Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Thực dân và dân thuộc địa nhìn vào nhau (6a - phần 2)

19 Tháng Năm 201612:30 CH(Xem: 17764)
GS. Nguyễn Văn Lục - Thực dân và dân thuộc địa nhìn vào nhau (6a - phần 2)

Thực dân và dân thuộc địa nhìn vào nhau (6a - phần 2)


Về phía người Pháp

Người Việt Nam (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) năm 1883. Nguồn: Illustrated London News, Sept. 1, 1883.

Người Việt Nam (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) năm 1883. Nguồn: Illustrated London News, Sept. 1, 1883.

Cái tâm lý thông thường kẻ mạnh, kẻ đi chinh phục thường có thái độ trịch thượng với dân bản địa. Người phương Tây sang nước ta có thể cái tâm trạng cũng không khác bao nhiêu. Tuy nhiên, trong bài viết này, nếu chúng ta chú trọng đên những thư từ, hồi ký còn để lại thì có sự khác biệt như sau.

Các thừa sai thường có tâm lý chia sẻ, xót thương trước sự đói nghèo mà người dân phải chịu. Nếu đứng ở quan điểm nhìn về xã hội thì thừa sai và dân chúng thường đồng quan điểm.

Nhưng đối với các thương nhân hay nhà ngoại giao thì thường có cái nhìn phê phán, có sao nói vậy và đôi khi không khỏi có ác cảm là đằng khác.

Những nói chung cái nhìn của người Pháp khi đến Việt Nam sau này nó trở thành một vốn liếng văn hóa đồ sộ về mọi mặt. Thật ra chữ “nhìn” không đủ nghĩa. Họ đến để nhìn, nhưng còn để quan sát, để ghi nhận, để học hỏi, để khám phá, để phân biệt được cái xấu cái tốt ở mhuowfi Việt Nam.

Thật vậy. Họ đã viết hàng ngàn tài liệu sách vở về nước ta trong mọi lãnh vực. Viết về hành chánh, có 15 tác giả; viết về nông nghiệp có 30 tác giả. Về nhân chủng học 13 tác giả, nhưng về khảo cổ, kiến trúc có 48 tác giả. Về Hồi ký có 22 tác giả. Về chính trị có 44 tác giả, trong đó có một Việt Nam là Hoàng Cao Khải. Về thám hiểm, tham quan, du lịch 50 tác giả. Về sử học có 72 tác giả. Trong đó có một tác giả Việt Nam là Trương Vĩnh Ký. Về ngôn ngữ học, văn phạm, có 60 tác giả, trong đó vinh dự có ba tác giả Việt Nam. Đó là các ông Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ngôn tức Trương Minh Ký và Trương Vĩnh Ký. Về giáo dục, sư phạm có 26 tác giả trong đó có Huỳnh Tịnh Của, Lê Văn Phát, Trương Minh Ngôn và Trương Vĩnh Ký. Về tự điển, văn phạm có 78 tác giả trong đó có Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ngôn, Trương Vĩnh Ký.

Và còn nhiều ngành nghề khác nữa.

Cộng chung có khoảng 1312 tác giả Pháp và người Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha viết về Việt Nam(6). Nếu tính ra số bài viết thì ít lắm cũng có khoảng 5000 đề tài tất cả.

Đã có bao nhiêu người Việt Nam viết được như họ và bao nhiêu người đã có cơ hội đọc được họ?

Một câu hỏi không kém quan trọng là nếu chúng ta không viết được như họ thì tại sao không bỏ công ngồi dịch hết ra tiếng Việt? Một công việc dễ gấp 10 lần? Một công việc cần gấp 20 lần? Vì không đủ khả năng ngôn ngũ và dịch thuật?

Tại sao người Nhật đã làm được điều nay từ thế kỷ 18, còn Việt Nam ta hiện nay vẫn chưa làm. Trong một bài biên khảo trước đây, ,“20 năm Văn học dịch thuật miền Nam” tôi đã lấy làm hãnh diện là vào thập niên 1960, sách dịch đã chiếm 60% thị phần sách xuất bản ở miền Nam và sang đến năm 1970 trở đi đã chiếm đến 80% thị phần sách xuất bản. Tuy nhiên, sách dịch ở miền Nam có xu hướng thiên về sách triết học, tư tưởng. Nhất là sách truyện mà mục đích chỉ là giải trí. Trong khi sách về sử học, khoa học, kỹ thuật lại không có bao nhiêu.

Sách dịch ở trong nước hiện nay nói ra là một điều tủi hổ. Nó đã ít, phẩm chất lại cực kỳ kém cỏi, chạy theo lợi nhuận. Bằng chứng mới đây họ cho dịch cuốn “Finding the Dragon Lady” của Monique Brinson Demer. Cuốn sách hiển nhiên là bán chạy vì có tên bà Ngô Đình Nhu. Có người đi Việt Nam về mang theo một cuốn dịch nhờ tôi so sánh giữa hai bản. Tôi nghĩ không có thời giờ để làm chuyện nhảm nhí đó.

Trong bài sau, tôi sẽ chú trọng nhiều đến các hồi ký của các thương gia, những đại diện cho chính phủ các đế quốc, hay các nhà truyền giáo, đồng thời đề cập đến một số rất nhỏ người Pháp đã giúp cho triều đình Gia Long như Jean Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng (1769-1832), Philippe Vannier Nguyễn Văn Chấn (1762- 1842), Olivier de Puymanel (1788-1799), Jean- Marie Dayot (1759-1809).

Và hàng trăm người Pháp đủ loại đã góp phần tích cực trong việc xây dựng và phát triển cho Việt Nam. Bên cạnh đó, sự quan trọng là thành phần trung gian giữa thực dân và nước ta là các thừa sai ngoại quốc. Hội thừa sai được thành lập từ 1658-1663(7). Sự có mặt của họ trong suốt 350 của sứ bộ truyền giáo với khoảng 4200 thừa sai đủ các quốc tịch được phân bổ đi truyền giáo tại Bắc Mỹ và nhất là Châu Á, mà phần đông đã hiến cả cuộc đời họ trên mảnh đất nghèo nàn khốn khổ này.

Tôi sẽ phân tích tìm hiểu xem tại sao họ lại làm như thế! Về phía kẻ bị trị, có vua quan nhà Nguyễn, giới nông dân, và một số nhỏ giáo dân. Cạnh đó là những người đã tham gia vào trong các phong trào chống lại người Pháp đủ loại.

Cái nhìn của người thực dân Pháp về người bị trị

Lính thuộc địa của Pháp (người Việt Nam)  vào trại  Saint-Raphael. Trong suốt cuộc Thế chiến thứ I, gần 100.000 người Đông Dương đã được triển khai ở châu Âu, nhất là người lao động, nhưng vài ngàn cũng phục vụ trong tiểu đoàn chiến đấu. (Thư viện Quốc gia Pháp)

Lính thuộc địa của Pháp (người Việt Nam) vào trại Saint-Raphael. Trong suốt cuộc Thế chiến thứ I, 1914-18, gần 100.000 người Đông Dương đã được đưa sang châu Âu, đa số là người lao động, nhưng có vài ngàn người cũng phục vụ trong các tiểu đoàn chiến đấu. Nguồn: Thư viện Quốc gia Pháp.

Căn cứ vào một số hồi ký đủ loại của người Tây phương mà tôi có cơ hội đọc cho thấy cần kiên tâm, bình tĩnh và sáng suốt để đọc. Đọc để thấy cái yếu kém, cái ngu dốt của người mình mà thay đổi.

Dưới mắt thực dân, nói chung người An Nam xuất hiện với cái bề ngoài xấu xí thô kệch, khuôn mặt ‘ghê tởm’ như súc vật. Nó không hơn gì lắm những người còn ở tình trạng bán khai. Họ không thể nào so sánh với các sắc dân Ả Rập hay Ấn Độ. Người Việt Nam vóc người nhỏ bé hơn khi so với người Ấn Độ hay Ả Rập, người Mã Lai và Xiêm La. Giữa đàn ông và đàn bà An Nam thì xem ra đàn bà coi được hơn.

Chẳng cần phải đợi đến nhận xét của người ngoại quốc hằng trăm năm trước nhận xét về người An Nam. Thuở còn nhỏ, tôi đã nhận ra cha ông mình, dân làng mình còn sống bán khai, nghèo không thể còn nghèo hơn được. Nhiều đàn ông đi làm ruộng chỉ đóng có cái khố. Thật đến là bất nhẫn. Và không một lối thoát! Nếu không có chế độ thuộc địa – mà cứ để bọn vua quan mình điều khiển đất nước thì bao giờ khá được!

Hình thù đã như vậy lại được kết hợp với những thói quen xấu như dối trá, ăn cắp vặt. Đây là những đề tài thường xuyên được trao đổi giữa các vị phu nhân người Pháp bàn tán với nhau về đám gia nhân ít học của họ.

Các món ăn của người bản xứ cũng là đề tài hấp dẫn để phẩm bình, ngay cả những bữa yến tiệc được dọn ra để tiếp đãi khách Tây phương cũng trở thành đè tài bêu riếu hoặc dơ bẩn, hoạc ăn uống man rợ. Chẳng hạn như món trứng vịt lộn được các Chúa như Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) khoản đãi một phái đoàn nhà buôn Pháp. Nhiều người trong đám thực khách Tây phương chỉ nhìn thấy thôi đã muốn ói mửa. Nhưng họ bị ép buộc phải ăn thử tất cả mọi món ăn có trên bàn, đòng thời phải cho biết ý kiến của từng món một.

Nhưng món ăn ở Huế thường được dùng để tiếp đãi đám khách khó tính này ngay các loại hoa quả cũng bị nghi ngờ, nói chi đến các loại bánh trái đủ loại làm bằng bột cũng bị nghi ngờ về phẩm chất.

Các tập tục như ném vàng mã xuống các ngôi mộ cũng gây một sự nghi ngờ vô lý chẳng khác gì kiêng không ngồi 13 người ngồi trong một bàn tiệc.

Các vua chúa thì đôi khi tỏ ra sách nhiễu làm khó dễ như bắt chờ đợi lâu ngày. Họ lại thường quá chú trọng vào quà tặng và tỏ ra tham lam.

Tôi may mắn được lên Hà Nội học được tiếp xúc với Tây. Mang tiếng là đi học – nhưng học được gì khi chưa có một chữ trong bụng thì Việt Minh đã đánh nhau với Tây?

Việt Minh chỉ rành có mỗi một nghề: nghề đi giết người. Sáng hôm sau thấy súng bằng gỗ vứt gần Sở Hành chánh Tài chánh. Chúng, cộng sản, xúi thanh niên tự vệ thành đánh Tây với súng gỗ có chết người không chứ?

Sống ở khu phố Cửa Bắc, khu phố Tây, thấy Tây nó vẫn tử tế hơn người mình. Nó cung cấp thực phẩm cho người Hà Nội tỵ nạn vào nhà xứ. Ngay thời đó, tôi sợ Việt Minh chứ không sợ Tây. Tuy vậy, trẻ con Việt Nam cũng học thói trả thù dân tộc của người lớn xúm vào đánh mấy thằng Tây con, cứ gạch mà chỏang. Chúng ôm đầu máu, khóc chạy về nhà. Lễ chủ nhật, chúng đi nhà thờ với cha mẹ chúng, chẳng thấy bố mẹ chúng nói gì. Các bà đầm vẫn tử tế chào hỏi. Hình như chuyện đánh nhau là chuyện trẻ con chứ không phải chuyện người lớn.

Sau này, sống ở đồn điền cao su của Tây ở trong Nam, tôi vẫn thấy họ là người bình thường. Lớn lên, học đại học với họ, giáo sư người ngoại quốc, mà Tây là số đông, thấy họ thực sự là người tử tế.

Hay là tôi có may mắn chỉ gặp loại Tây tử tế? Hay là cần phân biệt giữa chính sách và con người? Nhưng làm sao cắt nghĩa được chính sách là bóc lột mà di sản Tây để lại thì quá lớn lao đến có thể coi họ như những người đến để khai hóa? Giữa thực dân và khai hóa, cái còn lại là cái nào?

Nói thực, sau này ra sống ngoại quốc (lại sống với “Tây”) cũng đến 40 năm, vẫn thấy dễ sống hơn sống với cộng sản.

Nhớ lại thời gian khốn khổ ấy dưới ách thực dân mà sao đời vẫn vui! Ai cắt nghĩa dùm tôi điều này. Sau 1975, người cùng một nước mà sao coi nhau như kẻ thù. Túng thiếu chưa đến nỗi nào sao người ta lại liều chết bỏ xứ mà đi?

Thuở ấy, tôi đi nhặt từng mẩu thuốc lá Philipp Morris để hít vài hơi.

Tự bên trong cũng cảm thức được số phận đất nước mình so với người ngoại quốc.

Trở lại câu chuyện của chúng ta thì các vua chúa đôi khi tỏ ra sách nhiễu làm khó dễ như bắt chờ đợi lâu ngày. Họ lại thường quá chú trọng vào quà tặng và tỏ ra tham lam.

Phái đoàn của Pierre Poivre phải thuê đến 100 cu-ly để khuân vác các quà tặng từ Đà Nẵng vào Huế.

Và sau đây xin trích dẫn một đoạn tiêu biểu của phái đoàn Pháp trong Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine do Henri Cordier ghi chép và trình bày:

“Je lui ai ensuite exposé le sujet de mon voyage. Je lui ai parlé des avantages du commerce, des richesses que procureroit à la Cochinchine celui des Européens etc. Il a écouté tous mes discours assez froidement, et il les interrompoit toujours pour me parler des femmes. Voyant que je n’en pouvois tirer autre chose je l’ai abandonné dans ses belles pensées et suis revenu fort mécontent d’un voyage inutile.

Il faut avouer que ces gens cy sont bien peu propres aux affaires. Uniquement occupés des soins de volupté, ils ne scavent rien au delà ; ils ne connoissent que les plaisirs des sens, ils en jouissent, en parlent ou y pensent, voilà leur vie.”(8)

Tôi đã phúc trình cho nhà Chúa mục đích của chuyến du hành của tôi. Tôi cũng đã nói đến những cái lợi của việc thương mại, sự giàu có đem lại cho xứ Nam Kỳ và cho người Âu Châu. Nhà Chúa đã nghe những điều tôi trình bầy một cách khá lạnh nhạt và ông đã thường cắt ngang câu truyện của tôi để nói về đàn bà. Thấy rằng tôi chẳng thu được lợi ích gì từ những câu chuyện như thế, tôi đành bỏ cuộc để mặc cho ông ta với những tư tưởng đẹp của ông ấy. Và tôi nhận thấy thật chẳng vui gì cho một chuyến đi vô bổ.

Phải thú nhận rằng những người này không quan tâm gì mấy đến các công việc buôn bán. Họ chỉ chú trọng tới chuyện nhục dục. Họ không biết gì hơn chuyện đó. Họ chỉ biết nghĩ đến những khoái lạc. Hưởng thụ nó, nói về nó, tư tưởng về nó. Và đó là đời sống của họ.

Cũng vì thế, một sinh viên du học trước 1975 hỏi tôi, “Một vua có hằng trăm vợ thì thời giờ đâu lo việc nước?” Câu hỏi đơn giản mà trả lời không được!

(Còn tiếp)

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline hiệu và minh họa.

(1) Jean Pierre Duteil, “La Première implantation francaise en Indochine ( XVII- XIX siècle)”. Ông cũng là tác giả l’Ombre des nuages. Histoire et civilisation du Viet Nam au temps des Lê (1979).
(2) Alexandre De Rhodes, “Divers Voyages et Missions”, Paris, 1653, chương 19, phần thứ ba.
(3) Alexandre De Rhodes, “Hành Trình và Truyền giáo”, bản dịch của Hông Nhuệ, trang 289
(4) Alexandre De Rhodes, Ibid., trang 264-265
(5) Nguyễn Văn Nghê, “Bản thân chữ Quốc Ngữ ‘có tội’ với dân tộc Việt Nam không?” http://www.viet-studies.info/, Nguyễn văn Nghệ, ngày 20-11-2015.
(6) A. Brébion, “Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l’Indochine française”, Paris: Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales, 1935. phần Table Signalétique des Matières.
(7) Missions étrangères de Paris. 350 ans au service du Christ 2008 Editeurs Malesherbes Publications, Paris, trang 2-4
(8) Henri Cordier, “Voyage de Piere Poivre en Cochinchine”, Revue de l’Extrême-Orient, 1887, t3, pp.81-121, 364-510; Jean-Paul Morel, copie sur pierre-poivre.fr en juillet 2010, trang 11

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

09 Tháng Ba 2024(Xem: 564)
Năm nay xuân Giáp Thìn cây anh đào tật nguyền lại nở rộ từ những ngày chớm tết cho đến giờ này. Ông dự định sẽ mời vài người bạn thân ghé nhà để uống trà thưởng hoa như dạo nào…
01 Tháng Ba 2024(Xem: 567)
Anh hùng chỉ là người của một thời, một giai đoạn. Nhưng người tử tế đòi hỏi sự hy sinh thiệt thòi cả một đời! Miền Nam Việt Nam có thể không có nhiều anh hùng, nhưng những người có một tấm lòng và người tử tế thì không thiếu.
01 Tháng Ba 2024(Xem: 655)
Cũng đã khá lâu tôi có nghe vài người bạn kể rằng họ có xem một bộ phim Đại Hàn có tựa đề là “Bản Tình Ca Mùa Đông”. Tôi nghe rồi cũng bỏ qua chứ không quan tâm gì
01 Tháng Ba 2024(Xem: 448)
Tôi cám ơn bác sĩ rồi theo con ra khỏi phòng mạch. Mọi sự vật trong toà nhà như sáng hẳn lên và rõ ràng, khi ra ngoài, tôi nắm lấy tay con gái, reo lên -Mẹ đã thấy được chiếc lá cây rung rinh trong gió… từng chiếc lá, không phải một khối xanh lay động như trước nữa.
01 Tháng Ba 2024(Xem: 602)
Trong tiếng Việt giàu đi với sang. Nhưng thời nay, giàu tiền thì nhiều nhưng mà sang thì không có mấy, đốt đuốc cũng khó tìm ra.Bởi sang nằm trong cốt cách, trong cách ứng xử, trong ngôn ngữ thể hiện,
01 Tháng Ba 2024(Xem: 571)
Cây ngọc lan nhân chứng cuối cùng của nhà xứ Tâng đã chứng kiến bao nhiêu cảnh vật đổi sao rời không còn nữa. Cảnh vật và con người trăm năm cũ nay chỉ còn là chuyện kể khúc còn, khúc mất mà thôi.
24 Tháng Hai 2024(Xem: 708)
Người già tức là người lớn tuổi, còn gọi là người nhiều tuổi hay người cao niên… Thế thì bao nhiêu tuổi mới được gọi là người già, người lớn tuổi hoặc người cao niên?
23 Tháng Hai 2024(Xem: 754)
Tình yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn”. Tình bạn giữa tôi và Cát Đằng quả là hiếm có. Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
23 Tháng Hai 2024(Xem: 962)
Khi hay tin một người bạn đồng nghiệp mới qua đời làm tôi hồi tưởng lại những kỷ niệm khi tôi mới bước chân vào nghề. Những kỷ niệm có vui có buồn đã theo tôi suốt cả cuộc đời dù muốn quên cũng không quên được.
17 Tháng Hai 2024(Xem: 1069)
Lại một năm nữa sắp trôi qua, dù trí thông minh nhân tạo ngày nay đã có thể viết văn, sáng tác thơ, làm phim ảnh một cách dễ dàng, nhưng tôi vẫn thích theo lối cũ, ngồi mò mẫm để viết chút tản mạn chuẩn bị chào đón năm Giáp Thìn 2024.
17 Tháng Hai 2024(Xem: 1000)
Làm sao quên được cái thời hoang sơ của thành phố Đà Lạt. Phong cảnh hữu tình và người thì dễ thương…
16 Tháng Hai 2024(Xem: 852)
Ý Như Vạn Sự là sự bùng vỡ của Trí Tuệ và Từ Bi cùng lúc. Trí Tuệ vì nhận chân bản tánh Như của vạn sự. Từ Bi vì sự bùng vỡ của tình thương yêu bình đẳng đối với vạn sự, cho phép vạn sự là chính nó, tự vận hành theo chu kỳ tuần hoàn sinh-trụ-hoại-diệt của chính nó.
16 Tháng Hai 2024(Xem: 989)
Hà ô Lôi là ai nhỉ? Chỉ được biết Hà Ô Lôi là một tiếng hát tuyệt vời, ảo diệu có thể làm mê hoặc lòng người. Nhưng vì cách đây đã năm thế kỷ nên không có cách gì ghi lại được tiếng hát đó. Người đời sau muốn nghe lại được nó, chỉ còn mỗi một con đường : nghe câu truyện kể về Hà ô Lôi
16 Tháng Hai 2024(Xem: 809)
Bởi vậy, nếu có chàng nào ngơ ngác lạc vào xóm tui, hỏi nhà cô Loan, thì phần nhiều sẽ nhận được câu trả lời rất... chảnh, rất lạnh lùng rằng: - Xóm này hổng có ai tên Loan hết á! Ủa, đang yên đang lành, Tết đến mần chi, để tôi bỗng nhớ da diết xóm cũ thương yêu của tôi thế này! Thôi, tui đi khóc đây.
07 Tháng Hai 2024(Xem: 1685)
Trong cuộc sống của chúng ta đôi khi có những cuộc gặp gỡ thật tinh cờ … dù ngắn ngủi nhưng cũng để trong lòng nhau những tình cảm quý mến chân tinh và trân trọng
06 Tháng Hai 2024(Xem: 765)
Phải chăng Tiếu ngạo giang hồ thể hiện được tính lãng mạn cao độ, khát vọng tự do của con người? Phải chăng đó cũng là tâm thức và nỗi khát vọng của chính tác giả Kim Dung?
05 Tháng Hai 2024(Xem: 708)
Các cựu học sinh nổi tiếng của trường này là hoàng đế Bảo Đại, quốc vương Sihanouk, tổng trưởng dân vận chiêu hồi Hoàng Đức Nhã, chuẩn tướng Dương Mộng Bảo…
03 Tháng Hai 2024(Xem: 1703)
Có thể nói đọc báo Xuân trong những ngày Tết là thú tiêu khiển tao nhã, là món ăn tinh thần lành mạnh, là nét đẹp văn hóa của cha ông đã có từ xa xưa,
29 Tháng Giêng 2024(Xem: 966)
Tết con rồng thứ ba của thế kỷ 21 sẽ bắt đầu từ ngày 10 tháng 2 – 2024. Mong rằng suốt năm con rồng đừng có thêm biến cố chết người để khỏi nghe các lời bàn của các nhà mê tiên tri