Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Huỳnh Công Ân - TỪ SÀI GÒN ĐẾN MONTRÉAL, NỔI TRÔI THEO VẬN NƯỚC (Chương VIII)

29 Tháng Năm 20192:20 SA(Xem: 11574)
GS. Huỳnh Công Ân - TỪ SÀI GÒN ĐẾN MONTRÉAL, NỔI TRÔI THEO VẬN NƯỚC (Chương VIII)

Chương 8- Tri ci to



 

Một đêm cuối tháng 6 năm 1975, tôi và những người sĩ quan cấp úy của Quân Lực VNCH trình diện tại trường trung học Pétrus Ký bị lùa lên những chiếc xe Molotova che bạt bít bùng chở đi giữa lòng Sài Gòn trong khi mọi người đang ngủ say. Chúng tôi không biết họ chở chúng tôi đi đâu và sẽ làm gì chúng tôi. Ai nấy đều hoang mang, nhứt là khi trông thấy có hai anh bộ đội mang súng AK54 ngồi phía sau.

Độ một giờ sau, đoàn xe dừng lại. Một anh bộ đội nhảy xuống xe nói vọng vào xe: anh nào cần đi "giải" (đi tiểu)  thì xuống xe đi "khẩn trương" (nhanh) lên. Một vài người leo xuống, anh ta cầm súng đi theo. Anh bộ đội kia vẫn ngồi trên xe trông chừng những người còn lại. Khi mọi người trở lại xe thì đoàn xe chuyển bánh đi tiếp.

Khi trời tờ mờ sáng thì đoàn xe dừng lại. Chúng tôi được lệnh leo xuống xe và đứng xếp hàng. Một vài người nói nho nhỏ: phi trường Trãng Lớn, Tây Ninh. Tháng 1 năm 1969 chiếc phi cơ C123 của không quân VNCH chở tôi đáp xuống đây trước khi về phi trường Tân Sơn Nhứt. Ngày đó, tôi vừa được quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ cho xuất viện sau khi điều tri vết thương trong cuộc đụng độ với Việt cộng tại mặt trận Giáp Nước, Vĩnh Long trước đó. Tôi lên phi trường Vĩnh Long xin quá giang các anh phi công về Sài Gòn và ghé ngang phi trường Trảng Lớn.

Một số cán bộ tại chỗ đã đứng sẵn đón chúng tôi và cùng các anh bộ đội mang súng chia chúng tôi ra từng nhóm, mỗi nhóm được đưa vào một căn nhà dài. Vào trong, họ bắt nhóm chúng tôi ngồi xuống và chia chúng tôi thành ba nhóm nhỏ gọi lần lượt là A1, A2 và A3 (A là tiểu đội). Cả nhóm tôi thì được đặt là B1 (B là trung đội). Còn nguyên đoàn chúng tôi là K5 (K là đại đội).

Sau khi chúng tôi chia chỗ nghỉ và cất đồ đạc  thì một anh bộ đội có mang súng đến căn nhà chúng tôi bảo lấy ba người đi lãnh gạo và nồi về nấu cơm cho cả B ăn. Anh bộ đội dẫn ba anh ấy đi rồi một lát sau trở về với hai bao gạo và một cái nồi to tướng.


Một số anh tình nguyện làm "anh nuôi" (nấu bếp). Họ chạy đi tìm những cục gạch để kê làm bếp và những cành cây hay khúc gỗ quanh đó để làm củi. Họ lấy nước ở một vòi nước gần đó. Khi cơm nấu xong, các anh nuôi phân phát cho mọi người. Ai cũng mang theo đồ ăn cho mười ngày nên có cơm thì mọi người ăn rất ngon lành.

Những ngày sau, chúng tôi nằm chờ giờ cơm và đếm từng ngày mong đến ngày thứ mười. Rồi ngày thứ mười cũng đến nhưng chúng tôi chẳng thấy gì xảy ra. Mọi người trở nên bi quan. Có người đoán phải học chính trị xong mới được về. Có người đoán chắc không có ngày về. Cành cây khô, gỗ vụn... chung quanh trại không còn nữa, chúng tôi phải cưa những cây dầu làm trụ điện để làm cũi. Cán bộ bắt chúng tôi đào hố chôn những máy móc trong phi trường như máy cắt, máy tiện, máy cưa, máy đèn... họ cho là đồ của Mỹ, Ngụy không nên dùng!

Một tháng trôi qua, một đêm nọ, cán bộ bảo chúng tôi thu xếp hành trang để chuyển trại. Có người ngây thơ nói chắc là họ thả mình về. Nhưng đa số tin rằng họ sẽ đem giam chúng tôi ở chỗ khác. Cũng cảnh mấy anh vệ binh áp tải chúng tôi lên xe molotova phủ bạt bít bùng và khởi hành giữa đêm khuya như lần ở trường Pétrus Ký.

Khi đoàn xe dừng lại đổ chúng tôi xuống một doanh trại. Vài người kêu lên; Long Khánh. Thì ra họ là những sĩ quan của sư đoàn 18 nên biết địa điểm này. Chúng tôi được đặt tên là K3 (đại đội 3) nằm trong T4 (tiểu đoàn 4) ở chung một doanh trại với các K khác. Tôi ở B3 (đại đội 3), gồm toàn sĩ quan gốc giáo chức ở chung trong một nhà dài. B trưởng là Sơn già, một anh giáo viên tiểu học người Bắc lớn tuổi nhứt trong B. A trưởng A1 (tiểu đội 1) của tôi là Sơn nhỏ, một giáo sư đệ nhứt cấp người Nha Trang. T5 nằm ở doanh trại bên cạnh.

Ngày hôm sau, khối chúng tôi được tập hợp ngoài sân để quản giáo nói chuyện. Anh ta nói rằng chúng tôi được chuyển về đây để học chính trị, học xong chúng tôi sẽ được thả về sum họp với gia đình. Anh ta còn nói thêm, sở dĩ chúng tôi phải học chính trị là để trở thành ”người tốt trong xã hội mới”. Chúng tôi có “nợ máu với nhân dân” nhưng đảng khoan hồng không giết chúng tôi mà chỉ muốn cải tạo chúng tôi thành người hữu ích. Tôi nhớ lại câu nói để đời của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: "Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm" mà nghĩ rằng ngày về với gia đình của mình vẫn còn xa. Trước khi chúng tôi đi trình diện họ bảo mang thức ăn, tiền bạc đủ dùng cho 10 ngày nhưng đến nay hơn một tháng mà ngày về đâu chưa thấy.

Sau vài ngày lao động lòng vòng trong trại, chúng tôi bắt đầu được phát giấy bút để bắt đầu học tập chính trị. Chúng tôi được tập trung tại hội trường để nghe chính trị viên T4 giảng bài. Tôi còn nhớ có tất cả 10 bài học chính trị có chủ đề: Đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là kẻ thù của nhân dân ta, Ngụy  quân, ngụy quyền, tay sai của đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta... và bài cuối cùng là Lao động là vinh quang. Thời gian học các bài chính trị kéo dài khoảng một tháng, sau mỗi bài học chúng tôi chia thành tổ thảo luận rồi bình bầu cá nhân xuất sắc. Mỗi người làm một bài thu hoạch nộp cho quản giáo (cai tù).

Học xong các bài chính trị, nhiều người “hồ hởi” (vui mừng)  tin rằng mình sắp được thả về. Riêng tôi vẫn nghĩ rằng mình sẽ còn bị giam giữ lâu dài. Cứ vài ngày, chúng tôi phải làm và nộp cho quản giáo một tờ khai “lý lịch trích ngang”. Ban đầu tôi tưởng những giấy tờ này sẽ được cán bộ giữ để nghiên cứu và điều tra “quá trình” hoạt động của chúng tôi trong hệ thống chính quyền và quân đội VNCH. Nhưng một hôm khi đi vệ sinh, tôi bắt gặp những tờ tự khai của đám cải tạo chúng tôi nằm phía dưới hố tiêu. Tôi nghiệm ra rằng đám quản giáo chẳng buồn xem các tờ khai đó làm gì mà chỉ dùng theo bản năng. Có nhiều anh cải tạo cố nặn óc khai cho mình nhiều tội với “cách mạng” như anh làm thầy giáo tự tố cáo mình đã đào tạo học sinh thành "lính ngụy ác ôn”, anh bác sĩ quân y tự thú đã chữa lành cho những tên ”đồ tể” trong quân lực VNCH. Họ nghĩ  rằng nếu họ ‘thành thật khai báo” thì sẽ được “cách mang khoan hồng” cho về sớm!

Rồi thời gian trôi qua, chúng tôi tiếp tục cuộc sống của những tên tù khổ sai. Quản giáo phân công chúng tôi làm những công việc khác nhau trong trại. Về phần ăn uống, họ cho một số người trong khối làm “anh nuôi” nấu mỗi bữa ăn một chão cơm khổng lồ rồi phân phát cho các B, rồi B phân phối cho các A. Mọi người trong A ngồi quanh quần  bên rổ cơm. Một anh đến phiên trực chia đều cơm cho mỗi người. Cũng nên thông cảm vì bản năng sinh tồn, có nhiều anh chia cơm đã ém chặt phần cơm của mình cho nhiều hơn người khác. Các anh làm trong nhà bếp được hưởng phần cơm cháy dưới đáy chão như bonus. Thức ăn thì mỗi người tự lo lấy chứ trại không cung cấp.

Tình hình ăn uống trở nên khá hơn khi trại cho phép tù gởi thơ về gia đình để xin tiếp tế thức ăn khô. Thơ không được dán kín để trại kiểm soát nội dung. Do đó anh tù nào cũng nói dối với gia đình rằng mình đang “lao động tốt, học tập tốt” để chờ ngày “cách mạng khoan hồng tha cho về sum họp với gia đình”. Không biết từ lúc nào người tù cải tạo nhiễm cách ăn nói đao to, búa lớn và sáo rỗng như vậy dù mới “học tập” chưa đầy một năm, Bởi vậy, chúng ta đừng ngạc nhiên khi về Việt Nam nghe thấy những danh từ “lạ” (giống như tàu “lạ” đâm chìm tàu ngư dân Việt Nam) tràn ngập trong xã hội Việt Nam như: hoành tráng, ấn tượng, ùn tắt, siêu xe, đại gia, biệt phủ... thay cho những từ ngữ dễ hiểu như to đẹp, gây chú ý, kẹt xe, xe đắt tiền, nhà giàu, biệt thự...

Mỗi người được phép nhận 4 kg quà do gia đình gởi vô: đường, bột ngọt, khô hay thịt chà bông... đặc biệt là thuốc tây. Ở trong trại, mỗi khi tù bị bệnh lên trạm xá (trạm y tế} xin thuốc thì dù họ bệnh gì cũng đều được phát cho nhưng viên thuốc “xuyên tâm liên”. Kể từ đó, người tù đỡ lo hơn về mặt dinh dưỡng và sức khỏe, chỉ tội những người tù “con bà phước” (không có thân nhân) thì chỉ biết thèm thuồng nhìn những người bạn tù tốt số hơn mình. Dĩ nhiên vẫn có người hão tâm chia sẻ cho họ nhưng làm thế nào cho đủ.

Một hôm, gần cuối năm âm lịch 1975, tôi và một số bạn tù được lệnh đi xuống cuối trại khiêng những tấm vĩ sắt PSP về khối để lót phía sau nhà bếp. Trước đây, có lẽ những tấm vĩ này được lót để cho trực thăng đáp xuống tiếp tế cho trại vì ở gần đó có nhiều nhà vòm bằng sắt để chứa các quân dụng được tiếp tế. Khi tôi và một người bạn tù ì ach khiêng tấm vĩ sắt nặng nề trở về khối thì bỗng có tiếng nổ lớn bên hông trại rồi hàng loạt tiếng nổ khác tiếp tục vang lên. Chúng tôi bỏ vĩ sắt xuống chạy vào một nhà vòm trú ẩn. Tiếng những mãnh đạn hay bom chạm vảo nhà vòm làm chúng tôi bạt vía. Tôi tự nghỉ khi còn chiến tranh mình không chết nay hòa bình rồi mình lại chết vì bom đạn hay sao?

Chúng tôi đợi khá lâu sau khi dứt tiếng nổ mới chui ra khỏi nhà vòm. Chúng tôi quan  sát thấy la liệt mảnh bom đạn đầy trên mặt đất. Quả là chúng tôi còn may mắn nếu không có chỗ ẩn nấp thì chúng tôi đã tan xương, nát thịt. Trở về khối chúng tôi được biết có một số ít tù bệnh nằm ở nhà bị chết. Ngoài ra có một anh trung úy bác sĩ quân y làm ở trạm xá cũng bị chết. Tôi còn nhớ tên anh ta là Nguyễn Đăng Chương Dương. Còn về số thương vong phía bộ đội tôi không rõ nhưng chắc là nhiều lắm vì họ ở nhà. Nơi phát xuất vụ nổ là kho đạn cũ của sư đoàn 18 sát bên hông của trại.

Nguyên nhân vụ nổ là do một anh bộ đội coi kho đốt dây chuyền nổ làm pháo bông chơi. Tiếng nổ vang vọng tới Sài Gòn khiến thân nhân những người tù cải tạo đổ xô lên Long Khánh dò la tin tức người nhà. Vợ tôi nhờ em họ tôi trông dùm thằng con mới được mấy tháng cùng má vợ tôi đáp xe lửa mỗi ngày lên Long Khánh để tìm tôi. Nhưng chính sách của những người cộng sản là giữ bí mật nơi giam giữ tù cải tạo nên vợ tôi chỉ biết khóc bù lu bù loa chớ không sao gặp được chồng.

Tết năm 1976, cái tết đầu tiên trong trại cải tạo làm cho tôi thắm thía thân phận một người thua trận. Dù bị cấm, đêm giao thừa chúng tôi tụ họp ngoài sân đồng ca bản Ly rượu mừng của Phạm Đình Chương. Tiếng hát vang lên trong đêm cuối cùng của năm khiến mọi người nhớ tới những đêm 30 của những năm sống trong chế độ tự do, những thời gian hạnh phúc mà chúng tôi không biết.

Cũng trong trại cải tạo Long Khánh, tôi cảm xúc hoàn cảnh của mình nên có làm một vài bài thơ. Không phải là thi sĩ nên thơ tôi chắc không hay nhưng đó là tất cả nỗi lòng của tôi.

 

Mưa khuya

Nửa đêm thức giấc nghe mưa

Như sầu rơi rụng giọt thưa giọt dầy

Sầu rơi lai láng đêm ngày

Đọng thành hồ lệ chưa đầy hay sao

Nửa năm như giấc chiêm bao

Tỉnh cơn ác mộng niềm đau vẫn còn

(Trại cải tạo Long Khánh, đêm mưa cuối mùa 1975)

 

Đêm sinh nht

Sáo ai cất giữa đêm đông

Khúc buồn “Đêm thánh vô cùng” ngày xưa

Lâng lâng tôi đắm trong mơ

Nhớ mùa Sinh Nhựt nên thơ năm nào

Đưa em đi dạo bến tàu

Đen treo sáng rực đón chào Chúa sinh

Năm nay Sinh Nhựt một mình

Ngắm trời sao sáng mông mênh nỗi buồn.

(Trại cải tạo Long Khánh, Noel 1975)

 

Chiu nh

Khói lam chiều tỏa xa xa

Quyện trong mây gió nhớ nhà bâng khuâng

Còn bao lâu nữa đến xuân?

Ngày về không biết đã gần hay chưa

Xa nhau từ buổi gió mưa

Thoắt đà sáu tháng ước mơ chập chùng

Ước mơ giây phút tương phùng

Tơ duyên căng lại dây chùng bấy lâu

(Trại cải tạo Long Khánh, cuối năm âm lịch 1975)

 

Xuân chia ly

Xuân về trại vắng buồn tênh

Nghĩ thương cho nỗi lênh đênh phận mình

Nước nhà nay đã thanh bình

Sao còn chia cắt thâm tình nữa chi

Làm cho lệ ướt hoen mi

Người cô phụ trẻ mỗi khi đêm về

Ôm con trông ánh trăng thề

Nhớ người xa cách não nề ruột gan

(Trại cải tạo Long Khánh, xuân năm 1976)

Lại một lần nữa trong năm 1976, chúng tôi bị chuyển trại trong một đêm tối mịt mùng cũng vẫn trong những chiếc xe molotova che bạt bít bùng. Bắt chước Mị Châu trong truyền thuyết Trọng Thủy Mị Châu, tôi viết câu: “tù cải tạo bị chuyển đi hướng này”  trên những mẫu giấy nhỏ và lén vạch tấm bạt liêng xuống đường mong người dân lượm được biết chúng tôi bị đưa về đâu.

Lần này họ đưa chúng tôi lên Ka Tum, Tây Ninh. Nơi đây, đám tù trước đã xây dựng láng trại khá khang trang. Ba dãy buồng ngủ của chúng tôi xếp thành hình chữ U quanh một sân rộng dành để tập họp tù để nghe chỉ thị của quản giáo. Đầu chữ U là nhà ăn, phía sau nhà ăn là lò rèn.

Lên đây, đám giáo chức chúng tôi bị phân ra và pha trộn với đám quân nhân thuần túy. Trong B tôi chỉ còn ba thầy giáo là Nghiêm Dũng, Vui và tôi. B trưởng là một anh thiếu úy người Bắc theo đạo Công Giáo rất miệng lưỡi. A trưởng của tôi là một anh thiếu úy người Huế hay Quảng Trị rất thâm hiểm.  “Hoạn nạn mới biết chân tình” và “cháy nhà mới lòi mặt chuột:”, những câu nói đó ứng nghiệm đúng trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực của những người tù cải tạo. Tôi rất tự hào rằng trong tận cùng của sự thiếu thốn, đói khát và đọa đày thể xác cũng như  tâm hồn ở trại cải tạo tôi vẫn giữ được tư cách của một con người. Không thiếu gì người đã không chịu nỗi những thử thách khắc nghiệt đó nên đã đánh mất lương tri của một con người,  để làm ăng ten quên đi tình nghĩa huynh đệ chi binh ngày xưa tố cáo người đồng tù, đồng đội với quản giáo những “vi phạm nội quy” của họ như: nói xấu chế độ mới, kể chuyện cũ, nói tiếng nước ngoài, chây lười lao động...


Ở đây là đồng cỏ nối tiếp với rừng cây nên trại chia khối của chúng tôi thành các đội như sau: đội đi rừng, đội mộc, đội xây nhà và đội cải thiện. Mỗi buổi sáng, sau khi ăn một chén cháo loãng, các đội tập hợp ngoài sân để nghe quản giáo phân công tác. Đội đi rừng đi lấy tranh hay chặt cây. Sau khi cán bộ ra chỉ tiêu, đội trưởng phân công tác ngượi đi lấy tranh, người đi chặt cột, ruôi, mè... Nếu cột to thì hai người khiêng một cột, còn ruôi và mè thì mỗi người một bó. Đội mộc, đội xây nhà và đội cải thiện thì làm việc tại trại. Đội mộc đục đẽo, cưa cắt các khúc cây thành cột, kèo. Đội xây nhà thì đánh tranh thành tấm, dựng cột, ráp sườn nhà và lợp mái tranh. Đội cải thiện thì lrồng rau và gánh phân lấy từ các hố xí để tưới rau.

Tôi và Thượng, một dược sĩ thường được cắt đi chung để chặt cây lớn làm cột. Nhiều hôm, chặt xong cây và lóc hết vỏ cây tôi và Thượng đến tắm ở  cái hồ nước ở ranh đồng cỏ và cánh rừng, dường  như đó là di tích của một hố bom do máy bay B52 tạo ra. Đôi khi đang vẫy vùng trong nước, chúng tôi nghỉ tới việc trốn trại nhưng nhớ đến thú dữ trong rừng hay những người dân trong vùng, trước đây nằm trong vòng kiểm soát của bọn du kích địa phương chúng tôi đành chùn bước. Thượng trước đây được làm ở trạm xá nhưng có một lần cải nhau với một tên “hộ lý” (y tá) về cách kê thuốc cho bệnh nhân nên anh bị đưa ra lao động.

Sau hơn một năm cách ly tù cải tạo và gia đình, trại cải tạo Ka Tum cho phép người nhà lên thăm nuôi tù nhân. Lần đầu tiên tôi gặp lại vợ con tôi sau hơn một năm xa cách. Khi tôi đi trình diện “học tập cải tạo”: thì con tôi còn ở trong bụng mẹ, ngày vợ tôi đi thăm nuôi tôi nó đẫ biết đi lẩm chẩm. Tôi phải đi bộ hơn 5 cây số từ trại ra Bổ Túc, địa điểm thăm nuôi. Gia đình tôi được ở trong một cái lều riêng để trò chuyện.  Tôi kể chuyện nhục nhằn trong kiếp tù cải tạo mà chỉ cần nhìn qua dáng vóc gầy gò của tôi thì vợ tôi đã hiểu.  Vợ tôi kể chuyện thay đổi của xã hội bên ngoài. Còn con tôi chỉ biết ngơ ngác nhìn người đàn ông chưa hề gặp.

Vì thiếu thốn đủ thứ trong trại tù nên khi tôi viết thơ về gia đình, tôi xin: đường, bột ngọt, đậu, thịt chà bông, nếp, kẹo, bánh, lạp xưởng... nên Hiếu,  thằng em tôi đã gánh hai cái ba lô nặng trĩu thức ăn theo chị dâu lên cho tôi. Ba tôi khi đọc thơ tôi nói với vợ tôi: “bộ chồng con tính mở tiệm tạp hóa ở trong trại hay sao”. Đồ tiếp tế nặng quá, tôi không thể mang về trại một lần nên dùng cách sau: tôi mang túi đồ thứ nhứt đi một khoảng rồi bỏ xuống, đi trở lại mang túi thứ hai và tiếp tục như thế cho chặng kế tiếp. Do đó khoảng đường hơn 5km từ Bổ Túc về trại biến thành hơn 15 km. Khi về gần tới trại thì tôi gặp Vui đốt đuốc đi tìm tôi vì trời đã quá khuya mà Vui chưa thấy tôi về tới trại.

Như thông lệ, khi một người được thăm nuôi thì anh ta sẽ dành phần cơm của mình cho những người trong A của mình chia nhau hưởng. Trong A tôi có ông Hai, một thiếu úy già là “con bà phước” nên tôi và những người được thăm nuôi khác thường chia sẻ thức ăn cho ông.

Tôi và Vui ở cùng một A nên khi nào được người nhà tiếp tế chúng tôi thường “cải thiện” (nấu ăn thêm) một vài món như cháo, chè để “bồi dưỡng” (bồi bổ sức khỏe) ở trong cái lều nhỏ làm nhà bếp phụ của A phía sau buồng ngủ., Trong khi chúng tôi nói chuyện, thỉnh thoảng bắt gặp anh thiếu úy không quân người Quảng Nam thường len lén áp tai sát vách lều nghe ngóng câu chuyện của chúng tôi. Hắn là “trật tự” của khối tức là người theo dõi các bạn đồng tù để báo cáo cho quản giáo những vi phạm nội quy của họ.

Trong A tôi có một thiếu úy có cùng tên Ân với tôi cũng là người Quảng Nam ở trong đội rau xanh, rất thân với anh A trưởng. Mỗi lần, trại giết heo cho tù mỗi người được một cục nhỏ. Người phụ trách chia cơm hôm đó cho mọi người bắt thăm khi chia thịt. Ai cũng muốn được cục thịt nạc, Nhưng Ân lại thích ăn mỡ, nên lần nào được cục thịt nạc Ân đổi lấy cục thịt mỡ của người khác.

Lần thăm nuôi thứ hai của tôi, vợ tôi đi chung với vợ Nghiêm Dũng vì tôi và Dũng nằm trong danh sách thăm nuôi cùng ngày. Khi vào lều nói chuyện, vợ tôi kể chuyến hành trình gian nan của mẹ con nàng từ Sài Gòn lên Bổ Túc. Nàng đã phải đi xe hơi chạy bằng than đá và vì ngối phía sau nên phải chịu sức nóng và khói phát ra từ bình than khổng lồ phía sau xe. Rồi mẹ con nàng phải trải chiếu năm dưới đất trong nhà dân, được biến thành nhà trọ để qua đêm... Nghe nàng kể, tôi thương cảm thân phận người vợ của những người ở “bên thua cuộc”. Thằng con trai tôi đã lớn thêm một chút, đi chạy vững vàng nhưng vẫn ngơ ngác nhìn tôi như người xa lạ.

Rút kinh nghiệm lần thăm nuôi đầu, lần này tôi và Dũng “hợp đồng tác chiến” dùng một cây đòn để hai người cùng gánh ở hai đầu tát cả các túi quà nên không phải mất gấp ba lần khoảng đường như tôi  lần trước.

Một lần nhân dịp có trận đá banh giữa hai khối, tôi có dịp đí sang sân đá banh của một khồi khác, tình cờ gặp bác sĩ Toán đang vừa  ngồi xem đá banh vừa hút thuốc lào. Toán ở trong xóm Hòa Bình, khu chùa Hòa Hiệp Tự, đường Đỗ Thanh Nhơn, quận 4. Anh nổi tiếng học giỏi trong vùng, Anh là bác sĩ bị trưng tập vào quân y, mang cấp bực trung úy. Khi tôi hỏi anh ở đội nào trong khối của anh thì anh  trả lời anh được cắt cử đi chăn con trâu của khối anh.  Tôi chua xót cho một tài năng bị phí phạm, trong khi một bác sĩ có khả năng cứu sống nhiều mạng người không được sử dụng thì ở trạm xá (trạm y tế) mỗi khi có người bi đau ruột dư, mấy ông “bác sĩ giải phóng” ra lệnh tù cải tạo đóng sẵn một cái quan tài cho bệnh nhân để dùng khi ca mỗ thất bại.

Một ngày chủ nhựt cuối năm, mọi người được nghỉ lao động. Tôi đang ngồi viết thơ cho gia đình thì có một tiếng nổ long trời vang ra hướng lò rèn. Vui, bạn tôi ở  trong tổ lò rèn. Lo lắng không biết Vui có bị gì không nên tôi chạy lên lò rèn. Tới nơi một cảnh tượng khủng khiếp hiện ra trước mắt tôi. Vài người nằm sóng soài trên nền đất trong vũng máu. Có người thân thể không còn nguyên vẹn. Tôi cố nhận diện xem có Vui trong số nạn nhân đó không. Thình lình sau lưng tôi có tiếng của Vui: ”Ân ơi mình may quá, hôm nay nghỉ,  mình không lên lò rèn.”

Sau đó tôi được biết, anh tổ trưởng lò rèn là một sĩ quan công binh, nhân ngày nghỉ anh đem những quả đạn đại bác bị lép đem về cùng một số bạn cùng tổ cưa ra để lấy thuốc nổ làm pháo đốt chơi trong dịp Tết sắp đến. Hậu quả: nhiều người thương vong.

Lần đầu tiên trong gần hai năm, chúng tôi được chuyển trại giữa ban ngày, Và một điểm khác nữa là chúng tôi được giao cho công an ”quản lý” (giam giữ.), Thành thật mà nói, dưới sự quản lý của bộ đội, chúng tôi không thấy quá khắc nghiệt vì họ cho chúng tôi thông thả đi lại. Nhưng khi chúng tôi rơi vào tay công an thì chúng tôi ý thức rõ thân phận tù của mình.

Nơi giam giữ mới của chúng tôi là Căn Cứ 6, Hàm Tân thuộc tỉnh Thuận Hải (hai tỉnh Bình Tuy và Bình Thuận nhập lại)., Đây là căn cứ pháo binh thứ 6 của sư đoàn 18  QLVNCH trước đó. Vùng này thường được gọi là Rừng Lá vì ở đây cây lá buông hay lá cọ mọc tràn lan.

Khi đoàn xe qua khỏi cổng vào bên trong, chúng tôi trông thấy những dãy nhà dài vách gỗ, mái tôn nằm song song. Thì ra công an đã cất sẵn những dãy nhà tù để cho chúng tôi ở. Mọi người tỏ ra bi quan: ngày về còn xa.

Mọi người xuống xe và tập họp giữa sân. Tôi nhìn thấy số sĩ quan biệt phái giáo chức như tôi trở lại khá đông. Ngoài ra qua những câu chuyện trao đổi với những bạn đồng tù mới, tôi biết nhóm chúng tôi được nhập với các sĩ  quan cảnh sát và nhân viên tình báo ở trại Suối Máu, Biên Hòa chuyển về.

Sau khi “biên chế” (phân bổ) tù thành những đơn vị K, B, A và mối B được dắt vào một căn nhà dài. Trong nhà hai bên là hai dãy sạp làm chỗ ngủ cho tù, cuối nhà là cầu tiêu. Ngay buổi tối đầu tiên, sau khi điểm danh bọn tù trong B tôi phải vào nhà dài để ngủ và cán bộ quản giáo khóa cửa ngoài. Tôi nghỉ, nếu ban đêm xảy ra hỏa hoạn thì bọn tù trong B tôi sẽ thành heo quay hết. Bọn công an coi tù xem tánh mạng của tù rẻ mạt.

Sáng hôm sau, trại lai biên chế một lần nữa thành các tổ lao động. Tôi được biên chế vào tổ mộc và được cử làm tổ phó. Công việc của tôi là giữ các dụng cụ mộc và khi tới nơi làm việc thì đo vẽ những mãnh gỗ để người khác cưa và ráp lại thành máng heo. Kể ra tôi cũng đươic nhàn nhã với công việc đó. Tổ trưởng tổ mộc của tôi là một anh nhân viên của phủ đặc ủy tình báo. Anh này là người ít học và tính nết nhỏ mọn, Về sau, khi tôi được thả về tôi gặp một vài người bạn đồng tù được thả sau tôi cho biết, anh tổ trưởng mộc của tôi về sau được trại cử làm trưởng trại cưa máy và anh bị tại nạn lao động nên mất một cánh tay.

Tôi và Vân ăn chung, nhờ Vân nấu ăn khéo nên tôi có những bữa ăn ngon với những thứ gia đình gởi vào.

Mỗi tối sau khi bị lùa vào nhầ dài và bị khóa bên ngoài, trước khi đi ngủ nhà trưởng theo lệnh cán bộ cho một người đọc những tin tức trong báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân và Sài Gòn Giải Phóng cho mọi người nghe. VÌ tôi có giọng tốt nên thường bị chỉ định đọc báo. Những bài báo sặc mùi tuyên truyền, láo khoét và nhàm chán với nhưng từ ngữ  được lặp đi, lặp lại làm cho mọi người rơi vào giấc ngủ sâu sau một ngày lao động vất vả trước khi tôi chấm dứt bài đọc.

Trong những hình phạt vì vi phạm nôi quy ở đây: đào gốc cây cọ là một hình phạt tù cải tạo sợ nhứt vì rễ cọ ăn rất sâu trong lòng đất. Tôi cũng một vài lần nếm mùi đau khổ với hình phạt này.

Ở đây, trại nằm trên tuyến đường Phan Thiết-Sài Gòn nên chúng tôi được ăn cá ngừ thường xuyên. Cũng vì đó mà bệnh ghẻ xảy ra lan tràn. Mọi người trong trại đều dùng chung một giếng nước nên sự truyền nhiểm bùng phát rất mạnh. Tôi không tránh khỏi việc bị lây bệnh và rất khó chịu với những vết ghẻ lở, ngứa ngáy khắp người.

Tại đây, vợ con tôi có được một lần thăm nuôi tôi. Hôm đó tôi đang đo vẻ trên những tấm gỗ thì trông thấy vợ con vào, Chúng tôi không được tiếp xúc nhau vì chưa đến giờ thăm nuôi. Vợ tôi chỉ tôi cho con tôi thấy và bảo con tôi gọi tôi vì lúc này nó đã biết nói bập bẹ. Tuy nhiên, miệng nó gọi “ba ơi” nhưng mắt nó nhìn quanh quất vì có biết ba nó là ai trong số những người tù đang làm việc. Nhìn qua hàng rào, có lẽ vợ tôi trông thấy cái quần tôi có những miếng vá không khéo tay nên nàng chảy nước mắt.

Một lát sau hết giờ lao động, tôi chạy vội về trại sửa soạn dung nhan để lên nhà thăm nuôi gặp vợ con.

Vừa ăn ngấu nghiến các bánh trái vợ đem lên, vừa nựng nịu thằng con tôi nghe vợ tôi kể chuyện sinh hoạt của nàng trong những tháng ngày không có tôi. Càng nghe tôi càng thương cảm cho nỗi nhọc nhằn của một thiếu phụ trẻ phải gánh trách nhiệm cây cột chính của gia đình. Nàng phải buôn tảo bán tần để lo cho con và nuôi chồng. Vợ tôi kể khi đám đàn bà vào cỗng để thăm nuôi người thân thì bọn công an gác cỗng xì xào: “sao vợ của bọn sĩ quan ngụy đi cải tạo người nào cũng đẹp”

Một hôm, một số tù cải tạo chúng tôi được đưa lên xe đi lao động ‘đột xuất” (bất ngờ, không dự tính trước} ở Ngả Ba Ông Đồn. Tại đây chúng tôi phụ trách xuống cát và đá xanh từ trên những xe vận tại. Hình như  trại sắp xây dựng những nhà giam  mới. Tại đây, lần đầu tiên chúng tôi gặp hai loại tù mới: tù phục quốc và tù vượt biên. Qua tìm hiểu tôi được biết tù phục quốc là những người bị bắt vì tham gia những tổ chức có vũ khí chống lại nhà cầm quyền cộng sản. Năm 1975 khi còn ở trại Long Khánh qua loa của trại truyền tin từ đài phát thanh “Sài Gòn Giải Phóng”: tin các vị linh mục ở nhà thơ Vinh Sơn cùng một số quân nhân của QLVNCH nổi lên chống đối Cộng Sản bằng vũ khí. Tuy không thành công nhưng tên tuổi vủa những người anh hùng đó đã đi vào lịch sử. Tôi đã không cầm được nước mắt khi hay tin họ bị bắt và đem ra xử với nhiều bản án tử hình. Còn tù vượt biên thì tôi được giải thích là những người trốn ra khỏi nước hoặc bằng đường bô qua ngỏ Cao Miên hay đường biển qua Biển Đông và không may bị bắt lại.

Một buổi sáng, khi tù các nhà tập họp ngoài sân thì tôi ngạc nhiên khi thấy nhiều cán bộ công an xuất hiện trước chúng tôi. Khi hàng ngũ tù nhân đã ổn định thì cán bộ trại trưởng, một ông già khoảng 60 tuổi, cho chúng tôi biết hôm nay có một loạt biên chế mới, một đồng chí công an sẽ đọc tên những người sẽ được chuyển qua nhà mới. Tôi có linh cảm những người được đọc tên sẽ được thả về. Trong số những người được đọc tên có Nghiêm Dũng, Vui và Vân nhưng không có tên tôi. Khi những người có tên trở về chỗ ở lấy đồ đạc đem qua chỗ mới, tôi nhờ ba người bạn đồng tù thân thiết chuyển lời nhắn của tôi về cho vợ tôi một khi được ra khỏi trại.

Ngày hôm sau, những người được gọi tên hôm qua từ nhà dài mới trú ngụ hôm qua, khăn gói ra tập hợp ngoài sân. Sau khi cán bộ công an điểm danh xong, họ đứng lên và được cán bộ công an dẫn ra cổng trước đôi mắt thèm thuồng của những người tù còn lại. Ít lâu sau tôi nhận được thơ vợ tôi cho hay, Dũng, Vân và Vui có ghé nhà gởi lời nhắn tin của tôi đến nàng. Vợ tôi cho hay ba người bạn của tôi được thả về đã được cho dạy học lại vì các trường học đang thiếu thầy giáo. Nàng nói hy vọng tôi sẽ được thả ra một ngày không xa với lý do tương tự.

Thật vậy, đầu tháng 9 năm đó tôi được thả ra sau hai năm ba tháng trải qua bốn trại tập trung cải tạo.

(Còn tiếp)

 

01 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 48026)
* Xin đính chính đây không phải là bài viết của Giáo sư, Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ mà là của một tác giả khác cùng tên. Xin thành thật cáo lỗi cùng tác giả và Thầy Nguyễn Xuân Hoàng. (Ban Điều Hành WebNQ)
30 Tháng Mười Một 2013(Xem: 52690)
Viết về anh cũng như tôi đang nhớ tới những kỷ niệm đầu tiên của tôi với cây bút. Bài viết ngắn này cũng ngắn ngủi như mối giao tình (chưa hề gặp mặt nhau) của hai anh em mình...
29 Tháng Mười Một 2013(Xem: 45944)
Con gái Ba đây chỉ muốn nói với Ba lòng biết ơn Ba đã nuôi dạy con khôn lớn, đã yêu con bằng tình yêu không điều kiện, đã để lại cho con một di sản tinh thần vô cùng quí báu.
29 Tháng Mười Một 2013(Xem: 38183)
Lễ Tạ Ơn là một dịp để gia đình họp mặt, những người đi làm xa nhà đều trông đợi vào ngày này để cùng về nhà xum họp, quây quần bên bữa cơm gia đình.
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 40101)
Tôi lặng lẽ dọn dẹp nhà cửa từng ngõ ngách... tôi sắp xếp lại đời tôi từng góc cạnh... và bắt gặp mình vẫn miên man mong nhớ, mân mê từng mảnh kỷ niệm… thật chẳng muốn buông tay... thật không nỡ rời xa.
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50179)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
15 Tháng Mười Một 2013(Xem: 40850)
Nếu tôi phải làm một tuyển tập những truyện ngắn hay nhất ở hải ngoại sau năm 1975, trong số các tác phẩm được chọn, nhất định phải có truyện ngắn “Tự truyện một người vô tích sự” của Nguyễn Xuân Hoàng.
15 Tháng Mười Một 2013(Xem: 53227)
Nghe Hoàng đau, nhóm anh em báo Người Việt nóng lòng muốn đi thăm. Chuyến đi đã được thực hiện ngày thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013, chúng tôi sáu người từ quận Cam đi San Jose lúc 6 giờ sáng, phải đi sớm vì còn phải lái xe về trong ngày.
14 Tháng Mười Một 2013(Xem: 55104)
Hàng chữ nhảy nhảy, bay bay, múa múa, nhợt nhạt rồi nhòe nhòe dần dần. Tôi lẩm bà lẩm bẩm "Trí sún ơi! Tao ngàn lần xin lỗi, xin lỗi và cám ơn mày".
14 Tháng Mười Một 2013(Xem: 39141)
Riêng Nguyễn Thế Hùng, đây là lần gặp lại sau 43 năm, khi bè bạn rời ghế học của trường trung học Ngô Quyền, để bước chân vào giảng đường đại học.
09 Tháng Mười Một 2013(Xem: 41133)
Cái ranh giới giữa hiện tại và quá khứ nhỏ quá, mỏng quá, nhanh quá, nhanh còn hơn một cái chớp mắt. “Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
08 Tháng Mười Một 2013(Xem: 43035)
Dù biết rằng vui mừng có giới hạn nhưng đau khổ vô bờ bến. Ước chi… ước chi…sương đã tan và nắng đã lên ở cuối đường.
01 Tháng Mười Một 2013(Xem: 51712)
Biết cùng ai chia sẻ sự suy nghĩ riêng mình, chỉ biết nhìn lên bầu trời âm u bên kia đồi, để rồi ước mong, mong một ngày nắng lên...
25 Tháng Mười 2013(Xem: 65841)
Cảm ơn tình bạn anh cho tôi, như cánh diều bay êm ả trên những tầng mây khi tụ khi tan, khi gần khi xa, như có như không, một tình bạn chân thật, giản dị,...
17 Tháng Mười 2013(Xem: 48475)
Mỗi lần tan học, ở các lớp cuối Trung học, chắc là cũng có các em học sinh mới lớn ngâm nga "em tan trường về anh theo Ngọ về" như chúng tôi...
17 Tháng Mười 2013(Xem: 35715)
Dường như đã thành người nhà dù màu da có khác, tiếng nói có khác, phong tục có khác mà sao thật quyến luyến vô cùng.
14 Tháng Mười 2013(Xem: 55618)
Nhớ điều này nha anh Hoàng, như anh đã viết năm nào. “Sau cái chết là gì? Là không gì hết. Có chăng là những ngọn gió. Ngọn gió thổi những lời bay đi. Ngọn gió thổi trả những lời trở lại.”
14 Tháng Mười 2013(Xem: 54522)
Xem lịch mới biết hôm nay là ngày đầu thu. Từng mùa thu đến, từng mùa thu đi. Đến rồi đi, đi rồi lại đến như bao kiếp người luân lạc trên dòng đời chảy miên man.
12 Tháng Mười 2013(Xem: 42590)
Tôi lại nghĩ. Chỉ có mấy quyễn sách long bìa, rách gáy, tôi còn không nở vứt đi, thì làm sao tôi có thể yên tâm mĩm cười bỏ cái thân nhục dục này xuôi tay nhắm mắt. Thì ra, nói một chuyện mà thực hành không phải dễ dàng.
11 Tháng Mười 2013(Xem: 51189)
VÌ EM LÀ NỖI NHỚ - Nhạc và Lời: Ngô Càn Chiếu - Hòa âm: Ngô Càn Chiếu - Ca sĩ trình bày: Ngô Càn Chiếu Vì em là nỗi nhớ Là Sài gòn nắng ấm bình minh Bên phố phường rôn rã thanh âm Là ngựa xe trong ngày đang đến