Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Sử học, đọc vài cuốn (kết)

20 Tháng Mười 201612:23 CH(Xem: 17588)
GS. Nguyễn Văn Lục - Sử học, đọc vài cuốn (kết)

Sử học, đọc vài cuốn (kết)


Vài dòng về lịch sử Nam tiến của triều nhà Nguyễn (Chúa Nguyễn)

Nếu được phép chọn lựa và đánh giá lịch sử thì tôi xin chọn cuộc Nam tiến là những giai đoạn vẻ vang và đẹp nhất lịch sửcủa dân tộc Việt Nam. Giữa chống xâm lăng, giữ gìn bờ cõi và mở cuộc Nam tiến ra khỏi sức ép của kẻ thù phương Bắc thì cái lịch sử hào hùng nhất, âm thầm nhất, đẹp đẽ nhất là cuộc Nam tiến.

Cuộc Nam tiến ấy, dựa trên chính sách đồng hóa là chính. Sau sự xụp đổ của Vijaya, Vương quốc Chàm hầu như bị loại ra khỏi vòng sinh mệnh của họ và cam phận ẩn náu nơi những vùng đất chật hẹp, cằn cỗi chướng khí.

Và nhà Nguyễn đã tuần tự sát nhập các vùng đất xưa thuộc Chàm như Phú Yên vào năm 1611. Khánh Hòa năm 1653. Và Bình Thuận năm 1693. Tất cả thời gian để tiến hành việc đồng kéo dài gần một thế kỷ. Và rồi từ đó hướng về phía Tây.

Do có sự xào xáo, tranh dành nội bộ của vương quốc Campuchia mà nhà Nguyễn chụp được cơ hội thâu tóm được Sài Gòn năm 1698. Vĩnh Long và Châu Đốc năm 1759.(11)

Nhìn lại còn nỗi vui mừng nào hơn thế nữa! Sài Gòn nay là của ta. Hà Nội hiện nay đã làm được gì để giữ lấy những mảnh đất cha ông để lại?

Tuy nhiên, triều đình Huế có những chính sách đường lối thay đổi tùy theo từng giai đoạn về sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam.

Gia Long có chính sách cởi mở với người Pháp. Nhưng đến Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức thì có đường lối bảo thủ và cứng rắn hơn với người Pháp cho đến lúc người Pháp chính thức lập chế độ bảo hộ ở Việt Nam.

Về thời gian trước khi nhà Nguyễn khởi nghiệp thì đã có một số sách của người Tây phương viết về Việt Nam như một tìm hiểu và với nhiều thiện cảm như,

  • Nguồn: Harvard University Asia Center (December 15, 1988)

    Nguồn: Harvard University Asia Center (December 15, 1988)

    “Vietnam and the Chinese Model, A Comparative Study of Nguyen and Ch’ing Civil Government in the First Half of the Nineteenth Century”, của Alexander Woodside do Harvard University Press xuất bản năm 1988

  • “L’Empire vietnamien: face à la France et à la Chine, 1847-1885” của Yoshiharu Tsuboi do L’Harmattan, Paris xuất bản lần thứ 6, năm 1987.
Nguồn:  Paris : L'Harmattan, c1987

Nguồn: Paris : L’Harmattan, c1987

Nhất là những cuốn sau đây phân tích, tìm hiểu trực tiếp thái độ của triều đình nhà Nguyễn với người Pháp như:

“The Vietnamese Response to French Intervention, 1862-1874” của Mark W. McLeod do nhà xuất bản Praeger ấn hành (ấn bản đâu tiên, 1991)

Và cuốn của giáo sư Philippe Langlet, giáo sư Đại Học Sư Phạm Sàigon trước 1975, nhan đề “L’ancienne historiographie d’Etat au Vietnam” do Ecole Francaise Extreme Orient ấn hành năm 1990

Từ đây, người viết có một số câu hỏi và vấn đề đặt ra với gs Nguyễn Thế Anh là:

  • Ông quan niệm và đánh giá thế nào giữa triều đại Gia Long và các triều đại kế tiếp?

Trong cuốn “Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ” (Lửa Thiêng xuất bản, 1971 ở Chợ Lớn và sau này nhà xuất bản Văn học phát hành ở Hà Nội năm 2008) ông bàn nhiều đến những diễn biến chính trị và chính sách của người Pháp tại Việt Nam. Về chính sách của người Pháp thì nhiều tài liệu đã nói tới rồi. Nhưng điều mà nhiều người mong đợi, nhất là người ngoại quốc, là họ muốn tìm hiểu thái độ, cách ứng xử của triều đình Huế trước việc người Pháp bắt đầu chính sách đô hộ thời Tự Đức. Cho nên triều Tự Đức có một vị thế quan trọng nhất trong giai đoạn này.

  • Ứng xử của triều đình với người Pháp ra sao?

Nhưng muốn biết được điều này, muốn nắm được tài liệu nguồn, ông cần có trong tay các châu bản triều Nguyễn, điều mà tôi được biết, ông không có cơ hội được tiếp cận. Hoăc nó chưa được đại học Huế dịch ra từ Hán Văn sang tiếng Việt.

Chỉ biết năm 1973 ông mới viết luận văn nhan đề “Le rôle des “châu-ban” dans les recherches sur l’histoire moderne du vietnam” trình bầy ở tại Đại hội Quốc tế làn thứ mười chín của các nhà Đông phương học, tại paris ngày 20 Tháng Bảy.

  • Như thế có quá trễ không?

Hoặc ông không mấy quan tâm cho đủ. Và trong trường hợp tiếp cận các tài liệu châu bản, ông vẫn có thể thêm vào cuốn sách Việt Nam thời Pháp Đô hộ. Ông vẫn dùng tài liệu của Pháp mà nhiều hơn là trình bày thái độ và chính sách của triều đình Huế như thế nào.

Theo tôi, cuốn sách “Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ” không đem lại điều chi mới lạ. Cái công của ông là sao chép lại các tài liệu của Pháp.

Vì thế, sau này có điều kiện thuận lợi hơn, những tác giả trẻ như Pierre Brocheux và Daniel Hémery đac viết “Indochina : an ambiguous colonization, 1858-1954” do University of California Press xuất bản năm 2009 ở Berkeley. Tôi nhận thức được họ đã vượt xa Nguyễn Thế Anh về mặt xử dụng tài liệu, về các con số, các bảng thống kê. Sau 50 chục năm, cuốn sách của Nguyễn Thế Anh trở thành lỗi thời. Cuốn “Indochina : an ambiguous colonization, 1858-1954” đã đưa ra từng con số về khai thác cà phê, cao su, ruộng đất, khai thác đồn điền, thương mại xuất cảng, nhập cảng, số nhân công, số xuất cảng hàng năm, tiền lời cho ngân sách. Họ cũng đề cập đầy đủ đến các công trình xây dựng đường phố, dinh thự, cầu đường, hoả xa. Các chương trình y tế công cộng, đào tạo, trường học, trường nghề.

Về các công trình xây dựng của Pháp tại Việt Nam, do tự ái dân tộc, tôi nhận thấy không một sử gia Việt Nam nào đề cập tới một cách đầy đủ.

Ngay cả cuốn sách được coi là quan trọng nhất của ông là cuốn “Monarchie et fait colonial au Viêt-Nam, 1875-1925 : le crépuscule d’un ordre traditionnel” (“Chế độ quân chủ và thuộc địa ở Việt Nam, 1875-1925: hoàng hôn của một trật tự truyền thống”).Với một tựa đề rõ ràng như thế, nhưng nó cũng không giúp gì nhiều hơn để có thể đánh giá và tìm hiểu triều đình nhà Nguyễn.

Ông Nguyễn Thế Anh cũng như một số tác giả Tây phương thường chú trọng nhiều tới những hậu quả chính trị, kinh tế cũng như xã hội của chế độ thuộc địa trên Việt Nam.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Thế Anh cũng có một quan điểm trung dung, nhìn thấy tính cách phức tạp và hoàn cảnh lưỡng nan của triều đình Huế. Ông không đánh giá, phê phán một cách gắt gao các vua nhà Nguyễn.

Ông không làm cái điều mà người cộng sản một cách giản lược coi triều đình nhà Nguyễn chỉ là thứ công cụ hay chữ dùng của phía cộng sản là Bù Nhìn (fantoches) của chủ nghĩa thực dân.

Nói như người cộng sản thì dễ quá!

Xin xem thêm bài “La conception de la monarchie divine dans le Viêt Nam traditionnel”(12). Theo Nguyễn Thế Anh, các vua nhà Nguyễn, kể từ Tự Đức đã phần lớn bám vào học thuyết Khổng Tử, như một thái độ vừa chính trị và tôn giáo, theo phương cách hành xử của người quân tử, từ đó để giải quyết các khủng hoảng chính trị. Dĩ nhiên những nguyên tắc này đã thất bại. Nhưng các vua nhà Nguyễn vẫn tin chắc vào tính cách chính đáng của chế độ, nhìn ra được mối tương quan lực lượng chênh lệch và đánh giá dựa trên những giá trị tôn giáo chính trị vẫn được ngàn đời duy trì và tôn trọng.

Vì thế, có thể không nên vội vàng có sự phủ nhận và phê phán thái độ thụ động hầu như ù lì bất động của vua quan nhà Nguyễn, hoặc họ vẫn có một ngưỡng vọng trông chờ vào một giải pháp Trung Hoa vốn có do thói quen. Hoặc phê phán nặng nề triều đình Huế là phản cách mạng, kẻ đầu hàng hèn nhát, như cách đánh giá của Hà Nội thông qua Trần văn Giàu.

Và quan trọng hơn cả như một thứ kết luận về phần này là cũng như phần đông các sử gia của dòng sử chính thống, ông chỉ nói tới triều đại nhà Nguyễn và không có một dòng nào cho con người Việt Nam, những người dân chịu đựng tầng tầng lớp gánh nặng lịch sử đè nặng trên số phận của họ!

Cái bất công và khốn nạn nhất của lịch sử là để nói về đất nước và con người mà lại không có con người ở trong đó.

Giới thiệu Châu bản triều Nguyễn

Một trang Châu bản (tiếng Việt) triều Nguyễn. Cục Lưu trữ Quốc gia I.

Tờ tâu của Tổng lý đại thần Phạm Quỳnh (năm 1939) có châu phê của vua Bảo Đại. Nguồn: TT Lưu trữ Quốc gia I.

Việc giới thiệu Châu bản triều Nguyễn thời Duy Tân của ông Nguyễn Thế Anh cho thấy sự thiếu tiếp cận loại tài liệu quý giá này. Tôi nhận thấy hầu hết người viết sử Việt Nam của miền Nam cho đến năm 1975 hầu như nhiều người không biết đến loại tài liệu này. Tiêu biểu như Nguyễn Khắc Ngữ, Tạ Chí Đại Trường. Cho đến hiện nay, sau 40 năm, tôi cũng không thấy các sử gia miền Bắc xử dụng loại tài liệu này, trừ Phan Huy Lê.

Châu Bản triều Nguyễn được coi là di sản quý giá còn để lại sau 143 năm trị vị của triều đình nhà Nguyễn cho đến hết thời Bảo Đại.

Biết bao nhiêu văn bản? Biết bao nhiêu quyết đinh, biết bao chính sách, bao nhiêu Chiếu, Biểu? Đồng ý là có sự mất mát quá nhiều các châu bản này nay còn giữ lại không được bao nhiêu. Ví dụ, các tập châu bản từ triều Kiến Phúc đến Bảo Đại thì thất lạc hoàn toàn.

Cái công lớn ấy dành cho Đại Học Huế. Người có công nhiều phải kể đến giáo sư Trần Kình Hòa như nói ở trên.

Nói chung thì Châu bản có hai phần: phần tấu hay Sớ của các quan dâng lên triều đình. Và phần trách nhiệm của nhà vua là đưa ra những Sắc, Dụ hay Chiếu chỉ.

Thật ra cũng ít có ai có dịp được đọc các tấu chương này. Không phổ biến làm sao biết được? Nhờ đọc các Châu bản này, người ta có thể biết trực tiếp sinh hoạt triều chính cũng như chính sách của nhà vua như thế nào.

Một bài khảo cứu nhan đề “Chính phủ Nam triều và các nhà Cách Mạng Việt Nam qua các châu bản những năm 1910-1913” của Nguyễn Thế Anh, đã được đăng trên Văn Lang, số 3, tháng 6, 1992, pp 79, 112 và sau đó lại cho đăng trên Nghiên cứu Huế, I, 1998, pp 276, 298.

Bản chúng tôi xử dụng ở đây trích trong “Parcours d’un historien du Viêt Nam : Recueil des articles écrits par Nguyên Thê Anh” (2008), trang 453.

Theo lời giới thiệu của gs Nguyễn Thế Anh:

Nguồn:  Nxb Văn hoá Thông tin

Nguồn: Nxb Văn hoá Thông tin

“Hiện nay các châu bản này được cất giấu ở một nơi mà không phải bất cứ ai cũng có quyền lui tới. Thiết nghĩ việc tham khảo tài liệu lịch sử không chỉ dành cho một thiểu số có đặc quyền, tôi xin đem đăng lại mấy tài liệu sau đây, đã ghi chép ngày còn có cơ hội ra vào các văn khố tại quốc nội.”(13)

[DCVOnline: Hiện nay, Châu bản triều Nguyễn đang được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Số 18 đường Trung Yên 1, phường Yên Hoà, Cầu Giấy, Hà Nội. Một số thủ tục phải qua để đọc tài liệu ngay phòng đọc của Trung tâm Lư trữ Quốc gia. (Ban hành kèm theo Quyết định số 744/QĐ-BNV ngày 11 tháng 8 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ nước CHXCNVN)]

Trong các châu bản dưới thời Duy Tân

Có việc cấm các ấn phẩm như: (Châu bản triều Duy Tân, tập 30, tờ 95).Việt Nam vong quốc sử (Phan Bội Châu soạn năm 1905), Việt Nam Quốc sử khảo (cũng của Phan Bội Châu soạn nam 1908), Viễn Hải quy hồng (Nguyễn Thượng Hiền soạn 1908 tại Đông Kinh được gửi về nước), v.v.

Bắt các đồng chí của Phan Bội Châu tại Nghệ Tĩnh, tập 30, tờ 15, 22 Họ bị bắt và đem ra xét sử và tùy theo tội trạng bị đi đầy. Danh sách những người bị bắt khá dài.
Đề nghị của Tôn Nhân Phủ về Cường Để (Châu bản triều Duy Tân, tập 34, tờ 157, 158. Xin chép lại nguyên văn:

“Ngày 25 tháng chạp, năm Duy Tân thứ 7 ( 20, 1, 1914). Phụ chinh phủ thần đẳng tấu. Nay tiếp Tôn Nhân Phủ (cơ quan liên hệ đến các chi phái trong hoàng tộc) tư rằng: tiếp thần Phủ tư nói, ngày 26 tháng 9 (25, 10, 1913) tiếp thư của Khâm sứ tòa viết: Ngày 5 tháng 9 t.l năm nay, tòa án Hà nội, hội đồng kết nghĩ các người Trung Kỳ can tội (Xử khiếm diện tử hình Phan Bội Châu và Cường Để) trong bản án có chép: tên Cường Để, người hoàng phái ở Kinh, 1, can tội mưu phản Quốc Gia, hoặc xui khiến nhân dân cự chiến quan quân về tình hình mưu phản, hiện đã xảy ra một việc để toan mưu phản. 2, can khích biến lương dân hoặc nhiễu loạn chính trị. 3, can mưu phản, thương tổn đến tài sản của người. 4, can ngầm chúc sử giết người ở tỉnh Thái Bình, ngày 12, 4 t.l năm nay, và tỉnh Hà Nội, ngày 26, 4 t.l năm nay. Cùng sắm khí giới cho bọn sát nhân hai tỉnh ấy, vì tên ấy biết bọn sát nhân hai tỉnh ấy cần dùng khí cụ ấy. Vậy tên ấy nghĩ nên xử. Kính thư nhờ thần phủ chuyển tư tỉnh quan nguyên quán của phạm nhân ấy tri biện”(14)

Vài nhận xét

Nhờ những tài liệu nguồn đáng quý này mà người ta hiểu được cách ứng xử của vua quan nhà Nguyễn. Khi có những chỉ dụ cấm đạo chỉ là cái cớ để chạy tội bất lực. Không thể đối đầu trực tiếp với người Pháp thì dùng giáo dân như một vật tế thần. Việc cấm đạo vì thế không giảỉ quyết được gì mà chỉ làm cho mối liên lạc Pháp, Việt thêm căng thẳng.

Cũng một lẽ tương tự, những người như vua Duy Tân hẳn không ai dám nghi ngờ về tấm lòng của ông với đất nước. Nhưng cũng đành can tâm ra lệnh bắt giam và tù đầy những đồng chí của Phan Bội Châu. Và cuối cùng chiều theo người Pháp tuyên án tử hình khiếm diện Cường Để và Phan Bội Châu.

Đó là hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan mà chính phủ Nam Triều phải đương đầu, chịu nhục trước người Pháp.

Không biết có nên so sánh hoàn cảnh của Duy Tân với tập đoàn chính quyền ở Hà nội bây giờ có gì giống và khác nhau trước họa xâm lăng? Thay vì đối đầu với cường quyền thì lại cứ đè đâu dân ra mà gõ. Bắt tù tội, đánh đập những người đi biểu tinh chống Tàu!

Phải chăng lịch sử lại có dịp tái diễn lại kịch bản của hơn 200 năm về trước?

Những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng hay triết lý như một giải pháp chính trị

Gs Nguyễn Thế Anh có dành khoảng hơn 20 bài biên khảo liên quan đến các tôn giáo, mà chủ yếu là Nho giáo và Phật giáo. Ông không có chủ đích bàn thảo về lý thuyết đạo thuần túy.

Nhưng đặt các giá trị tôn giáo đó trong bối cảnh xã hội, nhất là trong bối cảnh chính trị như một giải pháp, một đường lối. Câu hỏi được đặt ra có thể nào giải quyết một vấn đề chính trị bằng một giải pháp tôn giáo hay đạo đức?

Và xem ra ông muốn dọ dẫm đưa ra những bài toán thử: liệu tôn giáo, nhất là nho giáo có thể tạo ra một giải pháp để giải quyết cho nhưng bế tắc hay thất bại, điển hình như triều đình Huế và cả xã hội cộng sản hiện nay?

Và tham vọng ấy còn đi xa hơn nữa, ông đến Hà Nội diễn thuyết và đề nghị dùng Khổng giáo như một giải pháp cho bế tắc của người cộng sản hiện nay. Thật không có gì không tưởng và ngây ngô cho bằng. Có thể nào một trí thức từ bên Tây về dậy ‘đĩ vén váy’. Nói ai nghe? Khoan nói đến việc áp dụng như thế nào.

Đối với triều đình Huế, ông cho rằng Tự Đức là người có những cố gắng phục hưng nho học dưới triều đại của ông. Đó là bài tham luận nhan đề “Efforts to update Confucian principles of government under the reign of Tự Đức”, Nguyễn Thế Anh, Ecole Pratique des Hautes Etudes, Paris-Sorbonne, đọc ở Hà Nội vào tháng 11, 2007.(15)

Tự Đức vẫn coi Trung Hoa như một mẫu mực văn hóa, đạo đức và phăt triển dựa trên lý thuyết của Khổng Tử.

Bằng chứng là đứng trước thiên tai, lụt lội, đói kém, mất mùa và sự đe dọa của người Pháp không lúc nào yên. Tự Đức cho mình lãnh tất cả những trách nhiệm ấy và đặt vào số Trời, Thiên mệnh, vào sự giao hòa giữa trời, đất.

Và Tự Đức hành xử theo đúng ý trời. Câu chuyện ấy kết cục là một thất bại thảm hại.

Ở đây, chỉ xin liệt kê ra một vài bài viết khác của gs Nguyễn Thế Anh như:

  1. Confucius et le confucianisme(16),
  2. Le Viêt-Nam entre Confucianisme et Modernité(17),
  3. Monarchie confuceenne et défi occidental: le cas du Viêt Nam à partir de 1874(18).

Nhận xét thứ nhất của tôi là ông quá câu nệ, lý giải dài dòng về đạo Nho từ thời khai sinh và trình bầy một số nguyên tắc của đạo ấy trên bình diện lý thuyết. Nó là những tham luận vô bổ, nói xong để quên và không rút ra được bài học hay giải pháp gì.

Nó vừa có vẻ lý thuyết, vừa có vẻ không tưởng. Những biện luận của ông hầu hết đều không đi đến đâu, không giải quyết được gì. Một thứ bàn xuông không cò đầu mà cũng không có kết luận.

Đáng lẽ, ông nên đặt ra những nguyên tắc cụ thể, những bài tóan thực tiễn vế sự thất bại và tại sao thất bại.

Trên thực tiễn, nước Tàu cũng gặp đại nạn và bất lực thì Tự Đức có lý do gì bám víu vào cái đạo “hủ nho” ấy?

Nguồn: OntheNet

Nguồn: OntheNet

Người đọc tác giả cũng không làm cách nào biết chắc được, phải chăng ông coi những nguyên tắc nho giáo như một mẫu mực cần thiết?

Vì thế, người ta không có thể trông chờ vào bất cứ một chút hy vọng, một chút ánh sáng, một sự chọn lựa cụ thể nào trước những thử thách của thời cuộc dưới ngòi bút của Nguyễn Thế Anh. Cùng lắm đây là một trình bầy mang tính hàn lâm, đưa tới giải pháp không giải pháp nào cả.

Quả thực, tác giả là một người nghiên cứu nhưng không thể là một người đưa ra kế hoạch.

Về bài “L’engagement politique du Bouddhisme au Sud, Viet Nam dans les années soixante”.(15) Bài viết này, theo tôi, ông viết với nhiều thiên kiến và chủ quan và thiếu căn bản thực tế.

Hầu như ông muốn chứng minh rằng cuộc vận động chính trị năm 1963 là của Phật giáo và đây cũng là sức mạnh của Phật giáo. Ông không hề một chữ nhắc đến vai trò của người Mỹ hay những thế lực khác cũng như tác động trực tiếp của các tướng lãnh.

Sự thách thức và cuộc đọ sức giữa Phật giáo và chính quyền miền Nam mà đằng sau là người Mỹ và những thế lực khác cho thấy sức mạnh của Phật giáo nằm ở chỗ nào khi kết thúc vai trò của Trí Quang lúc bị Nguyễn Cao Kỳ giam lỏng tại dưỡng đường Duy Tân?

Nhất là trong hoàn cảnh ngày hôm nay của đất nước cho thấy cái khái niệm Phật giáo đồng hành với dân tộc là một khái niệm không thực, trống rỗng! Đồng hành với ai và như thế nào khi đất nước đang nghiêng ngửa mà người ta không nhận thấy một tiêng nói chính thức cất lên từ phía Phật giáo? Sự im lặng ấy có ý nghĩa gì?

Vài dòng cuối về giáo sư Nguyễn Thế Anh

Nếu chỉ nhìn ông như một người viết sử tận tâm và chăm chút cả một đời người thì chỗ đứng ấy không ai phủ nhận được. Nhiều sử gia nay vẫn dành cho ông một chỗ đứng quan trọng trong dòng Sử Việt.

Tuy nhiên, điều mà tôi cho rằng ông đã không đi xa được, không viết chạm đáy, ở chỗ ông tránh né mọi đối đầu, không có sụ phê phán tới nơi tói chốn.

Hai đề tài mà ông viết nhiều là triều đình Nguyễn và chế độ thực dân Pháp đều ở trong tầm nhận xét ở trên.

Ông thiếu một sử quan trong những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước. Có thể, ông chỉ muốn giữ vai trò viết sử kinh viện bằng cách mượn những tài liệu có sẵn, sắp xếp lại mà vắng bóng tác giả.

Vì thế, bản thân tôi đọc ông với hy vọng thu tập được những kiến thức sở đăc của ông thì thật không có là bao. Thật đáng tiếc!

Trước 1975, tôi chưa có cơ hội đọc gs Nguyễn Thế Anh, nhưng có nghe nosi về ông. Ra đến hải ngoại cũng không cơ hội nếu không được biết gs Trần Anh Tuấn, một học trò thân cận của gs Nguyên Thế Anh.

Điều đó cũng nói lên sự tiếp cận với sách vở không dễ dàng gì. Tuy nhiên, yếu tố quyết định viêt bài về gs Nguyễn Thế Anh là do được đọc hai cuốn, một là “Monde du Viet Nam – Viet Nam World – Hommage à Nguyễn Thế Anh” có lời giới thiệu của gs Keith W. Taylor. Nhưng cuốn sách thứ hai, của Philippe Papin, “Discours d’un historien du Viet Nam. Recueil des articles écrits par Nguyễn Thế Anh” (2008) mới thực sự đưa tôi vào thế giới sử của gs Nguyễn Thế Anh.

Nó nhiều và đa dạng hơn tôi tưởng. Nó có đủ loại đề tài, đủ mọi vấn đề liên quan đến Việt Nam và các nước láng giềng. Cách riêng một số bài liên quan đến Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam mà tôi cho là lỗi thời và không muốn nhắc tới ở đây.

Tôi viết chỉ với tư cách một người đọc hơn là người phê bình, và ngay từ tựa đề đã ghi rõ: “Sử đọc vài cuốn”, bài viết mang tính giới thiệu hơn là phê bình, một công việc ngoài thẩm quyền của người viêt.

Nói chung, tôi đọc không mấy thich thú.

Tuy nhiên như lời giới thiệu trong một lần Marcus Durand của trang “Association des Anciens du Lycée Albert Sarraut” (ALASWEB) phỏng vấn giáo sư Philippe Papin, người kế vị gs Nguyễn Thế Anh vào năm 2002 trả lời:

“Cet hommage est plus que mérité, vous le savez, puisque le professeur Nguyen Thê Anh demeure le plus grand spécialiste du Vietnam en France, et que chacun de ses articles a fait date. La jeune génération, dont je fais partie, se devait de marquer sa gratitude envers un aîné dont la contribution a été décisive.”

Lược dịch:

“Sự vinh danh này còn hơn cả vinh dự, như ông đã biết đấy, bởi vì giáo sư Nguyễn Thế Anh là một nhà chuyên khoa về Việt Nam ở bên Pháp, và mỗi một đề tài của ông viết ra đã chứng tỏ nó đánh dấu một giai đoạn quan trọng sử học. Thế hệ trẻ trong đó có tôi có bổn phận phải tỏ lòng biết ơn đối với những đóng góp, mà sự đóng góp ấy là không chối cãi được, của một người đàn anh.”

Tôi nghĩ, theo lối viết văn hoa và tế vi quen thuộc của văn hóa Pháp, của gs Papin viết về gs Nguyễn Thế Anh là một nhận xét không cho phép bất cứ ai có một lời khen nào có thể chen vào được nữa. Đó là cái nhất của cái nhất. Kể từ nay, tại Pháp Quốc, thủ đô văn hóa của Pháp, gs Nguyễn Thế Anh có địa vị vững chãi mà bất cứ thế hệ trẻ nào ở Pháp muốn tìm hiểu về lịch sử Việt Nam thì không thể không có cái nhìn quy chiếu váo cuốn tuyển tập này.

Đây là một công trình sưu tập đầy đủ nhất về công trinh biên khảo của gs Nguyễn Thế Anh tư thập niên 1956-2008.

Công trình sưu khảo hơn nửa thế kỷ tìm tòi tài liệu, lặng lẽ, âm thầm, một mình, cần cù và thông minh, so sánh đối chiếu, cân nhắc và chọn lựa, của một trí thức miền Nam tại Sài Gòn và sau này tiếp tục ở Paris.

Nó có những sai sót không tránh được như tôi đã trình bày trong bài. Nhưng như tôi thường quan niệm: lịch sử không bao giờ là cũ. Các thế hệ sau đã có người dọn đường là gs Nguyễn Thế Anh và họ sẽ tiếp tục con đường mà mỗi thế hệ đặt ra cho họ.

Phần tôi viết đã xong. Xin một lời trân trọng đến với giáo sư Nguyễn Thế Anh và các học trò của ông. Tôi cùng lắm chỉ là một người đọc sách.


Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

(5) Editors: Frederic Mantienne và Keith Taylor, “Monde du Viet Nam – Vietnam World, a book of essays to honor Professor Nguyen The Anh, (Paris: Les Indes Savantes, 2008), Trinh Văn Thảo,“Lire Nguyen The Anh. À la recherche d,une monarchie perdue”,  trang 27.
(6) Frederic Mantienne và Keith Taylor, Ibid., Bruce M. Lockhart, “Vue d’ensemble sur l’étude dé Nguyễn depuis 1954”, trang13.
(7) Frederic Manrienne và Keith W.Taylor, Ibid., trang 7.
(8) Frederic Manrienne và Keith W.Taylor, Ibid., Geof Wade, “The Ming Shi account of Champa”, trang 41.
(9) Những tựa đề bài viết của Nguyễn Thế Anh được trích dịch từ cuốn “Parcours d’un historien du Vietnam, Recueil des articles écrits par Nguyên Thê Anh” do Philippe Papin biên tập, Nxb Indes savantes.
(10) Cả ba tác giả trên vừa nêu trên đều đăng trên Tập san Sử địa, số đặc biệt: “Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam”, số 19, 20. năm 1970.
(11) Xem thêm Lê Thành Khoi, “Histoire de l’Asie du Sud-Est”, Paris, Presses Universitaires de France, 1959, trang 54.
(12) Philippe Papin, “Parcours d’un historien du Vietnam, Recueil des articles écrits par Nguyên Thê Anh”, trang 271, đã đăng ở Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, Année 1997, Volume 84, Numéro 1, pp. 147-157.
(13) Philippe Papin, Ibid., trang 453.
(14) Phillipe Papin, Ibid., trang 474-475.
(15) Phillipe Papin, Ibid., trang 814.
(16) Nguyen The Anh, “Confucius et le confucianisme”, đăng trong Nguyen The Anh, Confucius et le confucianisme, đăng trong Institut de Science et de Théologie des Religions Toulouse N.2 1998, pp 81, 102
(17) Nguyễn Thế Anh, “Le Viêt -Nam entre Confucianisme et Modernité”, trong Institut d’Orientalisme, Académie des Sciences de l’URRS, 1993, pp194, 221
(18) Philippe Papin, Ibid., Monarchie confucéene et défi occidental: le cas de Viêt-Nam à partir de 1874, pp 823

19 Tháng Hai 2023(Xem: 8350)
thầy Nguyễn Kim Linh nguyên là giáo sư môn Vạn Vật trường trung học Gia Long. Năm 1965 thầy được Bộ giáo dục điều động về làm Giám học trường trung học Ngô Quyền
19 Tháng Hai 2023(Xem: 4285)
Cả hai con chim bằng đã gãy cánh trên vòm trời lửa đạn miền Đông khi tuổi đời chưa đến 25. Thương cho những kiếp sống ngắn ngủi trong thời chinh chiến.
19 Tháng Hai 2023(Xem: 5806)
Trong lúc Kansas City Chiefs vui mừng trong rừng confetti thì đội Philadelphia buồn vì vừa đánh mất chức vô địch trong tầm tay khi chỉ còn 8 giây nữa là kết thúc trận đấu.
19 Tháng Hai 2023(Xem: 4492)
Đến với tiệm Nam Tạo, dân ghiền đọc sách có thể tìm được bất kỳ thể loại sách nào, thậm chí khan hiếm ở các nhà sách lớn.
19 Tháng Hai 2023(Xem: 3448)
Nàng đọc thầm những câu thơ Nam vừa gửi vào email: “Những rung động trong ngực thầm chan chứa/ Xin trao em làm tặng vật mùa xuân”.
16 Tháng Hai 2023(Xem: 3381)
Ở một nơi không phải đất nước tôi, tôi chứng kiến được nhiều bài học đạo nghĩa của chính dân tộc Ukraine, thay vì đào tẩu khỏi chiến tranh, trốn ở một đất nước yên bình khác,
12 Tháng Hai 2023(Xem: 3839)
Xin được thắp một nén hương lòng để tưởng nhớ về một đàn anh NQ hiền hòa, điềm đạm và có hoài bão chung sức xây dựng hội ái hữu cựu HS của trường xưa
10 Tháng Hai 2023(Xem: 3836)
Chẳng biết từ lúc nào tôi đã thương mến thầm anh Phượng hàng xóm, anh hơn tôi chừng 7-8 tuổi, hát hay đàn giỏi, thỉnh thoảng buổi tối anh ngồi trước cửa nhà đàn hát,
10 Tháng Hai 2023(Xem: 5286)
Nàng chợt nhận ra… Ồ! bức tường nghiêng! Sao đêm nay nàng mới nhận ra bức tường của nàng đã nghiêng?!
05 Tháng Hai 2023(Xem: 4258)
Cuộc đời của Ba là sống cho người khác, cho gia đình, và giúp ích cho mọi người, xã hội, đúng với tên ông bà Nội đã đặt cho.Ba là thứ sáu trong gia đình, nên mọi người quen biết đều biết đến Ba là ông Sáu Nhơn.
01 Tháng Hai 2023(Xem: 3420)
Ngày Tết, thật trang trọng đốt nén hương trên bàn thờ gia tiên. Ta sẽ cảm nhận được những người muôn năm cũ đang hiện diện trong tâm ta.
30 Tháng Giêng 2023(Xem: 3790)
Vậy là đã rõ, chính mấy con mèo được cho là mẫn cán và đã được rèn luyện-tu dưỡng... của ông chánh đã làm nên những chuyện này.
28 Tháng Giêng 2023(Xem: 3447)
Những tưởng người cùng thời so bề tài sắc, so bề tài năng, so bề thời vận, có thể có cái gì giống nhau vậy mà cũng khác nhau.
24 Tháng Giêng 2023(Xem: 4625)
Đối với tôi, mùa Xuân sẽ kém phần lãng mạn, tươi vui và mất đi ý nghĩa rất nhiều khi thiếu vắng những bản nhạc Xuân.
22 Tháng Giêng 2023(Xem: 3456)
rằng từ lúc ông quản lý được bọn mèo rồi thì kho lúa nhà ông không hề có con chuột nào dám bén mảng đến nên chẳng một hột lúa nào bị thất thoát!
19 Tháng Giêng 2023(Xem: 3649)
Thế Chiến II xảy ra như nó đã xảy ra và chúng ta cũng đã chứng kiến, nhưng những ước mơ khanh tướng còn vương vấn nơi những tấm lòng trần tục thì chắc chắn đường trần còn mang nhiều gió cuốn mưa bay.
13 Tháng Giêng 2023(Xem: 4087)
Dù không khí và cách đón Tết mỗi thời, mỗi nơi, mỗi khác nhưng trong tâm hồn của mỗi người dân Việt lúc Xuân về, Tết đến vẫn luôn có cảm xúc lâng lâng khó tả.
13 Tháng Giêng 2023(Xem: 4989)
Tôi thèm thưởng thức cái mùi hăng hắc, nồng nồng của một loài hoa dân dã mà miền Nam tôi gọi là BÔNG VẠN THỌ.
12 Tháng Giêng 2023(Xem: 3939)
Tài liệu quý quá, mình hảnh diện được làm một Hướng Đạo Sinh với truyền thống hào hùng của các bậc tiền nhân huynh trưởng ...
11 Tháng Giêng 2023(Xem: 3989)
Rồi những cái Tết tha hương ở “xứ lạnh tình nồng” Canada với bên ngoài tuyết trắng phủ đầy vạn vật khiến tôi thèm những cái Tết quê nhà ấm áp.