Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p13)

11 Tháng Tám 20171:42 CH(Xem: 17244)
GS. Nguyễn Văn Lục - Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p13)
Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p13)

blankHuế là sân khấu chính trị của biết bao biến cố lớn nhỏ. Vậy mà nay nó để lại gì? Ai muốn đi tìm di tích đồn Mang Cá thì tìm ở đâu? Hỏi để hỏi vậy thôi. Càng hỏi càng không có câu trả lời. Các địa danh như Phủ Cam, Kim Long, Phường Đúc, Phú Xuân củng có biết bao dấu tích lịch sử tôn giáo, chính trị.

Bia 8 thánh tử đạo đến di tích lịch sử 9 hầm của Ngô Đình Cẩn dưới nhãn quan cộng sản

 

blank

Trấn Bình Đài (Đồn Mang Cá) phía đông bắc cố đô Huế. DCVOnline tổng hợp ảnh OntheNet

Rồi Phu Văn Lâu sừng sững như mặt tiền của Huế. Nhưng mấy ai còn để ý và nhớ nhớ tới bốn chữ ghi trên Phu Văn Lâu: khuynh cái, hạ mã. Tất cả hình như chỉ còn là vang bóng lịch sử cái còn cai mất.

[khuynh cái, hạ mã là “nghiêng lọng, xuống ngựa” khi đí qua những nơi linh thiêng, nhất là trước các Văn Miếu, Văn Thánhđể tỏ lòng tôn kính những bậc hiền tài, những vị thầy đáng kính có công lao dạy dỗ học trò. Thành ngữ của Tàu là 下 马 倾 盖 (Hạ mã khuynh cái — xuống ngựa nghiêng lọng)]

Nói chung, theo tôi, người Việt thường vô tình với lịch sử. Nay người ta thường tổ chức các buổi “Nhớ Huế”. Nhưng người ta nhớ cái gì của Huế? Chẳng lẽ chỉ nhớ tới món ăn Huế, giọng Huế, người Huế mà quên lịch sử Huế?

Ngay biến cố tết Mậu Thân nay còn để lại di tích gì? Tôi mong mỏi ít nhất dân Phủ Cam- một trong những nơi chịu nhiều oan sai trong dịp Tết mậu Thân nhất nên dựng một bức “Tường thương tiếc” với đầy đủ danh sách nạn nhân. Và không thể quên tên của nghị sĩ Trần Điền. Phủ Cam cũng là họ đạo lâu đời nhất, có nên có một biên niên sử về những người con của Chúa từng xuất thân từ họ đạo này.

Hiện nay ở Huế, người ta chỉ thấy có hai di tích lịch sử được dựng lên sau này một cách vụng về, rất phản cảm và với sự đồng tình của chính quyền Cộng sản.

Một là có một bia dựng lên ngay chỗ đài phát thanh Huế trong vụ nổ làm chết 8 người, đa số là trẻ em, năm 1963. Việc dựng bia này cũng là việc nên làm. Trên tượng đài có ghi danh sách 8 người đã tử nạn và được gọi là 8 Thánh tử đạo.

blank

Đài kỷ niệm Thánh tử đạo tại Huế. Nguồn Vườn Lam.

Việc dựng bia tưởng niệm này, theo tôi, người ta dựng cho có vì nó sơ sài và thiếu trang nghiêm lắm. Đúng vậy, người ta có thể dựng một bia tượng bằng đá cẩm thạch chứ? Hà tiện chi với người đã chết. Các em chết do sự bất cập thời đại mà đáng lẽ các em không phải chết. Hẳn là các em không muốn làm thánh cho bằng sống tuổi thơ của mình, nhởn nhơ đánh đu, chơi đáo?

Ai là người đã cướp đi cái tuổi thơ đó? Đó là câu hỏi quan trọng nhất chứ không phải việc phong thánh cho các em.

Và vì thế có lẽ chỉ cần đề tên họ, ngày sinh có cần chi những chuyện tôn giáo, chính trị? Bản thân các em tò mò đến đó, rồi đùng một cái chết lãng xẹt nào có khái niệm gì về tôn giáo, về tranh đấu, về sự hy sinh!

Còn đối với bà mẹ các em, chỉ có một điều là họ nghĩ rằng con họ sẽ không bao giờ trở lại nữa.

Đó là nỗi đau xót nhất.

Và đối với các bà, lúc này đây, không có lý tưởng tốt xấu, mà chỉ có những đứa con đã mất. Khi ra tòa xử Đặng Sỹ — người được coi là thủ phạm gây ra 8 cái chết này — Tôi lấy làm ngạc nhiên là không một ai trong số các cha mẹ các em lên tiếng đòi bồi thường. Họ có cái quyền đó chứ. Tại sao họ đã không đòi bồi thường?

Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra ở đây cần được nhân rộng, khơi mở gợi ý cho giới tăng sĩ Phật giáo, các phật tử Huế là có đài tưởng niệm — điều đó là quý rồi — Ngoài khu bia tưởng niệm 8 nạn nhân chẳng mấy gì làm đẹp đẽ trang trọng, xây trên một khu đấp hẹp bằng xi măng. Nó thiếu một khoảng không gian rộng rãi, thoáng mát. Nó thiếu cảnh trí như cây cối, ghế ngồi. Nghĩa là nó trơ trọi và tầm thường. Nhưng không phải chỉ cho 8 nạn nhân chết oan — mà cần một đài kỷ niệm để tưởng nhớ đến 5000 nạn nhân chết thảm khốc trong vụ Tết Mậu Thân. Và nếu có thì phải gọi những nạn nhân này là gì?

Và từ 1968 đến nay, chúng ta phải làm gì và đã làm gì cho những bà con anh em, ông bà cha mẹ ruột thịt đã chết thảm, chết oan uổng, chết chôn sống, chết không toàn thây, chết vô tội trên mảnh đất oan nghiệt là xứ Huế?

Trách các thầy thì cũng không đúng. Từ 1968-1975, chúng ta có dư thời gian để dựng nên một bức tường thương tiếc, ghi danh tánh đầy đủ các nạn nhân trong vụ tàn sát thảm khốc 1968 do cộng sản gây ra. Cả dân Huế đến chính quyền Đệ II Cộng Hòa đã không ai quan tâm đủ đến việc đó.

Nay chẳng lẽ đòi cộng sản phải làm thay cho chúng ta?

Ở nước Pháp, đi đến đâu, ở khắp nơi, người ta đều ghi nhận những di tích chiến tranh đều được ghi dấu để lại. Chỗ nào có chiến trận, chỗ ấy có nghĩa trang dành cho các anh hùng tử sĩ. Ở nơi ấy, các mộ phần, không còn biên giới thù địch nữa. Sự kiêu hãnh cũng như tủi nhục không còn nữa.

Ở đó không có chỗ cho sự phê phán, phân biệt ai là thù ai là bạn, không có người Đức Phát Xít hay người kháng chiến Pháp. Đó là nét đẹp hòa giải sau chiến trận mà ý nghĩa của sự chiến thắng hay thua cuộc không được nhắc tới.

Chỉ có sự thương tiếc là đáng kể đối với những người đã ra đi.

Phần người dân Huế phải tự hỏi họ đã làm gì? Cấp chính quyền Huế hiện nay phải tự hỏi họ có bổn phận gì khi họ là nguyên nhân gây ra tội ác? Không lẽ những oan hồn uổng tử ấy chết không một nấm mồ, không một vòng hoa, không một mộ bia tưởng niệm?

Phải nhìn nhận rằng trong chiến thắng, người cộng sản đã thiếu một thứ văn hóa đối với kẻ thua trận và đối với cả người đã chết. Họ chỉ giỏi khơi động lòng căm thù như trong trường hợp Khu 9 hầm sẽ được nói tới sau đây.

blank

Khu tưởng niệm chín hầm và hầm số 8. DCVOnline tổng hợp ảnh Onthenet.

Từ đài kỷ niệm Thánh tử đạo tại Huế và di tích 9 hầm cho thấy thiếu một văn hóa của lòng khoan dung đối với người đã chết và cả đối với người còn sống, đối với lịch sử của dân tộc.

Phần người dân Huế thì theo quán tính có thể im lặng mãi đến khó hiểu. Chẳng khác gì sự im lặng trên 40 năm nay của ngươi lãnh đạo các Phong trào Phật giáo xuống đường là ông sư Thích Trí Quang.

Họ là cái nôi của các cuộc tranh đấu xuống đường, họ hô hào, đả đảo ầm ĩ nhất. Họ còn là biểu tượng cho quê hương của Phật Giáo nay lẽ nào để những người con Phật như những oan hồn uổng tử đi vất vưởng đầu đường xó chợ?

Không biết họ sợ hãi nỗi gì? Tưởng niệm người đã chết là một tội chăng? Không lẽ không có một ai đủ thẩm quyền, đủ can đảm, đại diện cho 5000 nạn nhân đã chết, dám đứng lên đòi một tượng đài bia mộ, ghi danh sách đầy đủ các người đã chết oan trong cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân. Người ta có thể đòi một chỗ xứng đáng cho các chiến sĩ VNCH tại Nghĩa Trang đã bỏ mình thì hà cớ gì không đòi được một bia mộ cho nạn nhân Têt Mậu Thân?

Hơn nữa, tôi mong muốn hơn thế nữa. Họ có bổn phận phải đòi xây dựng một nghĩa trang khang trang trên một mảnh đồi, nơi thông thoáng nhất, dành để chôn cất tất cả những người ấy.

Thật rất tiếc nếu người ta không làm được.

Nay thì người ta chỉ lo truyện chiêng trống, cờ xí bên ngoài, quần áo lòe loẹt, lễ hội phù phiếm cóp nhặt, bắt chước để câu khách du lịch.

Du lịch là một nghề buôn giết cái hồn của dân tộc. Càng hoành tráng, càng trống rỗng nội dung, càng bày ra sự nhố nhăng, lấy cái bề ngoài, cái vỏ làm lẽ sống.

Trong khi đó, người cộng sản cho xây dựng Khu 9 hầm như chứng tích sự độc ác, tàn bạo như một địa ngục trần gian của bạo chúa Ngô Đình Cẩn. Toàn bộ khu vực nhà giam là 4 hectare, vốn là các kho đạn để lại từ thời Pháp thuộc nằm trên một ngọn đồi. Phía trước ngọn đồi là các hầm đánh số 1, 2, 3. Hầm số 4, 9 nằm trên đỉnh đồi. các hầm số 5, 6, 7, 8 nằm sau phía bên kia đồi.

Cảnh bài trí, tái thiết các hầm với các hình nộm người tù nhân — nạn nhân của Ngô Đình Cẩn — xem ra không khác chi mấy với những điều người ta đã thiết trí như ở ngoài Côn Đảo.

Ông Ngô Đình Cẩn chết đã trên nửa thế kỷ, người cộng sản vẫn sợ ông, vẫn nguyền rủa ông. Họ vẫn cố tạo ra một chế độ phi nhân, tàn bạo, phi dân tộc qua hình ảnh Ngô Đình Cẩn để che lấp tội ác của chính họ. Có hàng ngàn trại giam cộng sản từ Bắc chí Nam từ thời Pháp thuộc, thời VNCH, thời sau 1975 với hàng vạn cái chết đủ loại.

Bao giờ họ phá bỏ được các di tích ấy để đứng thẳng làm người?

Qua hơn nửa thế kỷ, vết nhơ 9 hầm càng hiển lộ là của chính họ, chứ không còn là của ông Cẩn nữa.

Cảnh trí khu 9 hầm nay thật sơ sài, hoang dã đến buồn nản.

Nhưng tôi đặc biệt quan tâm đến một trong những bức hình ghi lại trong nhà lưu niệm là hình ảnh Ngô Đình Cẩn bị xử bắn ở nhà giam Chí Hòa vào ngày 9-5-1564.

Ngoài ra thì không còn gì để nói đến nữa. Người ta còn có thể xem gì ở những nơi ấy?

Để lại hình ảnh Ngô Đình Cẩn bị xử bắn là cố gắng đổ hết tội lên đầu Ngô Đình Cẩn. Nói tới Ngô Đình Cẩn là người ta nói tới độc ác, tàn bạo, dã man và cũng là biểu tượng cho nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Những hướng dẫn viên du lịch được dặn dò phải gọi ông Cẩn là thằng Cẩn, thằng Diệm. Bật cười thay cho xã hội chủ nghĩa văn minh, tiến bộ nhất loài người?

Điều gì dành cho ông Cẩn thì trước đó cũng đã được dành cho người Pháp. Jules Roy, một phóng viên đã sang thăm Việt Nam sau trận Điện Biên Phủ đã buồn bã nói rằng đi đâu tôi cũng hỏi: Đâu là mồ của những người Pháp chúng tôi?

Chúng ta cũng có quyền hỏi, đâu là mồ cho những chiến sĩ VNCH đã bỏ mình trong chiến tranh?

Suy nghĩ về di tích 9 hầm của Ngô Đình Cẩn, tôi càng thấy cái đê tiện, cái hèn hạ, cái nhỏ nhen của người cộng sản!

Đây chẳng qua là trò ném đá dấu tay hèn hạ của người cộng sản. 9 hầm làm chết bao nhiêu người? Danh sách bao nhiêu? Trong khi tội ác giết hại 5000 dân vô tội trong dịp tết Mậu Thân thì cộng sản cố tình xóa bỏ.

Kể từ ngày 26-2-1993, 9 hầm và ngôi nhà của Ngô Đình Cẩn được sắp xếp vào di tích lịch sử với lời ghi: “Lưu niệm di tích lịch sử tội ác của 9 hầm và nhà Ngô Đình Cẩn”.

Và mỗi năm khách du lịch đi qua đây lại được bọn hướng dẫn viên cò mồi có dịp kể tội nền Đệ Nhất Cộng Hòa, kể tội thằng Cẩn độc ác, dã man chưa từng có.

Chúng ta có nên để họ tiếp tục làm như thế nữa chăng!

Người dân Huế phải đứng lên đòi công đạo.

Người dân muốn biết có bao nhiêu đồng chí bị giam ở 9 hầm? Danh sách ở đâu? Những người nào đã thực sự đã bỏ mình, chết bỏ đói ở 9 hầm?

Họ còn đổ tội cho Ngô Đình Cẩn giết hại người dân Huế. Có bao nhiêu thanh niên, bao nhiêu sinh viên, bao nhiêu phật tử bị giam cầm ở đây?

Đối với tôi, tôi còn muốn biết thật đầy đủ có bao nhiêu nhà sư, bao nhiêu Phật tử, bao nhiêu sinh viên bị giam ở 9 hầm như được cho là ở hầm số 4? Chẳng lẽ nhà chùa lại không có được danh sách đầy đủ này cho thấy tội ác của Ngô Đình Cẩn? Cho dù không có danh sách thì nay ít ra cũng có một số nhân chứng, với tên tuổi hẳn hoi, nhìn nhận là nhân chứng, đã từng bị mật vụ Ngô Đình Cẩn giam ở 9 hầm?

Và nếu thật sự có một nhà sư “thật” nào đã bỏ mình hay một phật tử bỏ mình tại nơi đây thì tội ác của Ngô Đình Cẩn không thể tha thứ được.

Trong khi đó, tôi được biết chắ chắn có 6 bị can có tội phản nghịch quốc gia, bị bắt ngày 21-8-1963 có tên sau đây và tôi tự hỏi họ bị giam giữ ở đâu? Họ có phải là nạn nhân của 9 hầm không hay được giam giữ tử tế? Dĩ nhiên, hỏi là trả lời. Họ được giam giữ tử tế.

Đó là các ông Lê Khắc Quyến, Khoa Trưởng Y Khoa Huế, Võ Như Nguyện, Chủ sự Viện Hán Học Huế, Lê Tuyên, Giám đốc Học vụ Văn Khoa, Hoàng Văn Giàu, Giảng nghiệm viên đại học, Võ Văn Thơ, phụ khảo Đại Học Sư Phạm, Nguyễn Đán, tức Thích Trí Thủ, Thượng tọa Tổng Thư ký 5, cấp Trị sự Trung Việt.

(Trich Lê Dư, Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên, Huế, tài liệu phúc trình có tên: “Tổng Kết Nội vụ và Đại Học”, bản in photcopy trang 1)

Xin trích dẫn lời khai của bị can Lê Khắc Quyến trong tập tài liệu:

“Riêng bị can Lê Khắc Quyến trong lời khai đã cho biết rõ ràng đương sự được chỉ thị của Việt Cộng lập ra tổ chức “Hòa Bình thế giới”, tập hợp một số trí thức tại Huế để hoạt động ra tờ báo “Ngày Mai” do đương sự làm chủ nhiệm với sự cộng tác của một số bác sĩ trí thức ở Huế, sau khi tờ Ngày Mai bị đình bản và phong trào Hòa Bình Thế giới bị giải tán. Đương sự vẫn ngấm ngầm tiếp xúc với tên Lê Minh, Thường vụ Khu Uỷ Việt Cộng Khu V, Ngô Trưu tức Lê Lén, Bí thư Thành Ủy Thuận Hóa, Huế để hoạt động. Hành động bí mật của đương sự bị phát giác năm 1957-1958, khi Công an Thừa Thiên bắt được 2 tên cán bộ V.C cao cấp Nguyễn Phụng tức Đạt Phó, Bí thư Tỉnh Ủy VC Thừa Thiên và Tôn Nữ Hoài An, quận Ủy viên VC Thuận Hóa đã khai xuất và tố giác hoạt động của đương sự. Sở dỉ đương sự không bị bắt vì lúc đó được sự che chở của ông Lê Khắc Duyệt, Nguyên Giám Đốc Nha Cảnh Sát và công an Trung nguyên, Trung Phần.”

(Tổng Kết Nội vụ Phật Giáo và Đại Học. Phúc trình của Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên. Tối Mật)

Chúng tôi chỉ nêu ra một hồ sơ trên đây làm bằng chứng. Những người như Lê Khắc Quyến đã thú nhận có liên hệ hợp tác với cộng sản như Lê Minh. Sau này Lê Minh là một trong những cấp chỉ huy quân sự đã đánh chiếm Huế, gây ra cảnh chết chóc như chúng ta đã thấy.

Liệu trong số các nhà sư, giáo sư đại học, các sinh viên có dính dáng xa gần với tổ chức cộng sản, có ai trong số họ đã bị Ngô Đình Cẩn giam vào 9 hầm không? Hay 9 hầm chỉ để giam cầm không phải cán bộ cộng sản thường mà chỉ để giam cộng sản không chuyển hướng?

Ai có thể trả lời cho câu hỏi của tôi để giải nỗi oan cho Ngô Đình Cẩn? Chỉ có những người từng bị giam cầm trong 9 hầm có thể dứt khoát trả lời minh bạch về vấn đề này.

Phần cộng sản không ngừng biến khu 9 hầm để bôi nhọ Ngô Đình Cẩn khi đón tiếp các đoàn du lịch thăm viếng.

Phần các cán bộ bị giam cầm ở 9 hầm chỉ thấy họ nêu tên ra được hai người như: Hầm số 8 có Nguyễn Minh Vân, một trong ba người còn sống sót là cựu đại tá tình báo cộng sản bị giam 724 ngày hiện đang sống ở Hà Nội. Người khác nữa là Nguyễn Vĩnh Nghiệp.

Sựụ bôi nhọ, tuyên truyền phỉ báng chế độ ông Diệm và riêng cá nhân ông Cẩn là điều hiểu được và cũng là điều không hiểu được.

Bởi vì cộng sản luôn luôn hành xử bịp bợm như thế. Nhưng sự im lặng của dân Huế trong nhiều năm là diều không hiểu được.

Các cán bộ đã bị bắt giam dưới thời ông Ngô Đình Cẩn đã chuyển hướng hoặc chưa chuyển hướng đã nhận xét gì về Ngô Đình Cẩn?

Mặt chính quyền chính thức, cộng sản coi Ngô Đình Cẩn cũng như nền Đệ Nhất Cộng Hòa chất chứa đầy tội ác đối với nhân dân miền Nam. Tuy nhiên, lại có những cán bộ cộng sản từng là nạn nhân của chế độ giam cầm của Mật Vụ Ngô Đình Cẩn lại có một cái nhìn thông thoáng, nếu không nói là đề cao sách lược của Ngô Đình Cẩn.

Nhưng cũng xin thưa trước với bạn độc, khi xử dụng tài liệu trực tiếp từ phía bên kia, chúng tôi hơn ai hết thấy cần có một sự cẩn trọng ngoài thông lệ. Chẳng hạn, những tài liệu dưới dạng tiểu thuyết như cuốn Ông Cố vấn Hồ sơ một Điệp viên của Hữu Loan, Phạm Xuân Ẩn, tên người như cuộc đời của Nguyễn Thị Ngọc Hải, chúng tôi chỉ đọc chơi vài dòng chứ không dám dùng. Những sách này chỉ đánh lừa và thỏa mãn óc tò mò của những người bình dân mà thôi.

Ngay những sách dịch ngoại quốc như cuốn Decent Interval của Frank Snepp dầy 590 trang, trong khi cuốn sách dịch với nhan đề: Cuộc tháo chạy tán loạn tóm lại còn 375. Sự rút ngắn lại ấy không cho phép người đọc dễ dãi xử dụng vì sẽ bị lừa.

Cuốn Hồi Ký của Nguyễn Hiến Lê, được in lại sau này sau 1975, bị cắt cả một hai chương. Người dọc cẩn thận vẫn phải đi tìm lại ấn bản cũ hoặc đã được in lại ở Hải ngoại để độc để đọc. Nói chi những sách viết về sử học thi càng phải đắn đo, so sánh nhiều nguồn vì tính cách phi thực của chúng.

Nói chung, hầu như toàn bộ các sách ấy đều phải xử dụng một cách rất dè dặt.

Vì thế, khi tôi xử dụng một bản photocopy cuốn Bội Phản hay Chân Chính của Dư Văn Chất để dùng trong bài viết về Ngô Đình Cẩn là có lý do chính đáng của nó.

Mặc dầu ông Dư Văn Chất cũng như các cán bộ cộng sản đã bị giam tù của Mật vụ Ngô Đình Cẩn chẳng ưa gì Ngô Đình Cẩn. Họ vẫn xử dụng cách gọi xách mé như thằng Cẩn v.v. Nhưng họ bắt buộc phải nhìn nhận là cách bắt và giam người của Ngô Đình Cẩn trong chính sách chiêu mời là quá khôn ngoan và không kém hiểm độc.

Hơn nữa, cuốn sách tôi xử dụng chưa được in và hầu như cấm không được in cũng như không được phổ biến. Thứ hai nó như một điều trần hay như một thỉnh nguyện thư gửi lên cấp lãnh đạo cộng sản để bày tỏ những hoàn cảnh của họ khi bị tù dưới chế độ Mật vụ Ngô Đình Cẩn cũng như những khó khăn mà họ phải đương đầu với Mật vụ của ông Cẩn.

Trong số họ, có người kiên trì, nhất địnhh không chịu chuyển hướng nên bị tù đầy, hành hạ không ít. Trong số ấy, có một số bị giam ở 9 hầm. Còn những kẻ chịu chuyển hướng thì được ông Ngô Đình Cẩn cho phục chức và ngay cả cho nắm ngành an ninh Quốc Gia và nhiều người đã tỏ ra có tài cán và hoạt động có hiệu quả trong những công tác đã được giao phó cho họ.

Trong một bài viết tới, chúng tôi sẽ đề cập đến trường hợp Đại Tá Nguyễn Bé, một cán bộ cộng sản, sau khi bị thương ở chân, đã đổi tên, đổi họ trở về với Quốc Gia, được trọng dụng và trở thành một sĩ quan gương mẫu, tài ba và nhất là liêm chính.

Những người cộng sản hồi chánh như thế cho thấy chính sách biết dùng người của hai nền Cộng Hòa miền Nam như thế nào.

Sau 1975 thì tất cả mọi loại người tù chính trị đều được thả ra. Nhưng phần đông những người đi tù thời Mật vụ ông Ngô Đình Cẫn thì đều bị nghi ngờ và không được chính người cộng sản xử dụng.

Họ bị loại bỏ vì họ bị xếp vào thành phần có vấn đề. Tại một Hội Nghị cán bộ chủ chốt họp ở Thủ Đức, Sáu Thọ phát biểu: “Chín mươi phần trăm cán bọ đảng viên bị bắt, tù đầy dưới chế độ Mỹ-Ngụy, có vấn đề chính trị”

Chính vì thế, Dư Văn Chất viết: “Bằng tác phẩm này, tôi muốn nói với Đảng, với người thân với bạn bè, với người yêu và kẻ ghét. Nói thay cho người đã chết và cả người còn sống.” (Dư Văn Chất, Bội Phạn hay Chân Chính. Phần III: Cán bộ Chuyển Hướng, bản photocopy)

Khi viết: nói thay cho người đã chết, Dư Văn Chất muốn nói đến trường hợp cán bộ Thiếu tá Đặng An nhận được quyết định về vườn nghỉ hưu, kèm theo bản án khai trừ Đảng với bản luận tội thời gian ở tù Mật Vụ. Thật kinh khủng cái phiên tòa nội bộ. Trước khi chết, mặt trắng bệch, hai mắt trợn trùng, miệng thều thào hỏi: “Sao, đã chuyển hồ sơ khiếu nại với Đảng chưa?” (Dư Văn Chất, ibid.)

Cái chết oan sai vào năm 1990 của Đặng An để lại dư âm hai câu thơ không biết của ai đó như sau:

Nát thân, nát cả tâm hồn
Lẫn trong cái chết vẫn còn cái đau!

(Còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline
15 Tháng Tám 2014(Xem: 28205)
Chuyện cổ tích của con kể bắt đầu bằng ngày xưa con có ba, ngày xưa con có má, ba má là mãi mãi ... là cho đi không đòi lại bao giờ ...
15 Tháng Tám 2014(Xem: 25429)
GS. Nguyễn Xuân Hoàng giảng bài say sưa, trong đam mê dù triết học hay văn chương,... Vị thầy mà khoảng cách thời gian lớn hơn chúng tôi độ một giáp...
15 Tháng Tám 2014(Xem: 24736)
Biết đến bao giờ tôi lại trở về? Để được sống yên bình ngắm hàng phượng vĩ vào mỗi mùa Hè, và sống lại thời xưa cùng các bạn vui chơi những ngày Hè thong thả....
14 Tháng Tám 2014(Xem: 14994)
Và trong lòng thì trời ơi, tôi muốn đi biết là chừng nào, nhưng không tìm ra lối. Những nơi đi được thì đã nghẹt người, đành quay lại.
13 Tháng Tám 2014(Xem: 25134)
"Mẹ mày có khỏe không?' Ông ơi! câu hỏi ngọt ngào này của ông làm tôi vui biết mấy. Tôi khỏe lắm ông à! Tôi sẽ nắm tay ông, cùng ông đi cho hết đoạn đường trần gian.
09 Tháng Tám 2014(Xem: 29144)
Xin mượn những dòng này để làm món quà dâng lên Mẹ của chúng con. Cầu mong Mẹ luôn được thân tâm an lạc để tụi con có dịp đền bù phần nảo những hy sinh Mẹ đã dành cho tụi con.
06 Tháng Tám 2014(Xem: 23262)
Những ước muốn thật xanh, thật đẹp đã dường như liên kết “mây khói” với hiện thực cuộc đời. Ai bảo”Người đi trên mây” dửng dưng? Kính thăm Thầy – xin cầu chúc mọi sự an lành thanh thản.
05 Tháng Tám 2014(Xem: 15241)
Và những phát biểu của đại diện gia đình thành viên Tự Lực Văn Đoàn: Nhà văn Nguyễn Tường Thiết đại diện gia đình Nhất Linh, Giáo sư Minh Thu đại diện gia đình Hoàng Đạo, Bác sĩ Nguyễn Tường Giang đại diện gia đình Thạch Lam…
05 Tháng Tám 2014(Xem: 15276)
Tôi ngồi nghe, lặng người. Tôi biết tình trạng sức khỏe của anh tôi kéo dài từ Bảy Hai đến nay đã là những ngày nằm chờ chết. Có lẽ anh đã chết từ những ngày Sài Gòn vừa mất, khi các con anh bị bắt đi học tập cải tạo, và cả chính anh cũng bị chính quyền mới cho người đến tận nhà điều tra xem bệnh thật hay giả, có đủ sức đi học tập cải tạo không.
02 Tháng Tám 2014(Xem: 20973)
Tiễn chân Quỳnh Giao về bên kia thế giới. Tôi lại nghĩ đến đời người, duyên và nghiệp. Quỳnh Giao là con chim quý đã có một phước báo từ kiếp trước nên tiếng hát đi vào lòng người.
02 Tháng Tám 2014(Xem: 28067)
Khi tôi viết những dòng này thì đại diện gia đình đang chuẩn bị để lên những chuyến bay về tham dự buổi lễ gắn lon Chuẩn Tướng cho Việt
31 Tháng Bảy 2014(Xem: 17988)
Hoàng ngồi trên xe lăn, tóc bạc trắng, áo pull đen, gầy yếu, thăm thẳm, tôi nghe thấy hơi ấm mỏng len qua những ngón tay của hai đứa tôi xiết nhẹ.
27 Tháng Bảy 2014(Xem: 17355)
Ngồi trong tòa soạn báo Việt Tribune, chúng tôi vẫn hồn nhiên “mày tao”. Như những ngày Văn Học năm xưa. Có chi thay đổi đâu! Tôi muốn mượn câu thơ của Phạm Nhuận để tặng Nguyễn Xuân Hoàng.
27 Tháng Bảy 2014(Xem: 15291)
Hai người phụ nữ ôm chầm lấy nhau. “Cô có khỏe không? Em bé tên gì vậy cô? Em dễ thương quá!” Tám ẵm bé lên, áp má mình vào má bé.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 18359)
Với nữ lực của Vy, chắc chắn tác giả Người Đi Trên Mây sẽ luôn bước trên những đám mây mịn màng, bồng bềnh, thư thái nhất giữa nụ cười e lệ ...
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 22651)
Quỳnh nhắc lại chuyện tối qua, khi cả xóm bị khích động bởi tiếng kêu la giữa khuya của căn nhà đâu lưng bên kia hẻm.
22 Tháng Bảy 2014(Xem: 23198)
Nguyễn Xuân Hoàng là người nghệ sĩ đích thực, nhưng tư chất nhà giáo đặt ra những giới hạn không thể vượt qua cả trong cuộc đời lẫn trong nghệ thuật. Hình như A. Camus bảo nghề giáo là chỗ sa lầy ...
19 Tháng Bảy 2014(Xem: 20417)
Ông lại nghĩ đến người nghèo ở VN và những ngôi nhà bạc tỉ, dát vàng lộng lẫy. Ông nghĩ đến dàn khoan đang chễm chệ ngoài khơi và lời nói trịnh thượng của đại diện Trung Cộng.
18 Tháng Bảy 2014(Xem: 23093)
Xin được một lời cám ơn Thầy, cám ơn Cô. Cám ơn quý anh chị và các bạn đã thực lòng với trường xưa, cùng góp bàn tay mang bao nụ cười, niềm vui nhiều kỷ niệm trên hai chuyến đi về.
17 Tháng Bảy 2014(Xem: 30149)
Mừng anh thêm một tuổi, anh thương yêu, bây giờ tháng bảy, Hồn em, quà mừng sinh nhật, tay anh giữ đã từ lâu.