bộ trưởng Quốc Phòng trong nội các Trần văn Hữu và đề cử ông Nguyễn Hữu Trí.)

Vài dòng về nhân vật Nguyễn Đệ. Ông là người thân Pháp và được người Pháp kính nể. Có thể nhiều phần sau này do sự đề cử của Pignon mà Bảo Đại dùng Nguyễn Đệ.

Bảo Đại đã nhận xét về Nguyễn Đệ như sau:

“Từ hơn nửa thế kỷ nay, gia đình ông ta đã phục vụ một cách trung thành đầy nhiệt huyết các hoàng đế của triều Nguyễn. Ông đã chứng tỏ cho tôi thấy rằng một sự cộng tác đắc lực mà sự trung thành là điều không thể nào phủ nhận được. Ở mọi nơi, ông theo tôi như hình với bóng, thi hành những công việc rất là tế nhị và theo tôi rất là cực nhọc với một sự khôn ngoan khéo léo, tế nhị với một lòng trung thành qua mọi thử thách và với một nhân cách mà người ta có thể nhìn thấy trên khuôn mặt của ông như mooijt vị thánh tử đạo đang vác Thánh Giá”

(S.M. Bao Daï, ibid., trang 258-259)

Thú thực tôi chưa từng được nghe một lời tán tụng nào của Bảo Đại đối với người cộng tác của ông như thế. Tôi cũng hiểu rất rõ những công tác bội bạc và tế nhị ấy là gì và Nguyễn Đệ đã thi hành một cách kín đáo và đầy lòng trung thành mà ngoài Bảo Đại ra, có thể bà Nam Phương biết được? Cũng như những người tình nhân nổi tiếng hay không nổi tiếng của Bảo Đại mới biết được?

Ngoài Bảo Đại, người Pháp cũng vinh danh ông với tước hiệu: “Commandeur de la légion d’honneur” do chính tay TT Pháp Vincent Auriol trao tặng. De Lattre De Tassigny trao tặng “Croix de Guerre”. (Tran Thi Lien, ibid., Interview avec Nguyen De, Saint Mandé, le 14-11-1989, trang 374)

Phần khác các chức sắc công giáo như Gm Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi đều khuyến khích ông tham gia chính phủ để giúp Bảo Đại. Việc dùng Nguyễn Đệ của Bảo Đại hẳn là không sai. Với tư cách là người công giáo, đã hai lần ông sang triều kiến Vatican và gặp các chức sắc ở đây nhằm mục đích chứng minh rằng chính quyền Bảo Đại là chính quyền duy nhất có thể ngăn chặn được cộng sản. Ông đã có dịp gặp các chức sắc như Hồng y Tardini, Constantini và Fumasoni cũng như Montini.

Ông đã được Giáo Hoàng Pius XII tiếp kiến ngày 28-3-1950 trong vòng một tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, tại Giáo triều có linh mục Huy vốn theo quan điểm bảo thủ và cứng rắn của Ngô Đình Diệm cũng như của gm Lê Hữu Từ hẳn đã là ráo cản công việc của Nguyễn Đệ không ít. Giáo Hoang tỏ ra thận trọng trước những điều tường trình của Nguyễn Đệ. Cùng lắm, Giáo Hoàng bày tỏ một thiện cảm trong cái tình cha con. Nhưng không nhất thiết là Vatican có quyết định thiết lập một bang giao chính thức với chính quyền do Bảo Đại câm đầu. Vì thê, sứ mạng của Nguyễn Đệ bên cạnh tòa thánh không đạt được những kết quả như ông mong muốn.

Đằng khác, đường lối của Vatican là giải thực và bản địa hóa các giáo hội của thuộc địa, trao quyền quản trị giáo hội cho các địa phương. Việc bổ nhiệm các giám mục như Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Trịnh Như Khuê, Hoàng Văn Đoàn nằm trong cái tinh thần đó của Vatican.

Nhưng về mặt quản lý, Nguyễn Đệ được coi như cánh tay mặt của Bảo Đại. Nguyễn Đệ trở thành một thứ mưu sĩ hàng đầu của Bảo Đại.

Kết luận

Trong số các nhân vật lãnh đạo nổi bật nhất trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất. Có ba nhân vật được nhiều người viết sách và tài liệu nhắc nhở đến. Chỉ có hai người là Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm. Bảo Đại trở thành một nhân vật bên lề, một thứ bù nhìn không hơn không kém.

Nhưng lịch sử càng lùi xa, càng nhiều phát kiến tài liệu, nhân vật đáng lẽ được coi là hàng đầu là Hồ Chí Minh đang trở thành đối tượng của sự nguyền rủa và khinh bỉ ngay trong nội bộ các lãnh đạo đảng cộng sản.

Chỉ còn lại một Ngô Đình Diệm, dù thế nào đi nữa, ông vẫn là người yêu nước chân thành và người duy nhất biêt hy sinh cho đại cuộc bảo vệ chính kiến của mình.

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

24 Tháng Giêng 2015(Xem: 26683)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 21823)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29373)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 37630)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 36039)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 30091)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 21682)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 38720)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16138)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39242)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 13980)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50177)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 28490)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31271)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 90288)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 69706)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 95301)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 102544)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 138820)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 153510)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 120055)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 159092)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 148229)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 164283)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 157156)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 159581)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 167899)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 163368)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27588)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42301)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 43621)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 38804)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 29947)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 42749)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 86456)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 96658)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 66732)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 92527)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32279)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 77559)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74181)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 38898)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39168)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 46740)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 45817)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 146717)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23305)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.