Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7c - phần 1)

15 Tháng Bảy 20162:01 CH(Xem: 18616)
GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7c - phần 1)

Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7c - phần 1)


bdlPhải thú thực là tôi rất mệt mỏi khi đọc tập tài liệu này. Viết xong dược một vài cảm tưởng khi đọc xong tập tập liệu tôi coi như một giải thoát.

Mộ Gm Bá Đa Lộc gần Saigon. Nguồn: OntheNet

Mộ Gm Bá Đa Lộc gần Saigon. Nguồn: OntheNet

Khi đọc tập tài liệu Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long với một giọng văn chắc nịch, mang tính tố cáo và áp đặt của tác giả Thuỵ Khuê, tôi thấy cần phải nhìn lại một số vấn đề liên quan đến tác giả.

Trước khi đi vào chi tiết, xin lược qua hành trình bốn năm của Bá Đa Lộc-Hoàng tử Cảnh sang cầu viện Louis XVI.

Thỏa ước Versaillles đã được ký kết giữa Giám mục Adran và đại diện của Louis XVI với một hậu ý xấu về phía người Pháp. Trong “Mgr Pigneau de Béhaine, Évêque d’Adran”, Alexis Faure viết:

“Il se rencontre quelquefois, dans notre histoire, des traités qu’on n’a pas éxécutés, parce que les circonstances politiques, des obstacles inopinés, des éventualités redoutables s’y opposaient; mais on n’a peut être pas encore vu un gouvernement prendre des engagements fermes, montrer apparemmment des dispositions pour mettre sa conduite en concordance avec ses engagements, tandis que, dans le même temps, dans le secret de son conseil, Il s’ingéniait à détruire son oeuvre de ses propres mains, et sans aucun incident de quelque importance eut surgi et fut suscepptible d’en modifier la marche. C’est si anormal, tellement contraire à la vieille loyauté Francaise qu’il faut des preuves bien certains, bien convaincantes, bien patientes pour y croire.”(21)

“Trong lịch sử dân tộc chúng ta, có thể đôi lần có những thỏa ước đã được ký kết mà đã không được thi hành, bởi vì do những hoàn cảnh chính trị, những trở ngại bất ngờ, những tình huống bất trắc đáng sợ chống lại việc thi hành thỏa ước. Nhưng có thể người ta chưa bao giờ thấy một chính quyền đã có giao ước chắc chắn mà bề ngoài vẫn làm ra vẻ tuân thủ những giao ước đã được ký kết, nhưng đồng thời trong hội đồng nội các họp kín, họ lại tìm cách phá hủy tất cả những cam kết do chính tay họ ký kết mặc dầu không có một việc gì xẩy ra quan trọng đến nỗi cần phải thay đổi công việc đang tiến hành. Thật là quá bất thường đến nỗi nó đi ngược lại truyền thống vốn trung thành của người Pháp mà phải có đầy đủ bằng cớ có tính thuyết phục, bằng cớ chứng thực mới có thể tin một điều như thế đã xẩy ra.”

Armand Marc de Montmorin. Thủ tướng triều Louis XVI. Nguồn: Wikipedia

Armand Marc de Montmorin. Quốc Vụ Khanh Hải Quân (1787) triều Louis XVI. Nguồn: Wikipedia

Việc ký kết giữa Bá Đa Lộc, đại diện cho Việt Nam, và Bá tước De Montmorin, đại diện cho vua Louis XVI, văn kiện ngoại giao đầu tiên tại phòng Hiệp định của Bộ ngoại giao nay là thư viện Versailles (Văn kiện ký ngày 28/11/1787).

Nhưng chỉ 5 ngày sau, ngày 2/12/1787, bộ Ngoại giao Pháp đã dấu không cho vị giám mục hay và gửi một văn thư chỉ thị mật cho bá tước De Conway, Tư lệnh quân đội Pháp, tại Ấn Độ, bảo ông ta phải dựa vào hoàn cảnh thực tiễn mà tiến hành, hoặc hoãn lại cuộc viễn chinh.(22)

Giám mục Bá Đa Lộc lên tầu quay trở lại Pondicherry với hai bàn tay trắng mà không biết những âm mưu bên trong.

Viết về điều này, Tạ Chí Đại Trường chỉ viết một câu như sau:

“Cho nên Bá Đa Lộc đi rồi, viên Trưởng văn phòng Bộ Thuộc Địa mới bảo ‘do lệnh vua’, cho De Conway hay rằng, ‘Không tính tới chuyện viễn chinh Đông Dương’.”(23)

Những giấc mơ và tính toán của Bá Đa Lộc phải chăng không phù hợp với những lợi ích mà nước Pháp có thể nhìn thấy và việc đầu tư vào đó những số tiền khổng lồ từ 600 ngàn quan đến 1.000.000 quan Pháp mà không đem lại một bảo đảm nào?

Và cũng theo ông Nguyễn Xuân Thọ, Bá Đa Lộc đã không chịu thua và quyết tâm làm cuộc ‘cách mạng Nam Kỳ’ một mình. Tôi vẫn chưa nắm được chữ cách mạng Nam Kỳ là cách mạng kiểu gì? Ông đã tập trung được một đội viễn chinh 300 người do sĩ quan Pháp chỉ huy và đổ bộ lên cửa sông Saigon vào tháng 7, 1789.(24) Cửa sông Sài gòn được hiểu là Vũng Tàu. Con số 300 người cũng là những con số cần được xem xét lại.

Nhìn lại sự thất bại của chuyến đi cầu viện của Bá Đa Lộc, chúng ta có thể rút ra khá nhiều bài học:

– Bài học thứ nhất là vì thỏa ước ký kết đã không được thi hành nên sau này Gia Long thống nhất được đất nước đã không bị cái tiếng là mở đường cho người Pháp vào Việt Nam. Mặc dầu vậy cái tiếng ‘cõng rắn cắn gà nhà’ ấy vẫn còn và có thể chẳng bao giờ được rửa sạch! Gớm thay cho tiếng đời và bia miệng!

– Bài học thứ hai là ngay vào thời điểm này, Louis XVI và đại diện cho nước Pháp chưa có ý định rõ rệt về việc xâm chiếm thuộc địa. Điều này nó giúp khẳng định một lần nữa là khi nào có điều kiện khách quan chín mùi thì việc xâm lăngViệt Nam biến thành thuộc địa sẽ xẩy ra như đã xẩy ra, dù muốn hay không muốn có cũng không được, không cần biết vua quan nhà Nguyễn có cấm đạo hay không cấm đạo. Thật vậy, cuộc cách mạng Pháp xẩy ra sau đó, chẳng những xóa tan chế độ phong kiến mà còn quét sạch hệ thống tăng lữ, tách thần quyền ra khỏi thế quyền. Con số hàng hơn chục ngàn người bị treo cổ hoặc lên máy chém hẳn có giới tăng lữ cao cấp? Hội thừa sai Ba Lê lúc bấy giờ sợ bị họa lây đã phải dọn cơ sở sang Anh.

Thế nhưng gần như ở Việt Nam, chính quyền thực dân Pháp vẫn có thể nhân danh những lý tưởng tự do tôn giáo để nhảy vào can thiệp ở Việt Nam.

– Bài học thứ ba cho thấy, mặc dù không có sự trợ giúp trực tiếp của quân đội Pháp mà theo thỏa thuận, nước Pháp có nhiệm vụ cung cấp 1500 lính với đầy đủ quân cụ cùng với tầu chiến cũng như một số tầu bè cần thiết để chuyên chở số quân ấy, đồng thời chở trọng pháo cùng tất cả mọi thứ gì cần thiết cho cuộc viễn chinh. Nay hoàn toàn không có bất cứ thứ gì – sĩ quan không, tàu chiến không, trọng pháo cũng không.

Bằng cách nào Bá Đa Lộc đã thu phục được người sẵn sàng vào Nam Việt để giúp Nguyễn Ánh?

Điều này cần diễn giải kỹ hơn một chút về tình hình thế giới lúc bấy giờ.

Nếu chúng ta tin vào định luật tương đối của thời gian, của con người của lịch sử thì sự mất còn đôi khi chỉ có giá trị nhất thời. Trong sự suy tàn, mục rữa, sự khủng hoảng niềm tin và sức mạnh, sự đề kháng và sức mạnh vươn lên vẫn có thể tìm một lối ra cho con người và cho mỗi quốc gia.

Sự bất ngờ như một câu chuyện thần thoại mà nếu Colombo còn sống sẽ không bao giờ tin được rằng, ông đã đưa con người đến một vùng đất hứa như trong thánh kinh đã ghi chép.

Thật vậy, nhìn về mặt phát triển, chủ nghĩa thực dân đã mở đường cho sự thành lập các nước tân thế giới. Mỹ, Canada, Úc Đại Lợi là mở đường cho cuộc chinh phục toàn cầu mà ở những nơi ấy mỗi cuộc di dân là mỗi bước chân con nguời, đi những bước đi vĩ đại đi khắp địa cầu nhờ vào ba thành phần sau đây:

  • Những nhà thám hiểm. có óc phiêu lưu mạo hiểm
  • Những thương buôn giầu có
  • Và tập đoàn tăng lữ

Họ là những con người phi thường mà mẫu số chung của họ là óc phiêu lưu mạo hiểm, không ngại nan nguy, sống chết. Họ đã dám từ bỏ tất cả để đi theo một tiếng gọi ráo riết và thúc dục họ lên đường.

Chữ lên đường là một từ ngữ quá đẹp để chỉ về công việc của họi đã làm.

Thật vậy, tôi đã suy nghĩ mãi về trường hợp giáo sĩ Đắc Lộ; khi được bề trên của ông chuẩn nhận cho đi truyền giáo, ông đã phủ phục trước mặt bề trên, khóc ròng và bày tỏ lòng biết ơn.

Họ là những người tiền phong làm thay đổi diện mạo thế giới mà chính họ không bao giờ lường hết được công việc họ đã làm.

Ba thành phần trên cũng là những người đã đến Việt Nam với cùng một cung cách như các bậc đàn anh của họ đã làm ở thế kỷ 16. Chỉ có điều nó đã được thu nhỏ lại về mọi mặt. Phải hiểu thấu được điều này mới hiểu ra hết nguồn cơn của phong trào đi tìm thuộc địa.

Chế độ thực dân cuối cùng nhìn lại vẫn là cơ may hiếm có đưa nhân loại đến một giấc mơ chẳng những cho những kẻ phiêu lưu chính trị mà còn dắt đưa cả môt khối nhân loại nghèo nàn, chậm tiến trở thành con người văn minh tiến bộ.

Nghĩ như thế nên tôi coi những thái độ nhìn lịch sử như những công trình khép kín, ẩn núp sau những chủ nghĩa dân tộc sô vanh là một thái độ tự khép kín, bảo thủ, giáo điều và phản tiến bộ!

Lối nhìn lịch sử của bà Thụy Khuê kẹt trong sự tù túng, chật hẹp.

Tác giả Thụy Khuê cần tìm hiểu điều này một cách kỹ càng thay vì mất công vạch lá tìm sâu một cách không cần thiết. Hiểu điều này tức là hiểu được cái đà lịch sử cũng như cán cân quyền lực nghiêng về phía nào.

Phải chăng chính yếu tố kỹ thuật, văn minh Tây phương, nói rõ ra là tầu đồng, thành lũy, súng đại bác đã đánh tan đạo quân của Tây Sơn – đã một thời đánh tan đạo quân Thanh thuở nào.

Tây Sơn không thua Nguyễn Ánh và không thể thua dễ dàng được! Tây Sơn nếu có thua là thua kỹ thuật của Tây phương nhờ Bá Đa Lộc mà có.

Bà Thụy Khuê chưa hiểu được điều này nên cứ cố tình làm nhẹ vai trò của hơn chục người lính đánh thuê giúp Nguyễn Ánh.

Ở chỗ khác bà đã đặt ra một câu hỏi như sau:

“Cho tới nay. Vì thiếu sự giải thích minh bạch, chúng ta không hiểu tại sao Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu lại có thể thua trận một cách dễ dàng như thế trước hai kẻ giang hồ như Francis Garnier và Henri Rivière? Đây không phải là lần đầu tiên quân Pháp dùng những thủ đoạn lừa gạt để tấn công.”(25)

Bà không nên miệt thị những tên lính đánh thuê ấy bởi vì chính chúng chứ không ai khác đã làm nên chuyện lớn. Những Lebrun, De Forcanz, Chaigneau, Vannier, Dayot và nhất là Olivier Puymanel [Nguyễn Văn Tín] đều là những kẻ tài giỏi. Những chê bai như Lebrun là kẻ đào ngũ, binh nhì, v.v. phỏng lý luận được gì?

Nhưng nếu sau này họ được phong quan chức là do công trạng của họ mà nhà vua ban thưởng.

“Hoàng thượng xét thấy tài năng của Théodore Lebrun, quốc tịch Pháp, với bằng văn này, ban cho y chức Khâm sai cai đội thanh oai hầu, quản chiếu việc công thự (bản tiếng Pháp dịch là capitaine ingénieur; vì thế, Hoàng thượng giao cho y coi sóc tất cả những đồn lũy trong nước; và lệnh cho y phải tìm mọi cách để có được sự bảo đảm an toàn cho những thành trì này. Nếu vì bất cẩn, y không làm trọn nhiệm vụ, thì sẽ bị trừng phạt theo luật pháp.” (26)

Bà Thụy Khuê đưa ra lời bình luận như sau: Qua văn bằng này, ta thấy Lebrun đã tự nhận mình là kỹ sư xây dựng nên mới được vua cho chức Khâm sai Cai đội oai thanh hầu, quản các thành trì.

Theo tôi, việc một tên đào binh trốn lính khi gặp cơ hội có thể khai là sĩ quan hay gì gì đi nữa là chuyện của y và nhà vua. Hắn khoe khoang là một chuyện. Nhưng làm được hay không lại là chuyện khác. Và nhà vua đã tin tưởng giao cho một tên đào binh làm Khâm sai cai đội Thanh oai hầu. Còn lo việc trông coi toàn bộ các thành trì.

Chúng ta phải đồng ý với nhau là y phải giỏi.

Cũng như Dayot được phong là “Khâm sai cai đội quản chiếu tầu nhị chích trí lược hầu”. Nói nôm na là thuyền trưởng hai tầu.

Bà còn thắc mắc tìm hiểu xem văn bằng của Puymanel, v.v. Thật là chuyện buồn cười!

ean-Marie Dayot (left) and his brother Félix Dayot (right). By Unknown - Early 19th century French painting. Reproduction in Mantienne "Monseigneur Pigneau de Behaine", Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4951877

ean-Marie Dayot (T) và em là Félix Dayot (P). By Unknown – Early 19th century French painting. Reproduction in Mantienne “Monseigneur Pigneau de Behaine”, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4951877

 

Dayot nếu không tài giỏi làm sao vua lại cho y chức Khâm sai cai đội mà những người Pháp khác như Vannier chỉ được là cai đội tầu Đồng Nai, Isle-Sellé, cai đội tầu Le Prince de Cochinchine rồi những Guillon, Guilloux đều là phó cai đội và cả bốn đều dưới quyền của Dayot.

Nếu xét theo chức vụ bây giờ thì Lebrun được coi như tướng Tư lệnh vùng. Dayot phải là Đề đốc hải quân. Những tên đào binh này sau này đều góp phần chiến thắng trong trận hải chiến Thị Nại.

Đó là ba tên tuổi là Vannier, Forcanz và Chaigneau.

Mok của De Forcanz ở khu mộ người Pháp ở Phú Can dời về Thuy Phương. Nguồn: François xavier Landrin/http://belleindochine.free.fr/

Mộ của De Forcanz ở khu mộ người Pháp ở Phú Cam dời về Thụy Phương. Nguồn: François xavier Landrin/http://belleindochine.free.fr/

Câu trả lời còn trở nên thật rõ ràng hơn khi chính vua quan nhà Nguyễn đời Tự Đức lần này phải đối diện với binh đội Pháp thứ chính quy tại Tourane, tại 6 tỉnh miền Nam, tại Hà Nội.

Người ta vẫn chưa nhận thức ra được yếu tố nào binh đội Việt Nam và đằng sau là nhân dân Việt Nam phải cúi đầu trước sức mạnh của quân giặc! Chỉ cần vài trăm quân lính Pháp đủ bình định xong Việt Nam, gần như không tốn một viên đạn.

Đây là điểm dị biệt giữa bà Thụy Khuê và nhóm người đi theo Bá Đa Lộc.

Bà Thụy Khuê tìm mọi cách để hóa giải cuộc chiến thắng này đánh tụt giá mọi đóng góp của Bá Đa Lộc vào trong các công việc như: xây thành lũy như thành Gia Định, thành Diên Khánh đều do người Việt Nam đảm trách. Xây dựng cơ xưởng đúc súng đạn và đóng tàu, cải cách quân sự, huấn luyện, v.v. đều bị bà sổ tuột.

Chưa đụng với bọn sĩ quan Pháp chính quy mà mới giao đấu với bọn người mà bà Thụy Khuê khinh miệt gọi là trốn lính, không bằng cấp học vị, cùng lắm chỉ là thứ anh chị, giang hồ thảo khấu. Vậy mà bọn này trong trận thủy chiến Thị Nại, một chiến thắng có tính quyết định.

Chúng đã dạy cho những người lính của Tây Sơn đã ba bốn lần theo gió mùa vào Nam, đuổi Nguyễn Ánh chạy có cờ đến không còn manh giáp.

Và nhất là trong số ấy, nhiều người không thể quên đi niềm tự hào từng ra Bắc chinh phạt đám quân Tôn Sĩ Nghị chạy bán sống bán chết về bên Tàu.

Vậy mà chúng – những tên lính đánh thuê – đã làm nên chuyện lớn, chuyện đội đá vá trời! Bà Thụy Khuê làm sao có đủ chứng liệu để phản bác tất cả những thay đổi về mặt quân sự, chiến lược, chiến thuật này không trong mối tương quan giữa một bên là Nguyễn Huệ, bên kia là Nguyễn Ánh?

Về những quân nhân người Pháp giúp Gia Long,  K. W. Taylor, trong “A History of Vietnamese” (2014) viết như sau:

taylor_385

K. W. Taylor, lại thêm một người viết sử theo “sử quan thuộc địa”?

Thuỵ Khuê nên đọc thêm, đọc nhiều hơn chút nữa để bớt những nhận xét, những câu hỏi vẩn vơ.

(còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

09 Tháng Mười Một 2013(Xem: 41766)
Cái ranh giới giữa hiện tại và quá khứ nhỏ quá, mỏng quá, nhanh quá, nhanh còn hơn một cái chớp mắt. “Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
08 Tháng Mười Một 2013(Xem: 43695)
Dù biết rằng vui mừng có giới hạn nhưng đau khổ vô bờ bến. Ước chi… ước chi…sương đã tan và nắng đã lên ở cuối đường.
01 Tháng Mười Một 2013(Xem: 52411)
Biết cùng ai chia sẻ sự suy nghĩ riêng mình, chỉ biết nhìn lên bầu trời âm u bên kia đồi, để rồi ước mong, mong một ngày nắng lên...
25 Tháng Mười 2013(Xem: 66501)
Cảm ơn tình bạn anh cho tôi, như cánh diều bay êm ả trên những tầng mây khi tụ khi tan, khi gần khi xa, như có như không, một tình bạn chân thật, giản dị,...
17 Tháng Mười 2013(Xem: 49106)
Mỗi lần tan học, ở các lớp cuối Trung học, chắc là cũng có các em học sinh mới lớn ngâm nga "em tan trường về anh theo Ngọ về" như chúng tôi...
17 Tháng Mười 2013(Xem: 36273)
Dường như đã thành người nhà dù màu da có khác, tiếng nói có khác, phong tục có khác mà sao thật quyến luyến vô cùng.
14 Tháng Mười 2013(Xem: 56034)
Nhớ điều này nha anh Hoàng, như anh đã viết năm nào. “Sau cái chết là gì? Là không gì hết. Có chăng là những ngọn gió. Ngọn gió thổi những lời bay đi. Ngọn gió thổi trả những lời trở lại.”
14 Tháng Mười 2013(Xem: 55217)
Xem lịch mới biết hôm nay là ngày đầu thu. Từng mùa thu đến, từng mùa thu đi. Đến rồi đi, đi rồi lại đến như bao kiếp người luân lạc trên dòng đời chảy miên man.
12 Tháng Mười 2013(Xem: 43313)
Tôi lại nghĩ. Chỉ có mấy quyễn sách long bìa, rách gáy, tôi còn không nở vứt đi, thì làm sao tôi có thể yên tâm mĩm cười bỏ cái thân nhục dục này xuôi tay nhắm mắt. Thì ra, nói một chuyện mà thực hành không phải dễ dàng.
11 Tháng Mười 2013(Xem: 51930)
VÌ EM LÀ NỖI NHỚ - Nhạc và Lời: Ngô Càn Chiếu - Hòa âm: Ngô Càn Chiếu - Ca sĩ trình bày: Ngô Càn Chiếu Vì em là nỗi nhớ Là Sài gòn nắng ấm bình minh Bên phố phường rôn rã thanh âm Là ngựa xe trong ngày đang đến
10 Tháng Mười 2013(Xem: 63871)
Xin cầu chúc mọi điều tốt đẹp cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, cho một người bạn văn chương của tôi. Anh là một homo literatus với ý nghĩa đáng trân trọng của nó.
08 Tháng Mười 2013(Xem: 42531)
Tôi được biết nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng khi anh là giáo sư dạy môn triết tại trường Pétrus Ký. Lúc ấy, anh Hoàng tuổi ngoài hai mươi, còn trẻ lắm.
03 Tháng Mười 2013(Xem: 60109)
Nhớ anh, tôi thèm đọc một cuốn sách. Tôi tìm chữ, tìm tôi cũ trong những ngày tháng miệt mài viết bài gửi cho anh. Những ngày thân thiết vô cùng. Những ngày của chữ, của Văn …
03 Tháng Mười 2013(Xem: 46057)
Có làm cha làm mẹ, tôi càng biết quý trọng, mang ơn và thông cảm những nỗi khó khăn của những người đã ra công dạy dỗ mình và giờ đây là con cái mình từ truyền trao kiến thức cho tới uốn nắn tính tình.
02 Tháng Mười 2013(Xem: 62459)
Biết được tin tức thầy, em mừng rỡ lắm. Gặp được thầy lại càng vinh hạnh hơn. Bàn chân "trần" của thầy chắc có lẽ cũng dừng chân nơi bến đỗ "trung học Ngô Quyền" để cùng đồng liêu theo dõi nhịp thở của học trò.
28 Tháng Chín 2013(Xem: 49597)
Thì ra tôi đã già rồi. Già thật rồi nên cứ loay hoay nhìn về quá khứ. Hãy cho tôi một nụ cười. Nụ cười hồn nhiên của trẻ thơ
21 Tháng Chín 2013(Xem: 59323)
Tựa Đề: HÌNH NHƯ NẮNG VỪA PHAI Nhạc&Lời: Phạm Chinh Đông Hòa Âm: Tuấn Ngọc Ca Sĩ: Hương Giang
21 Tháng Chín 2013(Xem: 62780)
ChsNQ khóa 1 đến thăm thầy Nguyễn Xuân Hoàng và Thầy Phan Thông Hảo
20 Tháng Chín 2013(Xem: 53577)
Phùng Quán vịn vào câu thơ mà đứng vững. Mình dựa vào tình thương của mọi người, nghiến răng, đứng lên mĩm cười với số phận. Cám ơn tình bạn, cám ơn thương yêu và thông cảm.
14 Tháng Chín 2013(Xem: 57406)
Phải chăng nhà văn không có tuổi. Nhà văn chỉ có già đi và chết. Nhà văn không đếm cái khoảng thời gian sống. Thời gian của một nhà văn là ý nghĩa những dòng chữ họ viết ra.