Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Những vấn đề lịch sử hay sử quan của người viết sử (3 - phần 3)

05 Tháng Năm 201612:49 CH(Xem: 17876)
GS. Nguyễn Văn Lục - Những vấn đề lịch sử hay sử quan của người viết sử (3 - phần 3)

Những vấn đề lịch sử hay sử quan của người viết sử (3 - phần 3)

Đôi lời bình thay cho kết luận

Vấn đề sử học phải chăng đã có lời giải đáp trong Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ, 1775- Thế kỷ 18.

Phải chăng Ngô Thời Sỹ đã không được người đời sau lý đoán tới vì đã có Ngô Sỹ Liên?

Tôi cũng rất ngạc nhiên tự hỏi, đã có rất nhiều sử gia nói rõ ràng vai trò của sử học cũng như cách viết sử. Nhưng xem ra họ nói một đằng làm một nẻo.

Xin được trích như sau:

“Đại để phép làm sử là phải: mỗi sự kiện đều nhặt đủ, không bỏ sót, để cho người ta sau khi mở sách ra xem, rõ được manh mối, biết được đầu đuôi, tuy không được mắt thấy tai nghe, mà rõ ràng như chính mình được thấy.(17)

Ngay từ thế kỷ 18, sử gia Ngô Thời Sỹ đã có những nhận định rất đứng đắn, tiến bộ và sâu sắc về sử học mà không hiểu người thời sau không chịu lấy đó làm gương để noi theo?

Ông trích dẫn lời người xưa như sau:

“đúng lời nói mà không xét đến lẽ phải, tác giả dối ta, ta lại tin vào đó để dối người sau, có nên không?”

Truyện Lạc Long Quân

“Con vua Kinh Dương là Sùng Lãm lên làm vua gọi là vua Lạc Long, lấy bà Âu Cơ, có thai đủ ngày tháng, sinh ra 100 con, Lạc Long thường bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, nước với lửa khác nhau, khó ở chung được”, bèn chia nhau, 50 người con theo cha về miền biển; 50 người con theo mẹ về miền núi, suy cử người con trưởng nối ngôi là vua Hùng Vương. Xét trong truyện chép thời bấy giờ vua Lạc Long về ở trong động nước. Dân có việc gì thì kêu to lên rằng: “Bố ở đâu? Lại đây với ta” thì Long Quân lại ngay.”(18)

Câu chuyện trên gây ra những cảnh ngộ ‘buồn cười’ cho các thầy cô giáo dạy sử ở hải ngoại. Một trong những người bạn tôi có con đi sinh hoạt với một đoàn Hướng đạo ở địa phương, huynh trưởng của cháu kể lại câu chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra trăm trứng khiến trẻ con thắc mắc.

Những thắc mắc của trẻ là

  • Người tại sao đẻ ra trứng?
  • Rồi trứng lại nở ra người?
  • 100 con trai chia đôi, nửa lên núi, nửa xuống biển thì làm sao truyền giống, sinh sôi nảy nở đến ngày nay?

Huynh trưởng không có câu trả lời minh bạch được hẹn sau khi tham khảo sẽ trả lời ở lần họp tới. Ở buổi họp sau, huynh trưởng đã sửa lại là: thật ra Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra 50 người con trai và 50 người con gái rồi lấy nhau!

Trẻ nhỏ lại thắc mắc, lấy nhau như thế thì loạn luân rồi còn gì nữa?

Tôi không phải trẻ con nên nghĩ có hơi khác một chút.

Theo tôi, việc truyền giống thì loài nào sinh ra vật nấy. Con rồng, tức thuộc loài rắn thì đẻ ra trứng chắc là phải rồi.

Đây là một cuộc hôn nhân dị loại chưa từng xảy ra và có thể đây là lần đầu tiên xảy ra như vậy. Cuộc hôn nhân xem ra có vẻ lén lút, chim chuột không được thừa nhận chính thức, vì dị loại nên đến một lúc nào đó đành phải chia tay.

Viêc chia tay chắc là phải xẩy ra thôi. Cuộc ly dị thời cổ đại này lại dựa trên căn bản pháp lý hiện đại làm nền tảng cho việc phân chia gia tài, phân chia con cái đồng đều cho hai bên khi không có khế ước hôn nhân.

Việc chọn người con trưởng của Âu Cơ làm vua cũng mở đầu cho luật thừa kế sau này vì vậy cũng đã gây ra những cuộc tranh dành ngôi thứ rất là phức tạp trong các triều đại về sau.

Viết tới đây, nghĩ lại, tôi thấy những thắc mắc của con trẻ không phải là vô lý, nhất là chuyện loạn luân.

Lạc Long Quân Sùng Lãm là con của Kinh Dương Vương Lộc Tục, cháu nội của Đế Minh.

Đế Nghi là con Đế Minh, anh của Kinh Dương Vương, sinh ra Đế Lai. Đế Lai sinh ra Âu Cơ.

Lạc Long Quân như vậy đúng là em chú bác với Đế Lai và lại đi lấy cháu Âu Cơ, con gái Đế Lai. Đúng là chuyện loạn luân rồi còn gì nữa.

Hồng Bàng Thế Phổ. Nguồn: DCVOnline

Hồng Bàng Thế Phổ. Nguồn: DCVOnline

Thầy cô trong các lớp dạy Việt ngữ hay huynh trưởng các đoàn thể thiếu niên ở hải ngoại có lẽ đa số không biết chi tiết này, hay nếu biết cũng sẽ không biết kể lại cho trẻ em thế nào hoặc sẽ làm lơ vì ngay chính Ngô Sĩ Liên, sử gia đã đưa “Kỷ Hồng Bàng Thị” vào Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, cũng đã phải ghi một dòng biện hộ ở lời bình dưới phần “Lạc Long Quân”:

“Xét sách Thông Giám Ngoại kỷ (4) nói: Đế Lai là con Đế Nghi; cứ theo sự ghi chép ấy thì Kinh Dương Vương là em ruột Đế Nghi, thế mà kết hôn với nhau, có lẽ vì đời ấy còn hoang sơ, lễ nhạc chưa đặt mà như thế chăng?”

[(4): Thông giám ngoại kỷ: tức phần Ngoại Kỷ của sách Tư Trị Thông Giám (294 quyển) do Tư Mã Quang đời Tống soạn.]

Chúng ta tưởng câu chuyện đùa, đọc giải trí. Không. Đây là một câu chuyện nghiêm chỉnh.

Bởi vậy mỗi trang sử viết ra thì có bấy nhiêu vấn đề. Trước khi kết luận bài viết này, chúng tôi chọn một vấn đề và tạm bỏ quên các vấn đề khác.

Vấn đề tượng binh trong trận Đống Đa giữa Quang Trung và Tôn Sĩ Nghị

Quân đội Khmer tiến hành chiến tranh chống lại người Chăm; Tranh trạm nổi  Bayon-ngôi đền ở Angkor, Campuchia (S phần, E gallery, cuối 12 đến đầu thế kỷ 13)

Quân đội Khmer tiến hành chiến tranh chống lại người Chăm; Tranh trạm nổi ở ngôi đền Bayon ở Angkor, Campuchia (phần S, gallery E, cuối thế lỷ 12 đến đầu thế kỷ 13)

Trong trận chiến thắng lẫy lừng này của Quang Trung, yếu tố làm nên chiến thắng ấy không thể không đề cập đến là vấn đề tiếp liệu và di chuyển.

Một trong những yếu tố ấy được nhiều tác giả nhắc tới là khả năng xử dụng Tượng Binh của Quang Trung.

Voi được dùng để chuyên chở, di chuyển như một gia súc là chuyện bình thường. Nhưng dùng trong việc quân binh thời câu chuyện không phải dễ. Voi phải dược huấn luyện thuần thục như thế nào để khi ra trận trở thành một sức mạnh áp đảo quân địch.

Tác giả Nguyễn Duy Chính là người có viết một bài nhan đề: Từ Tượng Binh đến Voi giầy ngựa xé.(19)

Trong đó ông đặt ra nhiều nghi vấn như việc huấn luyện voi, việc chăm sóc voi mà nhu cầu thực phẩm lên đén 150 kg vừa cỏ, lá cây, v.v.

Dựa trên một tài liệu ngoại quốc của Maurice Collis, một người chuyên môn huấn luyện voi viết như sau:

“Đây là những con vật được đào tạo để theo lệnh lạc một cách hung dữ, sử dụng như một mũi xung kích trong chiến đấu và cũng là một sát thủ giết người bằng cách tung lên, dày đạp, xé nát (đối phương) hồn nhiên như trẻ thơ…”

Ông viết tiếp, voi trận được tuyển lựa kỹ càng trong các voi đực, ngà dài, to lớn, khỏe mạnh và trải qua một chương trình huấn luyện chặt chẽ. Quan trọng nhất là làm sao cho voi không bị kinh hoàng khi nghe tiếng súng.

Ông đặt nghi vấn. Chúng ta không biết quân Tây Sơn điều động tượng binh như thế nào? Ông đưa ra mấy nghi vấn sau đây:

  • “Thứ nhất: Voi di chuyển tương đối chậm, tốc độ đường núi khoảng 1,5 đến 2 dậm/giờ (2,4-3,2 km/giờ), đường phẳng có thể lên đến 3 dặm (5 km/giờ). Voi nếu chở một lượng trung bình thì di chuyển trong khoảng 18-25 dặm (29-40km/một ngày). Tuy nhiên với khoảng cách đó, voi sẽ không đi được lâu ngày vì đau chân. Vì thế, voi trận nếu cần di chuyển đường trường thì không thể di chuyển nhiều hơn 10-12 dặm(16-19km- ngày). Voi tuy khỏe, nhưng cũng chỉ chở được khoảng 300-400lbs (135-180kg). Nếu đi liên tục trong nửa tháng, voi phải được nghỉ một, hai ngày mới lại sức.
  • Thứ hai, voi phải được ăn uống đầy đủ. Một con voi cần khoảng 120-150 kg mỗi ngày chủ yếu là cỏ, lá, rễ cây. Voi không chịu được đói khát, dễ bị kiệt sức nếu bị ép làm việc nhiều và mỗi ngày phải có ít nhất vài giờ thong dong để tìm thức ăn. Voi phải sống gần nơi có nước và vì da có lỗ chân lông và tuyến mồ hôi nên uống rất nhiều. Voi cũng phải tắm hằng ngày vào buổi sáng. 
  • Thứ ba, voi rất nhạy cảm, sợ tiếng động, nên voi trận phải tập luyện để làm quen với súng ống, mặc dầu không ai dám bảo đảm là voi sẽ tuyệt đối tuân lệnh khi lâm trận. Vai trò của nài voi (quản tượng) rất quan trọng, vì voi chỉ tuân theo lệnh của y và nếu nài bị thương hay chết thì rất khó điều khiển.
  • Thứ tư, da voi tuy dày, nhưng lại rất sợ các loài sâu bọ, ruồi muỗi, bị thương cũng khó chữa vì sần sùi. Chân voi không thể đóng móng như móng ngựa và chỉ là một lớp da mềm, dễ bị gai góc làm cho bị thương. […] Theo kinh nghiệm của người Hòa Lan thì voi và ngựa rất kỵ nhau. Ngoài ra, voi lại sợ tiếng lợn kêu và thường hoảng sợ khi nghe lợn eng éc nên có nơi đã dùng lợn để chống với voi.”

Cũng như tác giả Nguyễn Duy Chính, chúng tôi có những nghi vấn khi đặt vấn đề tượng binh của Quang Trung.

1. Voi đời thường

a. Theo tài liệu “Asian Elephant, Elephas maximus”, bản đồ khu vực sinh sống của voi châu Á trích từ Trích thư viện trực tuyến của Sở thú San Diego(20) cho biết voi châu Á gần Việt Nam nhất sinh sống ở Lào và miền bắc Campuchia, Pleiku, Ban Mê Thuột ở Việt Nam, nơi có nhiều rừng già. Phong thổ Việt Nam, nói chung không thuận lợi cho voi sinh sống.

Khu vực sinh sống của voi châu Á. Nguồn:

Khu vực sinh sống của voi châu Á. Nguồn: http://library.sandiegozoo.org/

b. Voi châu Á nặng trung bình 2000-5500 kg. Trong một nghiên cứu về Voi châu Á tại Lahugala Tank, voi đực có chu kỳ hoạt động như sau: 91,1% = ăn, 5,4% = đi bộ, 1,4% = nghỉ ngơi, 1,8% = tắm, 0,1% = uống nước, 0,2% = tất cả các hoạt động khác. Voi ăn, không liên tục, trong suốt 24 giờ; Voi uống thường vào buổi chiều và ngay trước bình minh; voi thường đi đường dài vào ban đêm. Voi uống đến 225 lít nước mỗi ngày. Voi trưởng thành ăn khoảng 150 Kg thực phẩm mỗi ngày. Voi cần muối trong thực phẩm.

c. Voi di chuyển rất chậm trong khi ăn. Voi con có thể chạy khi chơi, voi trưởng thành chỉ chạy khi tấn công. Voi biết bơi, tốc độ 2 km/giờ. Nhưng voi không thể nhảy; ngay một cái hố cạn cũng là một rào cản. Voi cũng không thể phi nước kiệu, đi nước kiệu, hoặc phi nước đại. Voi đi tốc độ đi bộ bình thường khoảng 4-6 km / giờ. Tốc độ tấn công có thể đến 24,5 km / giờ)

2. Voi trận mạc

Thử lấy một câu chuyện sử làm thí dụ phân tích. Người ta thường cho là Quang Trung đại thắng nhờ một yếu tố: tốc độ hành quân.

Xuất quân từ Phú Xuân ngày 25 tháng 11, Quang trung đến Thăng Long ngày 30 Tết và đánh nhau với quân Thanh 6 ngày liên tiếp và đại thắng, chiếm Thăng Long vào chiều mồng 5 Tết Kỷ Dậu. Tóm lại cuộc hành quân của vua Quang Trung kéo dài 40 ngày, từ 25 tháng 11 Mậu Thân (22/12/1978) đến 5 tháng Giêng, Tết Kỷ Dậu (30/01/1789).

Chưa kể tới tiếp liệu cho binh sĩ, khối hậu cần cho chiến dịch Ngọc Hồi-Đống Đa năm 1789 cần có và phải vận chuyển

  • 150 Kg (rễ cây, trái cây và vỏ cây)/ngày  x  40 ngày  x  100 = 600.000 Kg hay 600 tấn thực phẩm
  • 225 L (nước)/ngày  x  40 ngày  x  100 = 900,000 lít hay 900 tấn nước.

Để dễ hình dung, dưới đây là một xe chở nước có dung tích 11,356 lít.

Xe chở chất lỏng khoản dung tích 3000 US gal. Nguồn:  Abbey

Xe chở chất lỏng khoản dung tích 3000 US gal. Nguồn: Abbey

Tốc độ hành quân

25 tháng 11 từ Phú Xuân đến 29 tháng 11 quân cuả Nguyễn Huệ đã đến Nghệ An. Theo đường chim bay trên bản đồ Google Maps, Phú Xuân cách Nghệ An khoảng 318 Km. Như vậy mỗi ngày đoàn quân Bắc Tiến đi được gần 80 Km (318 Km / 4 ngày = 79, 5Km).

Đoạn đầu chiến dịch Ngọc Hồi-Đống Đa. Nguồn: DCVOnline

Đoạn đầu chiến dịch Ngọc Hồi-Đống Đa. Nguồn: DCVOnline

Trong chiến dịch 1789 này có lẽ binh tướng của Nguyễn Huệ đều phải ngủ ngày vì voi chỉ di chuyển đường dài về đêm; 100 thớt voi của Nguyễn Huệ, nếu chỉ di chuyển 8 tiếng về đêm (bình thường voi chỉ đi bộ 1 giờ 20 phút mỗi ngày với vận tốc trung bình 5 Km/giờ) thì đoàn tượng binh này phải chạy với vận tốc gần 10 Km/giờ, không ăn, không uống. Dù có được chích steroids, chiến đoàn thiết giáp này cũng sẽ lăn đùng ra chết vì kiệt lực trước khi tới vĩ tuyến 17. Đó là chưa bàn tới chuyện “đại bác chở bằng voi mà xông vào trận”.(21)

Tác giả Nguyễn Duy Chính qua bài viết Từ Tượng Binh đến voi giầy ngựa xé đã giả thiết rằng đã có thể điều động đàn voi ra trận theo đúng lộ trình và ngày giờ đã quy định theo kế hoạch của Quang Trung. Nhưng ông không giải quyết dứt khoát được cuộc di chuyển voi từ Thuận Hóa ra tới Hà Hồi thì ‘giải pháp dùng Binh Tượng’ của Quang Trung như một sáng kiến thần kỳ về tài dùng binh của Quang Trung sẽ được biện luận như thế nào?

Nhân đây cũng đặt thêm một nghi vấn về chiến thuật dùng ván gỗ đắp rơm làm khiên che chắn của Nguyễn Huệ như tác giả Phù Lang Trương Tấn Phát đã đề cập trong TSSĐ số 13, Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu:

“Vua Quang Trung truyền lấy 60 chục tấm ván, ghép liên ba tấm làm một bức, tất cả là hai chục bức, dùng rơm xấp nước bện vào rồi kén hạng lính khỏe tợn, giao cho 10 người phải khiêng một bức, mỗi người đều vác một thanh đoản đao, mỗi bức lại cho hai chục người nữa cầm các binh khí đi theo.”

Khiên che đủ cho 20 người xếp hàng ngang (chữ nhất) ít nhất phải rộng 24 bộ (feet) cao 4 bộ tức là ba miếng 4’x8′ ghép lại. Chưa kể rơm và đất đắp, mỗi tấm khiên này đã nặng khoảng 90 Kg, nếu là ván ép. Nếu là gỗ lim thì chuyện gì đã xẩy ra?

Cưa (máy) nào đã giúp Nguyễn Huệ đốn gỗ rừng (ở đâu) làm thành 60 tấm ván (4’x8′) trên đoạn đường gần 600 Km Từ Phú Xuân đến Thăng Long.

Người viết tin chắc rằng hồi đó Home Depot chưa mở cửa. Xin để tùy bạn đọc nhận định và tự trả lời.

© 2016 DCVOnline Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline hiệu đính và minh họa. (1) Cao Xuân Huy, NXB Văn Hoc, Hà Nội 1994. (2) Le Minh Khai, “Discourses, Vietnamese Intellectuals and the Changing History of the Sino-Vietnamese Relationship”, Le Minh Khai’s SEAsian Blog, 18 jun 10. (3) Trần Quang Đức, “Ngàn Năm Áo Mũ”, NXB Nhã Nam, 2013, trang 353-4. (4) Tạ Quang Phát phiên dịch, TSSĐ, số 13, 1969- Kỷ niệm chiến thắng Đống Đa.. Tài liêu nay được trích dẫn từ các số Nam Phong, số 177, phụ truiong Hán Văn, 1932, trang 20 và Nam Phong, 1926, phụ truong phàn Hán Văn, số 11. (5) Dịch giả Hồ Bạch Thảo, Thanh Thục Lục | Sử liệu chiến tranh Thanh – Tây Sơn. (6) Hồ Bạch Thảo, Ibid., trang Phàm Lệ. (7) Hoàng Lê Nhât Thống Chí do nhiều người viết mà hiện nay bản gốc không còn. Còn lại chỉ là những bản viết tay. (8) Trần Ngọc Ninh, “Tuyết Xưa”, nxb Khởi Hành. (9) Trần Ngọc Ninh, Ibid., trang 281. (10) Trần Ngọc Ninh, Ibid, trang 103. (11) Lịch sử Việt Nam, tập II, trang 14. (12) Trần Ngọc Ninh, Ibid., trang 187. (13) Trần Ngọc Ninh, Ibid., trang 196. (14) Vũ Ngự Chiêu, “Nhìn lại chiến thắng xuân Kỷ Dậu”, Hợp Lưu, Hoàng Đỗ Vũ, ngày 5-2- 2015, Họp Lưu (15) Đặng Phương Nghi, Triều đại Tây Sơn dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương, Tập San Sử Địa, số 9-10, Số đặc biệt Xuân Mậu Thân, 1968, trang 143 (16) Nguyễn Nhã, TSSĐ số 13, Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu, 1968 (17) Lê Quý Đôn, bài tựa Đại Việt Thông sử, NXB Khoa Học, Xã Hội, Hà Nội, 1978. (18) Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ, “Việt sử tiêu án” (1775), Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu dịch (1960), NXB Văn Sử (1991), Công Đệ, Doãn Vuợng, Lê Bắc chuyển sang ấn bản diện tử (2001). Trang 4. (19) Bài viết có thể chưa được đăng trên báo, nhưng có gửi cho một số bạn hữu của ông. Tháng 2-2005 (20) “Asian Elephant, Elephas maximus”July 2008, http://library.sandiegozoo.org/ và Robin C. Dunkin, Dinah Wilson, Nicolas Way, Kari Johnson, Terrie M. Williams, “Climate influences thermal balance and water use in African and Asian elephants: physiology can predict drivers of elephant distribution”. Journal of Experimental Biology 2013 216: 2939-2952; doi: 10.1242/jeb.080218 (21) Trần Gia Phụng, “Nhà Tây Sơn”, NXB Non Nước, Toronto 2005, Trang 127-131.

 Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

 

20 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 39669)
thiếu mặt Mai Trọng Ngãi nên ai cũng ngần ngại và từ chối xin dành lại năm sau. “Rượu ngon không có bạn hiền” cũng như sinh hoạt Ngô Quyền không có tiếng cười vui.
20 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 44980)
Mùa Xuân 2014 Giáp Ngọ lại sắp trở về cùng với nàng tiên áo trắng. Xin mời quí anh chị em cùng thân hữu hãy thưởng thức những mùa hoa cũ để đón chào ngày mới.
14 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 38228)
Này các bạn, quý vị vừa học được một bài học… Bất kể những gì tôi vừa làm với tờ giấy bạc này, quý vị vẫn muốn nó như thường, bởi vì giá trị của nó không thay đổi, nó vẫn là 20 đô la.
13 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 52619)
Hứa thì hứa với lòng mình nhưng rồi viết vẫn viết khác và lời hứa bay đi, café, mưa và căn nhà ngói đỏ lúc nào tôi cũng thấy như ẩn như hiện trong các truyện ngắn và truyện dài của Nguyễn-Xuân Hoàng.
13 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 38451)
Đi vào “Căn nhà ngói đỏ” là đi vào một Việt Nam đầy binh đao, ly tán, ngậm ngùi, hấp hối. Ở lại “Căn nhà ngói đỏ” là đối mặt với một quá khứ...
09 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 38543)
(*Cảm tác từ bài thơ TẠ TÌNH của Tưởng Dung... em tặng chị...! )... xin hãy chỉ nốt cho em, bài học cách nào để uống viên thuốc thời gian, cho em buông lơi được, cho em quên được, cho em chết mất được một nửa trái tim mình đã thuộc về anh...
07 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 46155)
Tình của Cu Bưởi lại khác, vẫn treo lưng lửng giữa chừng, kết thúc cũng được, gọi tồn tại cũng chẳng sai. Cái di chứng của mối tình đầu còn ảnh hưởng anh ta đến tận bây giờ.
06 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 42954)
*Xin bấm vào phần audio bên dưới để thưởng thức: GIÒNG SÔNG TÔI VÀ EM - Nhạc và Lời Phạm Chinh Đông - Tác giả trình bày
06 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 48996)
(lan man theo “Không Còn…” của Tưởng Dung ... Nghi ôm đầu gục xuống bàn. Hai vai nàng rung lên. Âm thanh của những tiếng nấc như tiếng thì thầm, tắc nghẹn:” bóng em tìm bóng anh đến cuối đời, có gặp?”
05 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 43378)
Tôi hay tin trễ, Thầy Trần Văn Tài qua đời không lâu, sau ngày tôi tình cờ gặp lại Thầy ở Trảng Bom. Những dòng chữ muộn màng này, thay nén nhang thơm tôi và các bạn lớp 10B4 năm xưa kính nhớ Thầy.
01 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 48730)
* Xin đính chính đây không phải là bài viết của Giáo sư, Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ mà là của một tác giả khác cùng tên. Xin thành thật cáo lỗi cùng tác giả và Thầy Nguyễn Xuân Hoàng. (Ban Điều Hành WebNQ)
30 Tháng Mười Một 2013(Xem: 53352)
Viết về anh cũng như tôi đang nhớ tới những kỷ niệm đầu tiên của tôi với cây bút. Bài viết ngắn này cũng ngắn ngủi như mối giao tình (chưa hề gặp mặt nhau) của hai anh em mình...
29 Tháng Mười Một 2013(Xem: 46463)
Con gái Ba đây chỉ muốn nói với Ba lòng biết ơn Ba đã nuôi dạy con khôn lớn, đã yêu con bằng tình yêu không điều kiện, đã để lại cho con một di sản tinh thần vô cùng quí báu.
29 Tháng Mười Một 2013(Xem: 38655)
Lễ Tạ Ơn là một dịp để gia đình họp mặt, những người đi làm xa nhà đều trông đợi vào ngày này để cùng về nhà xum họp, quây quần bên bữa cơm gia đình.
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 40730)
Tôi lặng lẽ dọn dẹp nhà cửa từng ngõ ngách... tôi sắp xếp lại đời tôi từng góc cạnh... và bắt gặp mình vẫn miên man mong nhớ, mân mê từng mảnh kỷ niệm… thật chẳng muốn buông tay... thật không nỡ rời xa.
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50619)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
15 Tháng Mười Một 2013(Xem: 41466)
Nếu tôi phải làm một tuyển tập những truyện ngắn hay nhất ở hải ngoại sau năm 1975, trong số các tác phẩm được chọn, nhất định phải có truyện ngắn “Tự truyện một người vô tích sự” của Nguyễn Xuân Hoàng.
15 Tháng Mười Một 2013(Xem: 53891)
Nghe Hoàng đau, nhóm anh em báo Người Việt nóng lòng muốn đi thăm. Chuyến đi đã được thực hiện ngày thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013, chúng tôi sáu người từ quận Cam đi San Jose lúc 6 giờ sáng, phải đi sớm vì còn phải lái xe về trong ngày.
14 Tháng Mười Một 2013(Xem: 55629)
Hàng chữ nhảy nhảy, bay bay, múa múa, nhợt nhạt rồi nhòe nhòe dần dần. Tôi lẩm bà lẩm bẩm "Trí sún ơi! Tao ngàn lần xin lỗi, xin lỗi và cám ơn mày".
14 Tháng Mười Một 2013(Xem: 39674)
Riêng Nguyễn Thế Hùng, đây là lần gặp lại sau 43 năm, khi bè bạn rời ghế học của trường trung học Ngô Quyền, để bước chân vào giảng đường đại học.