Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Gs Vĩnh Phúc - Nghĩa Sư Sinh.

09 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 24267)
Gs Vĩnh Phúc - Nghĩa Sư Sinh.

 

blank

Nghĩa Sư Sinh

 

11kvinhp-content

Vĩnh Phúc

 

Sự cư xử giản dị nhưng đầy tình chân thật của em là một món quà vô giá mà không dễ gì tôi nhận được một lần thứ nhì trong đời.

 

 Trong quãng đời làm nghề dạy học của tôi bắt đầu từ niên học 1962 - 63 cho tới 77 - 78, có lắm kỷ niệm cả vui lẫn buồn. Nhưng có lẽ vui nhiều hơn buồn. Thấy học trò chăm chỉ, chịu khó chú ý theo dõi lời giảng, cũng đủ để ông thầy cảm thấy vui rồi. Lại có khi những cách đùa nghịch tinh quái nhưng khá thông minh và vẫn trong vòng lễ giáo của đám môn sinh cũng làm cho thầy muốn bật cười, tuy ngoài mặt vẫn phải làm nghiêm, vì theo như lời một nữ đồng nghiệp “nếu không thì chúng nó sẽ múa lân trước mặt mình!”. Kết quả tốt đẹp vào cuối niên học với nhiều học sinh được lên lớp hay thi đậu, hoặc thấy có những em xuất sắc được học bổng du học, là những dịp nhà giáo mang tâm trạng một nông gia hả hê ngồi nhìn kết quả vụ gặt “trúng mùa” sau những tháng ngày đổ mồ hôi trên luống cầy. Niềm vui cũng có thể chỉ giản dị đến từ một lời chào hỏi của một học trò đã rời trường lâu năm và trưởng thành mà còn nhìn ra thầy cũ. Lão lái đò nào mà chẳng cảm thấy mát lòng vì lời chào của một khách qua sông từ nhiều năm trước trên bến xưa, nay ngẫu nhiên gặp lại.

Có lẽ nhờ những kỷ niệm đẹp như thế mà những người đứng trước bảng đen để mưu sinh còn can đảm tiếp tục theo đuổi cái nghề vốn bị coi là bạc bẽo. Nhất là vào thời kỳ nhố nhăng với nửa triệu quân Mỹ đổ sang Việt Nam khiến nẩy sinh nhiều nghề giúp người ta kiếm tiền rất dễ dàng, và trong xã hội bỗng xuất hiện lắm giai cấp mới, túi lúc nào cũng rủng rỉnh đô-la, trong khi cuộc sống của nhà giáo càng sa sút vì đồng lương khiêm nhường trong tình trạng lạm phát.

 

blank

 

Riêng với tôi, trong số những học trò cũ đã đem lại cho tôi những kỷ niệm vô cùng xúc động mà tôi không bao giờ quên, có một nữ sinh trường Ngô Quyền. Nhất là sự kiện đó lại diễn ra đúng vào thời gian tôi đang gặp nhiều dao động tinh thần. Đó là lúc tôi vừa mới chân ướt chân ráo lên trại đảo Pulo Bidong, Malaysia, đầu năm 1979, sau những năm tháng chứng kiến nhiều cảnh đổi đời, phải đối phó với những đe dọa rình rập, rồi lại vừa mới rũ tay xóa hết, bỏ lại sau lưng tài sản, họ hàng, người thân, mồ mả ông cha và quê hương, để ra đi trong nỗi lo sợ phập phồng chỉ với mục đích tìm tự do.

 Sau khóa học tập chính trị dành cho giáo viên (chữ của chế độ mới chỉ giáo sư trung học miền Nam) ở trường trung học Pétrus Ký mùa hè năm 1978, tôi giả vờ bệnh với y chứng của một bác sĩ quen để xin nghỉ dạy - bỏ nghề hẳn - với mục đích được rảnh tay mà tìm đường vượt biên. Họ cầm chân tôi bằng cách cho nghỉ 3 tháng mà vẫn lãnh lương. Sau đó nếu bệnh chưa giảm, lại nghỉ tiếp 3 tháng nữa. Nhưng may mắn là ngay trong 3 tháng đầu, tôi đã đem được gia đình đi thoát.

Sau chỉ có 3 ngày 4 đêm, chúng tôi - cả thẩy 265 người trên con thuyền gỗ máy 3 bloc xanh dài 18 mét, rộng 3,2 mét - quá may mắn đến được Mã Lai (Malaysia) an toàn không một biến cố nào trên biển. Sau hơn một tháng được chính quyền Malaysia cho sống tạm bợ và thiếu thốn trong một nhà kho mái tôn dùng để sửa chữa tầu ở thành phố Trengganu ven biển, chúng tôi được chuyển sang đảo Pulo Bidong khoảng cuối tháng 3 năm 79.

 

blank

 

 Ngay đêm đầu đặt chân lên Pulo Bidong, 265 người, từ một bé gái sơ sinh tới ông cụ 94 tuổi, phải tập trung lại, nằm ngủ trên bãi cát ven biển, để chờ sáng hôm sau đi tìm địa điểm làm lều ở rải rác trên các bãi biển hay sườn núi. Theo thủ tục và điều luật của trại đảo, khi có thuyền tỵ nạn mới tới, các thanh niên đã đến ở đảo trước và tình nguyện làm việc trong Ban An Ninh Trật Tự đảo ra đón. Họ đòi đại diện tầu lập một danh sách người của tầu mình để tiện việc kiểm soát. Với tư cách đại diện tầu, tôi phải làm việc này. Một thanh niên trưởng toán trật tự gọi lớn:

-- Đại diện tầu đâu ? Lập danh sách người trên tầu ngay đi.

Tôi tiến đến chỗ mấy thanh niên Ban Trật Tự đứng và xin họ mấy tờ giấy trắng để lập danh sách. Anh ta hỏi tiếp:

-- Đại diện tầu tên gì?

-- Kiều Vĩnh Phúc.

Bỗng anh ta rọi đèn pin vào mặt tôi, rồi la lên:

-- Trời ơi, thầy !

 Rồi hình như quá mừng, anh ta quên mất hoàn cảnh lúc đó xung quanh tối om không nhìn rõ mặt nhau, nói liến thoắng :

-- Trời ơi, thầy ! Thầy còn nhớ em không? Thầy ơi, có nhiều học trò của thầy ở đây lắm. Để em gọi tụi nó đến chào thầy. Chắc tụi nó mừng lắm đấy! Mà thầy mệt lắm hả? Thầy chờ em chút nhé.

Không đợi tôi trả lời, anh ta chạy biến đi ngay vào bóng tối. Một lát sau trở lại với gói thuốc lá 555. Tôi đang ngồi tạm trên một bọc quần áo để viết danh sách, thấy vậy cảm động lắm, nhưng trả lời:

-- Thầy không hút thuốc. Em cho thầy xin một lon Coca thì tốt, vì thầy khát lắm.

Tôi thều thào nói, vì quá mệt sau những ngày thiếu ăn thiếu uống ở Trengganu và sau hơn 3 tiếng đồng hồ bị sóng nhồi trên con thuyền từ đất liền ra tới đảo.

Sau vài ngụm Coca, tôi tỉnh hẳn để đón nhận lời chào hỏi của mấy thanh niên nhận là học trò cũ ở cả trường công lẫn các trường tư ở Sài Gòn. Nhưng quả thật tôi không nhớ được tên ai cả, vì lúc đó ký ức và sự linh mẫn gần như thui chột hẳn sau những đe dọa, khủng bố, rồi lo sợ trên đường vượt biển. Vả lại, chính đám thanh niên này cũng thay đổi nhiều. Từ những cậu thư sinh ngày nào, nay họ đã biến thành những thanh niên gân guốc, đen sạm vì nắng cháy Mã Lai, tóc tai để dài chấm vai, trông chẳng khác gì người bản xứ.

 

blank

 

Sáng sớm hôm sau, lại có một nhóm chừng dăm sáu cô cậu tới mừng tôi đến được đất tự do. Tất cả đều mừng mừng tủi tủi, tíu tít hỏi thăm về người này người kia xem ai còn ai mất, ai vẫn bị kẹt lại và ai đã đi thoát, trong đó có cả những thầy cô cũ và bạn hữu của họ. Đến lúc này tôi đã nhớ lại được tên một số người. Nguyên, một cựu học sinh nhà ở Chợ Lớn, nói:

-- Thầy yên tâm . Để rồi chúng em lên rừng chặt cây về làm lều cho thầy. Sẽ chặt cả những cây nhỏ để làm chõng luôn, lấy chỗ nằm.

Hôm sau, với 200 đồng Mã Lai, tôi sang được một mảnh đất dốc trên sườn đồi diện tích bằng cỡ 3 chiếc chiếu. Đất này do những người tỵ nạn lên đảo trước “xí phần” rồi sang lại cho người lên sau - những con chó đói ăn thịt lẫn nhau! May mắn mua được một tấm nylon loại dùng để che lều, nhưng chưa có lều nên gia đình tôi trải xuống đất một nửa, rồi hai vợ chồng cùng 3 đứa con nhỏ dùng nửa còn lại đắp ụp lên trên mà ngủ về đêm, cũng tạm che được sương gió. Phải đốt đống lửa bên cạnh để sưởi ấm và ngăn cho rắn rết khỏi đến gần. Thế mà thỉnh thoảng nửa đêm đang ngủ lại phải chồm bật dậy vì bị cóc nhái hay chuột chạy chui vào người. Còn muỗi thì đành chịu, vì chưa giăng được mùng.

Một buổi tối, tôi đang ngồi sưởi bên đống lửa, bỗng một thiếu nữ xuất hiện. Cô rụt rè hỏi:

-- Thưa thầy, có phải thầy là thầy Kiều Vĩnh Phúc, dạy trường Ngô Quyền trước kia?

-- Phải. Cô có việc chi?

-- Thầy không nhớ con à? Tên con là Hồng, con ông Hoàng Đôn Trịnh ...(1)

-- A! Thế thì tôi nhớ rồi. Em nói tên và là con ông Trịnh thì tôi mới nhớ ra. Nếu không thì đành chịu. Mà em đi với ai? Ông Trịnh có đi không? Lên đây lâu chưa?

-- Thưa thầy, con đi với chồng con. Con lập gia đình rồi. Còn ba má con vẫn ở Việt Nam. Con ở lều gần đây, trên lối đi ra hội trường. Mấy bữa trước con thấy thầy mới lên đảo đi ngang qua, nhưng còn ngờ ngợ, nên không dám nhận. Xin thầy chờ con một chút.

Rồi Hồng chạy đi. Chừng 3 phút sau em trở lại, đem theo một gói trà nhỏ bọc bằng mảnh giấy báo, một bọc mềm mềm như vải cuộn gọn lại, và nửa cái chai bia 33 cắt lấy phần trôn (2) để làm ly uống nước. Em nói:

-- Con biết thầy cô mới lên đảo chưa có gì cả, nên mang qua cái này. Đây là nửa cái chai bia do chồng con nướng dây kẽm rồi cắt, để làm ly uống nước. Con biếu thầy chút trà để thầy uống. Còn đây là mảnh dù hỏa pháo, thầy dùng tạm đắp cho các em đỡ lạnh. Trên đảo về đêm lạnh lắm.

Tôi không khách sáo, đón nhận gói trà nhỏ và “cái ly”, nhưng trả lại Hồng tấm vải dù, vì nghĩ rằng trên đường tỵ nạn cái này quí lắm. Gia đình em cũng cần có chăn đắp. Nhưng em cho biết nhà còn cái khác đủ cho hai vợ chồng. Tấm này dư, nên đem biếu tôi dùng cho đàn con nhỏ đắp chống lạnh. Tôi cảm động quá và không từ chối nữa vì biết rằng đó là tấm dù dư của vợ chồng Hồng, trong khi các con tôi rất cần chăn đắp, vì chúng tôi ra đi với hai bàn tay trắng, không dám đem theo bất cứ cái gì, sợ bị lộ. Tôi mời em ngồi xuống để thầy trò hàn huyên, hỏi thăm em về gia đình, về những vị đồng nghiệp cũ ở trường Ngô Quyền, nơi tôi phục vụ cho tới khoảng năm 72 mới đổi về Sài Gòn, và cũng hỏi thăm về các bạn cùng trang lứa của em mà tôi còn nhớ được. Nhưng với hoàn cảnh bưng bít tin tức ở Việt Nam hồi đó, em cũng không biết được mấy.

 

blank

 

Khoảng 2 tháng sau, bỗng một hôm Hồng lại đến lều của tôi, mang theo một cái xoong bằng nhôm đường kính khoảng 30 cm, đã méo mó. Em cho biết được nhận cho đi định cư ở Tây Đức. Trước khi đi em sang từ giã tôi, và nhân tiện “gia tài” của em còn lại cái xoong đã móp, nên biếu cô để dùng. Lại một lần nữa, chúng tôi vui vẻ nhận ngay. Hiển nhiên, là người tỵ nạn, cả hai thầy trò đều hiểu giá trị của cái xoong cũ móp này. Từ nay em không cần tới nó nữa, nhưng nhờ có nó, nhà tôi đã làm được bánh mì “dã chiến” cho cả nhà ăn sáng. Ngoài ra nó còn nhiều công dụng khác.

 Tôi tiếp tục ở lại đảo thêm mấy tháng nữa thì đài BBC đón tôi sang Luân Đôn làm việc vào đúng thời gian chỉ còn 2 tuần lễ nữa thì phái đoàn Mỹ bốc gia đình tôi đi. Rất tiếc là từ khi sang Luân Đôn, công việc lu bu quá nên không có dịp tìm hiểu xem Hồng định cư ở tỉnh nào bên Đức. Sau này hỏi thăm thì được biết em đã bảo lãnh cho ông bà Hoàng Đôn Trịnh sang Đức rồi (?).

 Trong thời gian đi tỵ nạn, tôi có nhiều kỷ niệm khá cảm động, nhưng không kỷ niệm nào đáng nhớ như lần gặp gỡ cô học trò cũ trên trại đảo. Sự cư xử giản dị nhưng đầy tình chân thật của em là một món quà vô giá mà không dễ gì tôi nhận được một lần thứ nhì trong đời. Một dúm trà, mảnh vải dù, cái xoong móp, và chai bia cắt ngang để làm ly, những vật tầm thường mà người ta sẵn sàng quăng đi không ai thèm lượm vào những lúc khác, nhưng lại rất quí trong hoàn cảnh tỵ nạn tay trắng của thầy trò chúng tôi hồi đó. Tuy nhiên, chính tấm lòng chân thành của cô học trò đã trưởng thành gói ghém trong cử chỉ rụt rè tìm đến người thầy cũ hom hem tiều tụy mà đưa biếu những thứ này, mới thực sự là vô giá. Hành động của em cũng như việc những nam sinh đã học với tôi ở Sài Gòn tự nguyện dựng lều giúp tôi, ngoài sự biểu lộ tấm lòng quí hóa của người học trò đối với ông thầy cũ, còn bao hàm một chia sẻ, một an ủi đầy tình người trong hoàn cảnh hoạn nạn. Đã 25 năm trôi qua, nhưng bây giờ mỗi khi nhắc lại kỷ niệm này tôi vẫn không khỏi thấy lòng bồi hồi xúc động.

 

Chú thích: (1) Ông Hoàng Đôn Trịnh là một nhà giáo hiền lành đôn hậu. Ông làm Phụ Tá Giám Học cho ông Phạm Khắc Thành một thời gian. Khi ông Thành lên Hiệu Trưởng thì ông Trịnh lên Giám Học. Em Hoàng Thị Xuân Hồng học tôi lớp Đệ Tứ, hình như niên khóa 64-65 (?).

 

 

14 Tháng Chín 2010(Xem: 100696)
Lâu lắm rồi không về lại Biên Hòa Nghe hương bưởi ngạt ngào trong nắng sớm Có dễ hơn ba mươi năm biền biệt Kẻ ở người đi rồi chẳng khác không quen.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 108559)
Có đâu ngàn cánh hạc Bay mãi về một phương Có ai hồn luân lạc Đồng vọng tiếng vô thường
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42736)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 43986)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
30 Tháng Tám 2010(Xem: 100713)
Người đàn ông với đôi mắt đen, hun hút mà ngày xưa mỗi khi nhìn vào nàng cảm thấy như có một vết dao lướt qua tim...
30 Tháng Tám 2010(Xem: 44948)
Ôi em đã về rồi! trường cũ rêu phong kín nửa đời. Dung đã về rồi! Chiều áo xua vạt áo bay. Thôi đi mắt lệ buồn hãy đếm mưa khuya đổ thật muộn để bóng ai còn bước trên đường vắng trơn. *Xin bấm vào phần audio bên dưới để thưởng thức: DUNG VỀ- Nhạc và lời: Đào Lê Văn - Ca sĩ trình bày: Minh Quang
28 Tháng Tám 2010(Xem: 44198)
Sóng đã về từng cơn sóng ru bờ xa vỗ về. Còn lang thang tìm dĩ vãng bên hàng dương liễu cũ. Mình tôi đi tìm con phố quen lặng im hững hờ tà áo bay bao chiều
26 Tháng Tám 2010(Xem: 118420)
Thượng tuần tháng giêng trăng dẫn mẹ ra đi Đóa hồng đỏ trên ngực con hóa thành hoa trắng Vu Lan nầy trăng về trong mưa xám Trăng trở lại một mình, hoa vẫn trắng màu tang
26 Tháng Tám 2010(Xem: 103402)
Mẹ già nằm thiêm thiếp Đôi mắt khép hững hờ Mẹ tôi như thế đó Còm cõi trong hư vô
26 Tháng Tám 2010(Xem: 102076)
Em gửi tặng anh Bài Ca Dâng Mẹ Thêm một mùa Thu nữa vắng xa nhau Hai chúng ta, dẫu tóc bạc mái đầu Lòng thương mẹ không bao giờ phai nhạt
26 Tháng Tám 2010(Xem: 96667)
Mẹ nhớ con, ngồi chờ nơi khung cửa Con nhớ mẹ, luôn trông ngóng mỏi mòn Mơ cả nhà quây quần bên bếp lửa Cháy bập bùng, sưởi ấm trái tim con…
26 Tháng Tám 2010(Xem: 98227)
Trong những giông bão của cuộc đời, nơi trú an toàn nhất vẫn là vòng tay của mẹ.
26 Tháng Tám 2010(Xem: 43984)
* Tiêu đề: Tình mẹ * Artist: Ngô Càn Chiếu * Composer: Ngô Càn Chiếu * Harmonist: Ngô Càn Chiếu * Lyricist: Ngô Càn Chiếu * Length: 5:34 minutes (10.2 MB) * Format: Stereo 44kHz 256Kbps (CBR)
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39369)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
07 Tháng Tám 2010(Xem: 108460)
Buổi ra mắt quyển sách “Hai Mươi Năm Miền Nam 1955-1975” của Thầy Nguyễn Văn Lục đã được giới thiệu và phổ biến rộng rãi...
04 Tháng Tám 2010(Xem: 87932)
Thế rồi tình cứ vu vơ Chèo khua thương nhớ quanh bờ chiêm bao Biên Hòa ngày ấy xôn xao Tân Triều hương bưởi ngọt ngào lòng thơm
04 Tháng Tám 2010(Xem: 86048)
Tháng Tám bên nầy vẫn không mưa Ở đây buồn nhớ hướng quê xưa Nhớ chuyện tình yêu ngày tháng cũ Còn trong ký ức chẳng phai mờ
31 Tháng Bảy 2010(Xem: 21689)
Những cây bách lớn nhất được phát hiện gần thành phố Oaxaca, Mexico . Cây bách to nhất có chu vi gần 50m, khiến người ta vẫn thường đùa rằng, đừng ôm cây, hãy để cây tự ôm bạn.
30 Tháng Bảy 2010(Xem: 96483)
Một nhóm bạn bè được tin vào tối thứ sáu 23 tháng 7 năm 2010 sẽ tiếp đón anh chị Huỳnh văn Tươi khóa 6 Ngô Quyền về thăm bạn bè từ Houston Texas.
30 Tháng Bảy 2010(Xem: 93997)
... lần đầu tiên đại diện gia đình Ngô Quyền được mời tham dự trong ngày họp mặt Gia Long tại nhà hàng Paracel Seafood vào đêm 18 tháng 7 năm 2010.
30 Tháng Bảy 2010(Xem: 35429)
Tiêu đề: Hạ tím Artist: Ngô Càn Chiếu Composer: Ngô Càn Chiếu Harmonist: Ngô Càn Chiếu Lyricist: Ngô Càn Chiếu Length: 3:55 minutes (3.59 MB) Format: Stereo 44kHz 128Kbps (CBR)
24 Tháng Bảy 2010(Xem: 96053)
Dòng Đồng Nai những mùa Hè vui thú Áo trắng Ngô Quyền mơ ước Sông Seine Mộng không thành, chinh chiến đã cách ngăn Sông Seine ơi!. Nhắc chi chuyện tình buồn.
24 Tháng Bảy 2010(Xem: 35685)
Chắc là có một lúc nào đó bình tâm, mỗi người chúng ta đều tự hỏi không biết mình đã nhận được bao nhiêu chữ từ các Thầy Cô trong suốt những năm dài cắp sách.
24 Tháng Bảy 2010(Xem: 95628)
Bao mùa thương nhớ anh về đâu? Nhạc buồn nức nở tiếng ve sầu Phượng đỏ bây giờ màu tím thẫm Bao mùa phượng nở vẫn tìm nhau.
13 Tháng Bảy 2010(Xem: 97107)
Một tuần đã đi qua, nhưng dư âm ngày cũ, của Ngày Họp Mặt Ngô Quyền, của càri dê ở nhà Hóa vẫn còn đâu đây.
13 Tháng Bảy 2010(Xem: 95996)
Bài viết nầy của tôi như là một lời tạ lỗi gửi đến những người bạn đã quen thân từ bao năm nay cũng như những người bạn mới quen. Tạ lỗi vì tôi đã hứa với các bạn mà không thực hiện được lời hứa, tạ lỗi vì đã bỏ mất cơ hội để nói lời “chia tay”, “tạm biệt”, “good bye my friends” hay “Au revoir mon ami”.
12 Tháng Bảy 2010(Xem: 95377)
Gặp lại Võ Hải Vương, Đặng Văn Toản, Đỗ Cao Thông, Hóa và nhiều bạn cũ của lớp 1968, lòng tôi đầy những xúc cảm nghẹn ngào. Những hình ảnh của trường Ngô Quyền năm xưa bỗng đâu lại hiện về. Những kỷ niệm của ngày tháng cũ tưởng đã yên nghĩ trong một quá khứ xa xôi nào của tiềm thức.
12 Tháng Bảy 2010(Xem: 45369)
Trong một buổi sáng đầu tháng Bảy đẹp trời và ấm cúng, cùng dịp lễ Độc Lập Hoa Kỳ, ngày họp mặt truyền thống kỳ 9 của hội Ái Hữu Chs Ngô Quyền, Biên Hòa (3 tháng 7, 2010) đã tưng bừng khai diễn với gần 200 thầy cô và cựu học sinh NQ về tham dự