Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b - phần 2)

28 Tháng Sáu 201612:47 CH(Xem: 16964)
GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b - phần 2)

Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b - phần 2)


Bà Thụy Khuê chỉ sốc nổi chăm chăm tìm tòi xem trong sách vở do sử quan nhà Nguyễn viết để lại chứng minh được rằng việc đóng tầu thuyền từ A tới Z đều do quan lại nhà Nguyễn đóng cả. Bà chỉ chú trọng đến những chi tiết nhỏ mà không dám đối diện sự thực.

Bà có thể dám cả quyết rằng không có Bá Đa Lộc thì Nguyễn Ánh cũng vẫn làm nên sự nghiệp hay không?

Bà có thể quả quyết điều gì làm nên sức mạnh Gia Long để có thể thắng được một người được coi là anh hùng đã thắng đại quân Thanh?

Điều gì khác biệt giữa Nguyễn Ánh và Gia Long? Cái mạnh và cái yếu của họ? Về điểm này, sách Tạ Chí Đại Trường đã phân tích, lý giải một cách lý thú đến nơi đến chốn.

Điều gì là yếu tố quyết định cho sự thắng lợi chung cuộc giữa hai đối thủ?

Cụ thể hơn bà có thể nào phân biệt được một chiếc thuyền buồm và một chiếc tầu đồng với hàng trăm chi tiết kỹ thuật khác nhau? Và nếu một ai đó chỉ cho bà biết mọi chi tiết kỹ thuật giữa hai loại thuyền, bà hẳn sẽ đỏ mặt vì thấy mình hung hăng quá, chủ quan và hãnh tiến dân tộc!

Từ tầu buồm sang tầu đồng là một khoảng cách kỹ thuật chẳng khác gì từ trái đất lên mặt trăng bà Thụy Khuê ạ.

Bà chịu ảnh hưởng ông Nguyễn Quốc Trị — giờ phút này mà còn mang kế sách trị nước “hòa để thủ, thủ để mưu chiến” của cụ Nguyễn Văn Tường ra để đương đầu với người Pháp? Chẳng biết có điên hay không?

Cho nên, tôi không thể nào chia sẻ với quan điểm của bà coi bộ sử “Nguyễn Văn Tường” của Nguyễn Quốc Trị là: “một công trình nghiên cứu thận trọng và chi tiết, mở đầu cho một khuynh hướng tìm lại, viết lại, đọc lại lịch sử Việt Nam.”

Và tôi càng không tin khi bà cho rằng,

“Nhưng những gì ông đem ra ánh sáng cũng đủ khơi mào cho một khuynh hướng nghiên cứu lại lịch sử, trung thực và đào sâu hơn, để trả lại giá trị cho đại thần Nguyễn Văn Tường và triều đại nhà Nguyễn, nhất là vua Tự Đức, trong suốt thời kỳ trị vị, đã tìm mọi cách chống lại sự xâm lăng của người Pháp.”(15)

Bà có thể nào biện luận về vấn đề thắng thua, về sự thành bại giữa hai người? Theo cách của ông Nguyễn Quốc Trị đặt ra: “Sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc có quyết định sự nghiệp của Nguyễn Ánh không?”

Theo tôi, đề tài và câu hỏi của Nguyễn Quốc Trị đưa ra đó là một câu hỏi thừa nếu không ngớ ngẩn.

Nếu bà cứ một mực phủ nhận vai trò của Bá Đa Lộc và coi đó là sự vinh danh quá lố của thừa sai Ba Lê và bọn sĩ quan Pháp nhiều tên chỉ là hạng trốn lính, binh nhì!

Bà sẽ phải cắt nghĩa thế nào là kể từ khi Bá Đa Lộc trờ về từ Pondichéry thì quân đội Nguyễn Ánh mặc dầu đã chiếm được Sài Gòn. Nhưng chưa hẳn có dấu hiệu tất thắng một cách chung cuộc.

Và sau đó với sự góp công sức của Bá Đa Lộc và bọn Pháp đánh thuê, Nguyễn Ánh đã từ thế thủ đổi sang thế công, nhất là qua chiến thắng Tây Sơn ở trận thủy chiến Thị Nại?

Cũng tương tự như vậy khi tìm hiểu chế độ thực dân, nếu ta hiểu được rộng rãi các chế độ ấy trên toàn thế giới, hiểu được trào lưu lịch sử, người viết sử sẽ có một quan điểm nhìn thông thoáng hơn và nhất là ‘biết điều’ hơn.

Một sự kiện lịch sử như chế độ thực dân xẩy ra mỗi nơi, mỗi thời, mỗi khác.

Các nước Phi Châu ngoài việc bị khai thác sức lao động, từ đó còn tạo ra một chế độ buôn người, một hình thức của chế độ nô lệ còn sót lại! Xin xem thêm cuốn film “Bois d’ébène” để hiểu thêm về lịch sử chế độ nô lệ giữa Pháp và các nước Phi Châu.

Tại sao điều ấy lại không xẩy ra ở Việt Nam?

Nhưng mặt khác, người Pháp đã dễ dàng thu dụng lính thợ Việt Nam cho chiến tranh thế giới thứ nhất mà tổng cộng con số lên đến 92.411 người. Trong số đó, Tạ Chí Đại Trường ghi lại là nhiều người tình nguyện, ‘đi xa một lần cho biết’.(16)

Tại sao đi lính cho Pháp mà sẵn sàng tình nguyện đi một lần cho biết? Và tôi thách thức bà Thụy Khuê có thể cho biết tâm trạng những người đi lính cho Tây Sơn lúc bấy giờ như thế nào? Có bao nhiêu người tình nguyện? Có bao nhiêu người bị bắt lính? Và thành phần những binh lính ấy thuộc loại gì? Có bao nhiêu băng đảng thành phần du thủ du thực? Có bao nhiêu quân cướp biển Tầu? Có bao nhiêu lính được coi là chính quy?

Tôi cũng cắc cớ hỏi bà Thụy Khuê có thể cắt nghĩa thế nào cho hợp tình hợp lý, có một sự khác biệt gì giữa một số người Thiên Chúa Giáo theo Tây và được coi là nối giáo cho giặc, phải xử tử và những người tình nguyện sang Pháp đi làm lính thợ, lính đánh thuê, họ phải được gọi là gì và hình phạt cho họ phải là gì thưa bà Thụy Khuê?

Như đã viết trong các bài trước, tôi nghĩ rằng người Thiên Chúa giáo nghèo nàn được đối xử như một thứ lê dân không đủ tư cách để bán nước. Phần lớn họ, không phải theo Tây mà theo các cố Tây!

Theo Tây là về mặt chính trị như đi lính cho Tây, theo cố Tây là về mặt tín ngưỡng! Lựa chọn nào là trọng tội?

Họ là nạn nhân của một thể chế chính trị giữa kẻ đi cai trị và kẻ bị trị.

Trên: Người Việt đi lính cho Pháp trong WWI. Dưới: Giáo dân miền Bawsctreen đường di cư vào Nam 1954. Nguồn: Tổng hợp

Trên: Người Việt đi lính cho Pháp trong WWI. Dưới: Giáo dân miền Bắc trên đường di cư vào Nam 1954. Nguồn: Tổng hợp

 

Chẳng những thế, việc đi lính cho Tây còn biến thành một phong trào được cổ động rầm rộ trên báo chí Nam Phong của Phạm Quỳnh với câu, “Rồng Nam phun bạc đánh đổ, một mai Đại Pháp thắng trận, dân ta ắt có phần.”

Phải nghĩ thế nào về trường hợp Phạm Quỳnh?

Chưa kể những số tiền quyên góp được gửi về Pháp, trong đó Nam Kỳ đóng góp nhiều nhất với 15,716.941, 65 quan Pháp. Bắc Kỳ chả thua kém gì với số tiền: 15.305.390, 65 quan Pháp.(17)

Chúng ta cần tìm hiểu tại sao thái độ hoàn toàn ‘phản quốc’ này sử sách không có lời phê phán?

Một chi tiết nữa tôi mong mọi người lưu ý là người Pháp cũng chinh phục các nước Phi Châu, nhưng họ đã không để lại những công trình xây cất, nhà cửa, bảo tàng viện, cầu đường, đường xe hỏa như người ta thấy ở Việt Nam!

Chúng ta cần tìm hiểu tại sao chứ!

Cũng chỉ Việt Nam là nước duy nhất có sự sáng chế ra chữ Quốc Ngữ trong khi tại các nước Phi Châu họ nói tiếng Pháp thay cho tiếng mẹ đẻ.

Chế độ thuộc địa tự nó ai cũng hiểu rằng đó là sự bóc lột giữa người với người. Nhưng chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ, nếu ta hiểu được một số quy luật lịch sử.

Điều mà sử gia Nguyễn Phương gọi là cái “Đà Lịch sử”. Cái đà ấy cuốn hút theo nó như một dòng cuồng lưu không phải chỉ trong phạm vi hạn hẹp của một quốc gia mà của toàn thế giới.

Từ đó, lịch sử nhân loại mới đóng chốt vào các thời kỳ nô lệ, thời kỳ phong kiến, thời kỳ thực dân, v.v.

Cơn lũ thuộc địa ấy mang cái tính chất mà bây giờ ta quen dùng là tính Toàn cầu hóa. Có muốn tránh, muốn chống lại cũng không được. Có những yếu tố khách quan của quy luật toàn cầu hóa là sức mạnh của kỹ thuật, của trào lưu tư tưởng Tây phương. Và những yếu tố chủ quan là tinh thần của kẻ bị áp bức như tình dân tộc, tình yêu nước. Hai yếu tố đó có dịp cọ sát, tạo ra xung đột mà sự thắng thua tùy thuộc rất nhiều yếu tố khác ở hiện trường.

Sự sống còn, sự phát triển hay trì trệ, sự ngưng đọng hay sự trổi vượt lên là tùy thuộc vào cách ứng xử của từng quốc gia, tùng vùng, của từng người lãnh đạo.

Thua được gì thì vẫn là một bài học đắt giá được thể hiện bằng hai câu ca dao sau đây:

“Đưa nhau đến bến Thần phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”

Hai câu trên ứng vào chuyện trai gái, về tình yêu lứa đôi nếu phải duyên số thì hợp mà nếu không phải thì tan.

Nhưng khi áp dụng vào số phận một đất nước thì chữ khéo và chữ vụng là tùy thuộc vào người lãnh đạo. Lãnh đạo nước ta là một triều đình đã tồn tại cả ngàn năm, chẳng những đã không còn duyên mà lại vụng, bất tài, bất lực, tự chôn vùi — báo hiệu một thời đã hết! Sự biện hộ dù sắc sảo cách nào nào thì cũng không thể nào làm sống lại một cái xác chết trên đà mục rữa.

Nếu cần trách điều gì thì chỉ nên trách cái điều mà Phan Thanh Giản, sau khi đi xứ sang Pháp vào năm 1863 trở về nói không ai thèm nghe, không ai tin, ông viết:

“Since the day when, sent as ambassador to the capital of France, I saw Western civilization at work, I could not avoid a feeling of admiration coupled with fear. Upon returning to my country, I exhorted my compatriots to wake up, to emerge from the torpor in which they had been immersed for so long. Alas! In spite of my effort to convince them none of them believed the truth of my words.”(18)

“Kể từ cái ngày mà tôi được gửi đi làm Chánh sứ tại thủ đô nước Pháp, Tôi đã được chứng kiến tận mắt nền văn minh Tây phương, tôi không thể nào tránh được cái tâm trạng khâm phục cộng với sự sợ hãi. Khi trở về xứ sở của tôi, tôi thúc giục các người đồng hương của tôi phải mở mắt ra, phải thức tỉnh sau những năm tháng mê muội. Than ôi, mặc những cố gắng của tôi muốn thuyết phục họ, không một người nào trong đám họ tin vào sự thực những lời nói của tôi.”

Chủ nghĩa thực dân là chính sách của một chính quyền, của một quân đội viễn chinh hùng mạnh, nhằm chinh phục và đảo lộn trật tự thế giới bằng sức mạnh.

Đối với Việt Nam, nó thể hiện cụ thể một cách dứt khoát qua một lá thư của toàn quyền Paul Bert gửi cho ông Trương Vĩnh Ký vào ngày 29 tháng sáu năm 1886 như sau:

“Yes, no matters what happens, a European nation will enter Annam in order to take on a controlling influence there. It will not last, I am sure of that, but it is necessary to go through it: Annam cannot escape this fate.”(19)

“Vâng, bất cứ điều gì xẩy ra chăng nữa, thì một nước Âu châu cũng sẽ vào Việt Nam để nắm lấy quyền kiểm soát ở đó. Điều đó trương tồn, tôi tin chắc như thế. Nhưng đó là điều không thể tránh được: Annam không thể nào thoát được số phận này.”

Nếu ta hiểu thêm nữa việc xâm chiếm Việt Nam nằm trong bối cảnh cuộc nha phiến chiến tranh năm 1856-60 trong đó Trung Hoa không còn khả năng để bảo trợ cho Việt Nam được nữa. Thêm vào đó sự cạnh tranh ráo riết dành thuộc địa giữa Pháp và Anh đã bắt buộc Pháp phải quyết định dành thắng lợi trong việc bành trướng thế lực của mình vào thế kỷ 19 tại Việt Nam.

Kết luận phần một

Người viết đã có cơ hội đọc hầu hết các sử gia nêu trên. Mỗi vị cũng có những khuyết điểm không tránh được khi viết sử.

Nhưng cứ công tâm mà nói, không có vị nào có một thái độ “theo Tây”, “về hùa” như trường hợp Phạm Quỳnh. Mà bà Thụy Khuê gọi là “sử quan thuộc địa”.

Dùng tài liệu của Pháp là một lẽ. Phê phán chính sách sai lầm của Triều đình Huế trong việc cấm đạo và chính sách không mở cửa với Tây Phương là một lẽ khác. Nhưng cho dù họ có phê phán triều đình Huế đi nữa thì cũng không đủ lý do xếp họ là sử gia thực dân.

Đọc họ, cho dù muốn chứng minh họ viết ngả theo sử gia theo thực dân cũng không phải dễ. Người ta đã không thể nhận ra những tín hiệu cho phép xếp loại họ là những người viết sử theo Tây.

Một trong những người viết sử vốn không xa lạ gì với bà Thụy Khuê là ông Nguyễn Xuân Thọ với tác phẩm “Bước mở đầu của sự thiết lập Hệ thống thuộc địa Pháp tại Việt Nam, 1858-1897” đã đưa ra nhận xét về con người củaTự Đức như sau:

“Tự Đức vẫn duy trì ý định; năm sau lại báo cho Tổng Đốc Quảng Tây biết đã đến lúc mang cống vật, bốn năm một lần sang tặng Hoàng đế Tàu và hỏi xem lúc nào sứ đoàn Việt Nam có thể được đón?”

Ở một đoạn ngay sau đó, ông Nguyễn Xuân Thọ viết tiếp:

“Rốt cuộc nhà vua không còn biết biết xử trí như thế nào. Quá yếu đuối, nhà vua không còn lấy một chút nghị lực nào để đứng vững nữa. Bên cạnh nhà vua, toàn là những hàng quan lại hèn kém, khiến nhà vua mất cả phương hướng chính trị, tuy nhiên vẫn cứ khăng khăng muốn thu hồi các tỉnh đã mất. (20)

Câu nhận xét chót là trong bấy nhiêu năm dưới triều Nguyễn, không một ông vua nào đi ra khỏi khuôn viên của kinh thành Huế để thăm dân cho biết sự tình. Họ suốt đời ở trong hoàng cung!

Việc xếp loại của bà Thụy Khuê vì thế thật hồ đồ và tôi tin chắc sẽ có những người khác phản bác quan điểm của bà.

Trong cái hoàn cảnh lúc bấy giờ, Hội thừa sai Ba Lê do Giám mục Pallu và Delamotte-Lambert thành lập năm 1658 là một thế lực mới, bên cạnh giới tu sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vốn có mặt từ trước ở Bắc Kỳ.

Nó cũng tạo ra những phân rẽ sâu sắc giữa đôi bên về mặt chính trị, văn hóa và ngay cả bản sắc tôn giáo.

Các khu vực do các thừa sai Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha quản nhiệm thường chú trọng đến mặt rước sách, lễ lạc rườm rà. Nó có tính cách cổ điển và bảo thủ trong việc sống đạo.

Nó khác với các cộng đoàn do thừa sai Pháp đảm nhận. Lễ nghi giản dị hơn, có nếp sống văn minh hơn, sự thông thoáng trong kinh hạt, sự cởi mở và ít gò bó trong lề luật.

Sự khác biệt giữa đôi bên đôi khi công khai trở thành sự bêu riếu giữa hai lối sống đạo.

Và dĩ nhiên, các nhà truyền giáo Tây Ban Nha tỏ ra ‘thờ ơ’ trước các vấn đề chính trị của người Pháp đang thi hành ở Bắc Kỳ, nếu không nói là có sự chống đối với nhà cầm quyền Pháp.

Và cho đến năm 1902 thì sự có mặt của thừa sai Tây Ban Nha trở thành một thiểu số không đáng kể.

Trong khi đó, các linh mục thừa sai Ba Lê mỗi ngày thêm đông và thêm vững mạnh. Từ con số vài chục người đã tăng lên thành vài trăm người.

Người ta hiểu được trong cái tinh thần ấy, những người đại diện cho họ như giám mục Puginier cũng làm áp lực thúc dục công cuộc bành trướng thuộc địa, bởi vì công việc truyền giáo đã không mấy thành công tại Trung Hoa cũng như tại Thái Lan. Có một ích lợi chung giữa việc truyền giáo và sự hiện diện của người Pháp tại Bắc Kỳ và Nam Kỳ: Đó là sự bảo đảm an ninh, được tự do đi lại và truyền đạo!

Các nhà truyền giáo hẳn đã nhìn thấy một sự chấp nhận được giữa thẩm quyền đạo giáo và thẩm quyền dân sự với tư cách một công dân người Pháp và không thấy có sự mâu thuẫn gì nếu nhân danh một người Pháp để có thể bảo vệ các quyền lợi tôn giáo của họ.

Nhưng đứng về phía người Việt chống lại chính sách thực dân Pháp thì đây là cơ hội tốt nhất để cùng một lúc chống lại hai kẻ thù của Việt Nam.

Nhưng về mặt con người, ai cũng có một quê hương, nơi chốn mà họ đã sinh ra với xóm làng và những kỷ niệm đầu đời làm sao quên dược. Tôi đọc lại hành trình sang Pháp của Bá Đa Lộc với bao nhiêu tâm tư và ước vọng. Sau khi hoàn tất công việc, ông đã dành khoảng một tuần lễ về thăm mẹ ông ở một vùng quê. Họ chỉ biết ôm nhau mà khóc.

Sự hy sinh vì một lý tưởng tưởng chừng không bao giờ có cơ hội thăm lại quê hương cũng là điều hiểu được với tư cách một người công dân. Một thừa sai, dù có yêu mến Việt Nam bao nhiêu đi nữa, cốt lõi, cái căn cước của họ vẫn là người Pháp.

Điều trớ trêu là chính tại mẫu quốc, nhà thờ và chính quyền là hai thế lực đối đầu trong tư thế loại trừ, tách giáo hội ra khỏi thế quyền trong tinh thần chống giáo trị thì tại một nơi nghèo nàn hẻo lánh như Việt Nam, họ như thể những đồng minh sống chết có nhau.

Hiểu được điều này thì sẽ hiểu rằng do những lợi ích của đôi bên mà họ trở thành những người bạn nhất thời.

(Còn tiếp phần 7c)

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline minh hoạ.

(11) Tạ Chí Đại Trường có thói quen biện giải quanh co, chi ly sự việc, lôi kéo sự chú ý của người đọc vào một chi tiết tầm thường nào đó bị bỏ quên. Ông rất chú trọng đến những chi tiết bên lề rồi kết luận như thế như thế một cách khá thuyết phục, tước bỏ những định kiến có sẵn vốn xem ra đã rõ ràng. Đọc ông không dễ. Và nhiều khi phải nhẹ tay với phần sử liệu qua ông đã bị nhào nặn, biến một vật thô ở nguyên trạng thành nghệ phẩm.
Ông rất chú trọng đến tài liệu. Nhưng cái mâu thuẫn nơi ông là xử dụng tài liệu mà như thể không xử dụng, ông thường không trích dẫn nguồn mà đôi khi chính độc giả phải tìm lấy.
Chẳng hạn, ông đã trích dẫn 14 lá thư của Nguyễn Ánh gửi Bá Đa Lộc lúc còn lưu vong. Dưới mắt ông, phải đọc thư của chính Nguyễn Ánh mới hiểu con người thực của Nguyễn Ánh. Vì thế, khi bà Thụy Khuê cho rằng Bá Đa Lộc ít khi gặp Nguyến Ánh, mỗi năm gặp đôi ba lần nên chẳng giúp gi thực sự Nguyễn Ánh cả.
(12) Tạ Chí Đại Trường, “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, Từ 1771 đến 1802”, nxb Nhã Nam và nxb Trí Thức, trang 360.
(13) Thụy Khuê, Ibid., Chương 6, Chân dung Gia Long.
(14) Thụy Khuê, Ibid., Chương 6, phần Barrow nhận xét về Nguyễn Ánh Gia Long.
(15) Thụy Khuê, Ibid., Chương 1, Bộ sử Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị.
(16) Tạ Chí Đại Trường, “Người lính thuộc địa Nam Kỳ (1861-1945)”
(17) Tạ Chí Đại Trường, Ibid., trang 182.
(18) Lê Thanh Tường, “Un patriot annamite admirateur de la France: Esai sủ la vie de Phan Thanh Giản, vi-roi de Cochinchine”. (Hanoi, 1938, p. 92. Trích lại trong Pierre Brocheux & Daniel Hemery, “Indochina, an ambiguous colonization, 1858-1954”, trang 13.
(19) Paul Bert, Resident General of France, letters to the Catholic scholar
(20) Nguyễn Xuân Thọ, “Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp tại Việt Nam 1855-1897”. trang 282-287.

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

30 Tháng Mười 2014(Xem: 31512)
Suốt hai năm sống cùng bệnh tật, chị Khánh gần như trốn tránh sự quan tâm thăm hỏi của bạn bè. Cũng có thể do quá đớn đau vì hóa chất, chị Khánh chỉ muốn tự ru mình trong chiếc kén bình yên.
17 Tháng Mười 2014(Xem: 28422)
Chấp nhận và vui với những gì hiện hữu. Yêu thương sẽ làm mầm xanh trổi dậy sức sống mới. Tôi yêu thu và yêu luôn những gì đang có trong tầm tay mình.
10 Tháng Mười 2014(Xem: 27827)
Tại sao mình không tạ ơn đất trời và tận hưởng vẻ đẹp của mùa thu, vì mình đã biết rõ tiếp sau nó sẽ là một mùa âm u ảm đạm lạnh lùng. Hãy sống bằng hơi thở nồng nàn cho cái hiện tại đang có.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 30619)
''Sinh ký tử quy'' là định luật của đất trời. Nơi ''cõi tạm'' Thầy đã sống xứng đáng với vai trò là một Nhà Văn, Nhà Giáo bằng nhân cách và những cống hiến của mình cho văn học Việt Nam thì hôm nay, trên đường đến ''cõi về'' ....
19 Tháng Chín 2014(Xem: 19802)
Viết đến đây, giờ này... giải lụa vàng đã cùng Thầy bên nhau (hôm qua, chiều thứ bảy 13 tháng 9, nghe tin từ chị Hạnh cho biết:Thầy đã ra đi).
19 Tháng Chín 2014(Xem: 22525)
Cầu nguyện ơn trên trong giấc ngủ an lành, dẫn đưa hương linh của Thầy sớm về cõi Phật.
18 Tháng Chín 2014(Xem: 25562)
Hóa ra, anh và Nguyễn Xuân Hoàng dù rất khác nhau về nhiều điểm nhưng quả đã chung một điều - Cả hai chưa hề nói với nhau về văn chương, chữ nghĩa,
16 Tháng Chín 2014(Xem: 24314)
Sáng nay một lần nữa tôi lại cảm nghiệm được lẽ vô thường của đời sống khi vào thăm Thầy Nguyễn Xuân Hoàng, Thầy dạy Triết của các đàn anh đàn chị Ngô Quyền , Thầy dạy văn chương của tôi.
15 Tháng Chín 2014(Xem: 16505)
Tác giả của “Người Đi Trên Mây” và của “Bụi Và Rác” đã trở về với cát bụi trong sự thương yêu, luyến tiếc của các thân nhân, bạn hữu, bạn văn và các cựu học sinh từng một thời ngồi trong lớp học của “thầy Hoàng.”
13 Tháng Chín 2014(Xem: 29809)
Bốn mươi bốn năm đời sống hôn nhân, bao nhiêu lần em nuốt nước mắt vào lòng câm nín. Niềm riêng canh cánh bên lòng em không thể nói với ai.
13 Tháng Chín 2014(Xem: 24340)
Đường đời dù muôn ngàn lối rẽ – từng xô dạt “ ngũ long” trôi tận cuối đất cùng trời – thì vẫn còn có ngày, nhóm “ngũ long” chúng mình cùng lúc tìm về thăm bến sông xưa…
12 Tháng Chín 2014(Xem: 28453)
Không cần xem lịch hoặc đọc báo, cũng không cần bước ra ngoài sân hoặc lên “nét,” tôi vẫn biết mùa thu đang đến qua ánh mắt buồn hiu hắt của vợ.
11 Tháng Chín 2014(Xem: 37639)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
10 Tháng Chín 2014(Xem: 18279)
Tối hôm qua mưa ào ạt tới hai lần. Một lần vào lúc nửa đêm và một lần vào lúc gần sáng. Mưa bay qua cửa sổ tạt ướt chỗ nằm ta đánh thức cơn mê ngủ quá khứ, khơi dậy những hoài niệm tưởng đã chết.
10 Tháng Chín 2014(Xem: 16270)
Hai tay đặt lên trên mặt bàn, chị Thúc nhìn chăm vào tờ giấy. Tôi có cảm tưởng như chị không còn nghe thấy gì ngoài những dòng chữ trên tờ giấy đã viết sẵn kia đang ám ảnh đầu óc chị.
04 Tháng Chín 2014(Xem: 14081)
Hắn bỗng đổi cách ngồi, thả một chân xuống ghế, mặt chồm về phía tôi. Hơi thở hắn nồng nặc mùi thuốc lá nặng.
02 Tháng Chín 2014(Xem: 21971)
Để trân trọng những kết quả sau cùng hiện tại là một mái ấm gia đình bền vững, viên mãn. Anh chị Phương & Loan đã làm được điều đó để cuộc sống vợ chồng luôn tươi mát và nhiều màu sắc.
29 Tháng Tám 2014(Xem: 16565)
Nhưng mà tôi vui, vì tôi biết rằng từ nay tôi sẽ không còn phải đứng trên bục gỗ nói những điều hoàn toàn trái nghịch với những gì tôi đã từng nói trước đây cũng trên cái bục gỗ ấy.
28 Tháng Tám 2014(Xem: 20233)
Cho nên cái áo lính do vải, do hồ, do nhiều thứ của một thời chinh chiến cộng lại. Quyện với mồ hôi chồng tui cho tui có những hồi ức đẹp khó quên trong đời.