Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Gs Vĩnh Phúc - Nghĩa Sư Sinh.

09 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 24388)
Gs Vĩnh Phúc - Nghĩa Sư Sinh.

 

blank

Nghĩa Sư Sinh

 

11kvinhp-content

Vĩnh Phúc

 

Sự cư xử giản dị nhưng đầy tình chân thật của em là một món quà vô giá mà không dễ gì tôi nhận được một lần thứ nhì trong đời.

 

 Trong quãng đời làm nghề dạy học của tôi bắt đầu từ niên học 1962 - 63 cho tới 77 - 78, có lắm kỷ niệm cả vui lẫn buồn. Nhưng có lẽ vui nhiều hơn buồn. Thấy học trò chăm chỉ, chịu khó chú ý theo dõi lời giảng, cũng đủ để ông thầy cảm thấy vui rồi. Lại có khi những cách đùa nghịch tinh quái nhưng khá thông minh và vẫn trong vòng lễ giáo của đám môn sinh cũng làm cho thầy muốn bật cười, tuy ngoài mặt vẫn phải làm nghiêm, vì theo như lời một nữ đồng nghiệp “nếu không thì chúng nó sẽ múa lân trước mặt mình!”. Kết quả tốt đẹp vào cuối niên học với nhiều học sinh được lên lớp hay thi đậu, hoặc thấy có những em xuất sắc được học bổng du học, là những dịp nhà giáo mang tâm trạng một nông gia hả hê ngồi nhìn kết quả vụ gặt “trúng mùa” sau những tháng ngày đổ mồ hôi trên luống cầy. Niềm vui cũng có thể chỉ giản dị đến từ một lời chào hỏi của một học trò đã rời trường lâu năm và trưởng thành mà còn nhìn ra thầy cũ. Lão lái đò nào mà chẳng cảm thấy mát lòng vì lời chào của một khách qua sông từ nhiều năm trước trên bến xưa, nay ngẫu nhiên gặp lại.

Có lẽ nhờ những kỷ niệm đẹp như thế mà những người đứng trước bảng đen để mưu sinh còn can đảm tiếp tục theo đuổi cái nghề vốn bị coi là bạc bẽo. Nhất là vào thời kỳ nhố nhăng với nửa triệu quân Mỹ đổ sang Việt Nam khiến nẩy sinh nhiều nghề giúp người ta kiếm tiền rất dễ dàng, và trong xã hội bỗng xuất hiện lắm giai cấp mới, túi lúc nào cũng rủng rỉnh đô-la, trong khi cuộc sống của nhà giáo càng sa sút vì đồng lương khiêm nhường trong tình trạng lạm phát.

 

blank

 

Riêng với tôi, trong số những học trò cũ đã đem lại cho tôi những kỷ niệm vô cùng xúc động mà tôi không bao giờ quên, có một nữ sinh trường Ngô Quyền. Nhất là sự kiện đó lại diễn ra đúng vào thời gian tôi đang gặp nhiều dao động tinh thần. Đó là lúc tôi vừa mới chân ướt chân ráo lên trại đảo Pulo Bidong, Malaysia, đầu năm 1979, sau những năm tháng chứng kiến nhiều cảnh đổi đời, phải đối phó với những đe dọa rình rập, rồi lại vừa mới rũ tay xóa hết, bỏ lại sau lưng tài sản, họ hàng, người thân, mồ mả ông cha và quê hương, để ra đi trong nỗi lo sợ phập phồng chỉ với mục đích tìm tự do.

 Sau khóa học tập chính trị dành cho giáo viên (chữ của chế độ mới chỉ giáo sư trung học miền Nam) ở trường trung học Pétrus Ký mùa hè năm 1978, tôi giả vờ bệnh với y chứng của một bác sĩ quen để xin nghỉ dạy - bỏ nghề hẳn - với mục đích được rảnh tay mà tìm đường vượt biên. Họ cầm chân tôi bằng cách cho nghỉ 3 tháng mà vẫn lãnh lương. Sau đó nếu bệnh chưa giảm, lại nghỉ tiếp 3 tháng nữa. Nhưng may mắn là ngay trong 3 tháng đầu, tôi đã đem được gia đình đi thoát.

Sau chỉ có 3 ngày 4 đêm, chúng tôi - cả thẩy 265 người trên con thuyền gỗ máy 3 bloc xanh dài 18 mét, rộng 3,2 mét - quá may mắn đến được Mã Lai (Malaysia) an toàn không một biến cố nào trên biển. Sau hơn một tháng được chính quyền Malaysia cho sống tạm bợ và thiếu thốn trong một nhà kho mái tôn dùng để sửa chữa tầu ở thành phố Trengganu ven biển, chúng tôi được chuyển sang đảo Pulo Bidong khoảng cuối tháng 3 năm 79.

 

blank

 

 Ngay đêm đầu đặt chân lên Pulo Bidong, 265 người, từ một bé gái sơ sinh tới ông cụ 94 tuổi, phải tập trung lại, nằm ngủ trên bãi cát ven biển, để chờ sáng hôm sau đi tìm địa điểm làm lều ở rải rác trên các bãi biển hay sườn núi. Theo thủ tục và điều luật của trại đảo, khi có thuyền tỵ nạn mới tới, các thanh niên đã đến ở đảo trước và tình nguyện làm việc trong Ban An Ninh Trật Tự đảo ra đón. Họ đòi đại diện tầu lập một danh sách người của tầu mình để tiện việc kiểm soát. Với tư cách đại diện tầu, tôi phải làm việc này. Một thanh niên trưởng toán trật tự gọi lớn:

-- Đại diện tầu đâu ? Lập danh sách người trên tầu ngay đi.

Tôi tiến đến chỗ mấy thanh niên Ban Trật Tự đứng và xin họ mấy tờ giấy trắng để lập danh sách. Anh ta hỏi tiếp:

-- Đại diện tầu tên gì?

-- Kiều Vĩnh Phúc.

Bỗng anh ta rọi đèn pin vào mặt tôi, rồi la lên:

-- Trời ơi, thầy !

 Rồi hình như quá mừng, anh ta quên mất hoàn cảnh lúc đó xung quanh tối om không nhìn rõ mặt nhau, nói liến thoắng :

-- Trời ơi, thầy ! Thầy còn nhớ em không? Thầy ơi, có nhiều học trò của thầy ở đây lắm. Để em gọi tụi nó đến chào thầy. Chắc tụi nó mừng lắm đấy! Mà thầy mệt lắm hả? Thầy chờ em chút nhé.

Không đợi tôi trả lời, anh ta chạy biến đi ngay vào bóng tối. Một lát sau trở lại với gói thuốc lá 555. Tôi đang ngồi tạm trên một bọc quần áo để viết danh sách, thấy vậy cảm động lắm, nhưng trả lời:

-- Thầy không hút thuốc. Em cho thầy xin một lon Coca thì tốt, vì thầy khát lắm.

Tôi thều thào nói, vì quá mệt sau những ngày thiếu ăn thiếu uống ở Trengganu và sau hơn 3 tiếng đồng hồ bị sóng nhồi trên con thuyền từ đất liền ra tới đảo.

Sau vài ngụm Coca, tôi tỉnh hẳn để đón nhận lời chào hỏi của mấy thanh niên nhận là học trò cũ ở cả trường công lẫn các trường tư ở Sài Gòn. Nhưng quả thật tôi không nhớ được tên ai cả, vì lúc đó ký ức và sự linh mẫn gần như thui chột hẳn sau những đe dọa, khủng bố, rồi lo sợ trên đường vượt biển. Vả lại, chính đám thanh niên này cũng thay đổi nhiều. Từ những cậu thư sinh ngày nào, nay họ đã biến thành những thanh niên gân guốc, đen sạm vì nắng cháy Mã Lai, tóc tai để dài chấm vai, trông chẳng khác gì người bản xứ.

 

blank

 

Sáng sớm hôm sau, lại có một nhóm chừng dăm sáu cô cậu tới mừng tôi đến được đất tự do. Tất cả đều mừng mừng tủi tủi, tíu tít hỏi thăm về người này người kia xem ai còn ai mất, ai vẫn bị kẹt lại và ai đã đi thoát, trong đó có cả những thầy cô cũ và bạn hữu của họ. Đến lúc này tôi đã nhớ lại được tên một số người. Nguyên, một cựu học sinh nhà ở Chợ Lớn, nói:

-- Thầy yên tâm . Để rồi chúng em lên rừng chặt cây về làm lều cho thầy. Sẽ chặt cả những cây nhỏ để làm chõng luôn, lấy chỗ nằm.

Hôm sau, với 200 đồng Mã Lai, tôi sang được một mảnh đất dốc trên sườn đồi diện tích bằng cỡ 3 chiếc chiếu. Đất này do những người tỵ nạn lên đảo trước “xí phần” rồi sang lại cho người lên sau - những con chó đói ăn thịt lẫn nhau! May mắn mua được một tấm nylon loại dùng để che lều, nhưng chưa có lều nên gia đình tôi trải xuống đất một nửa, rồi hai vợ chồng cùng 3 đứa con nhỏ dùng nửa còn lại đắp ụp lên trên mà ngủ về đêm, cũng tạm che được sương gió. Phải đốt đống lửa bên cạnh để sưởi ấm và ngăn cho rắn rết khỏi đến gần. Thế mà thỉnh thoảng nửa đêm đang ngủ lại phải chồm bật dậy vì bị cóc nhái hay chuột chạy chui vào người. Còn muỗi thì đành chịu, vì chưa giăng được mùng.

Một buổi tối, tôi đang ngồi sưởi bên đống lửa, bỗng một thiếu nữ xuất hiện. Cô rụt rè hỏi:

-- Thưa thầy, có phải thầy là thầy Kiều Vĩnh Phúc, dạy trường Ngô Quyền trước kia?

-- Phải. Cô có việc chi?

-- Thầy không nhớ con à? Tên con là Hồng, con ông Hoàng Đôn Trịnh ...(1)

-- A! Thế thì tôi nhớ rồi. Em nói tên và là con ông Trịnh thì tôi mới nhớ ra. Nếu không thì đành chịu. Mà em đi với ai? Ông Trịnh có đi không? Lên đây lâu chưa?

-- Thưa thầy, con đi với chồng con. Con lập gia đình rồi. Còn ba má con vẫn ở Việt Nam. Con ở lều gần đây, trên lối đi ra hội trường. Mấy bữa trước con thấy thầy mới lên đảo đi ngang qua, nhưng còn ngờ ngợ, nên không dám nhận. Xin thầy chờ con một chút.

Rồi Hồng chạy đi. Chừng 3 phút sau em trở lại, đem theo một gói trà nhỏ bọc bằng mảnh giấy báo, một bọc mềm mềm như vải cuộn gọn lại, và nửa cái chai bia 33 cắt lấy phần trôn (2) để làm ly uống nước. Em nói:

-- Con biết thầy cô mới lên đảo chưa có gì cả, nên mang qua cái này. Đây là nửa cái chai bia do chồng con nướng dây kẽm rồi cắt, để làm ly uống nước. Con biếu thầy chút trà để thầy uống. Còn đây là mảnh dù hỏa pháo, thầy dùng tạm đắp cho các em đỡ lạnh. Trên đảo về đêm lạnh lắm.

Tôi không khách sáo, đón nhận gói trà nhỏ và “cái ly”, nhưng trả lại Hồng tấm vải dù, vì nghĩ rằng trên đường tỵ nạn cái này quí lắm. Gia đình em cũng cần có chăn đắp. Nhưng em cho biết nhà còn cái khác đủ cho hai vợ chồng. Tấm này dư, nên đem biếu tôi dùng cho đàn con nhỏ đắp chống lạnh. Tôi cảm động quá và không từ chối nữa vì biết rằng đó là tấm dù dư của vợ chồng Hồng, trong khi các con tôi rất cần chăn đắp, vì chúng tôi ra đi với hai bàn tay trắng, không dám đem theo bất cứ cái gì, sợ bị lộ. Tôi mời em ngồi xuống để thầy trò hàn huyên, hỏi thăm em về gia đình, về những vị đồng nghiệp cũ ở trường Ngô Quyền, nơi tôi phục vụ cho tới khoảng năm 72 mới đổi về Sài Gòn, và cũng hỏi thăm về các bạn cùng trang lứa của em mà tôi còn nhớ được. Nhưng với hoàn cảnh bưng bít tin tức ở Việt Nam hồi đó, em cũng không biết được mấy.

 

blank

 

Khoảng 2 tháng sau, bỗng một hôm Hồng lại đến lều của tôi, mang theo một cái xoong bằng nhôm đường kính khoảng 30 cm, đã méo mó. Em cho biết được nhận cho đi định cư ở Tây Đức. Trước khi đi em sang từ giã tôi, và nhân tiện “gia tài” của em còn lại cái xoong đã móp, nên biếu cô để dùng. Lại một lần nữa, chúng tôi vui vẻ nhận ngay. Hiển nhiên, là người tỵ nạn, cả hai thầy trò đều hiểu giá trị của cái xoong cũ móp này. Từ nay em không cần tới nó nữa, nhưng nhờ có nó, nhà tôi đã làm được bánh mì “dã chiến” cho cả nhà ăn sáng. Ngoài ra nó còn nhiều công dụng khác.

 Tôi tiếp tục ở lại đảo thêm mấy tháng nữa thì đài BBC đón tôi sang Luân Đôn làm việc vào đúng thời gian chỉ còn 2 tuần lễ nữa thì phái đoàn Mỹ bốc gia đình tôi đi. Rất tiếc là từ khi sang Luân Đôn, công việc lu bu quá nên không có dịp tìm hiểu xem Hồng định cư ở tỉnh nào bên Đức. Sau này hỏi thăm thì được biết em đã bảo lãnh cho ông bà Hoàng Đôn Trịnh sang Đức rồi (?).

 Trong thời gian đi tỵ nạn, tôi có nhiều kỷ niệm khá cảm động, nhưng không kỷ niệm nào đáng nhớ như lần gặp gỡ cô học trò cũ trên trại đảo. Sự cư xử giản dị nhưng đầy tình chân thật của em là một món quà vô giá mà không dễ gì tôi nhận được một lần thứ nhì trong đời. Một dúm trà, mảnh vải dù, cái xoong móp, và chai bia cắt ngang để làm ly, những vật tầm thường mà người ta sẵn sàng quăng đi không ai thèm lượm vào những lúc khác, nhưng lại rất quí trong hoàn cảnh tỵ nạn tay trắng của thầy trò chúng tôi hồi đó. Tuy nhiên, chính tấm lòng chân thành của cô học trò đã trưởng thành gói ghém trong cử chỉ rụt rè tìm đến người thầy cũ hom hem tiều tụy mà đưa biếu những thứ này, mới thực sự là vô giá. Hành động của em cũng như việc những nam sinh đã học với tôi ở Sài Gòn tự nguyện dựng lều giúp tôi, ngoài sự biểu lộ tấm lòng quí hóa của người học trò đối với ông thầy cũ, còn bao hàm một chia sẻ, một an ủi đầy tình người trong hoàn cảnh hoạn nạn. Đã 25 năm trôi qua, nhưng bây giờ mỗi khi nhắc lại kỷ niệm này tôi vẫn không khỏi thấy lòng bồi hồi xúc động.

 

Chú thích: (1) Ông Hoàng Đôn Trịnh là một nhà giáo hiền lành đôn hậu. Ông làm Phụ Tá Giám Học cho ông Phạm Khắc Thành một thời gian. Khi ông Thành lên Hiệu Trưởng thì ông Trịnh lên Giám Học. Em Hoàng Thị Xuân Hồng học tôi lớp Đệ Tứ, hình như niên khóa 64-65 (?).

 

 

04 Tháng Giêng 2021(Xem: 11841)
... chợt ngưng vẽ môi điểm nụ cười mắt long lanh. sáng dường như V đang có điều bí mật thì ra “điều bí mật” luôn ẩn nấp trong tim đợi tiếng. thầm thì...
31 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 13727)
Lời tôi chỉ gió thoảng hư không Nghĩ đến tương lai cũng chạnh lòng Đàn con cháu Việt trên đất Mỹ Có còn hạnh phúc như ước mong?
31 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 12491)
Hân hoan chào đón năm mới sang Pháo mừng Xuân đến nổ rền vang 2021 nhiều hy vọng. An Bình, Hạnh Phúc tiếng cười vang.
31 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 10729)
Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là năm 2021 đến với chúng ta. Xin hãy mang đến niềm vui, an lành, hạnh phúc và thịnh vượng đến với thế giới này. CHÚC MỪNG NĂM MỚI
31 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 13887)
Năm nay với những ngày ‘cấm cung’ vì dịch Covid-19, tôi mới nghĩ đến việc ngồi xuống viết về “Tỉa Thủy Tiên” để chia sẻ với bạn bè thân hữu ở xa những kinh nghiệm và hiểu biết (có thể chỉ là căn bản) về thủy tiên.
19 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 10995)
. Mùa Giáng Sinh đã về thực sự trong căn nhà bấy lâu đã mất nụ cười. Ngày mai họ sẽ trang trí cây thông. Ánh đèn rực rỡ, thiên thần và những quả bóng nhỏ sẽ lấp lánh niềm vui hạnh phúc gia đình .
19 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 12486)
Những bông tuyết trắng nhẹ buông Là lòng của mẹ yêu thương gửi về Chúc con người lính xa quê Sống vui khỏe mạnh ngày về bình an.
17 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 11866)
Em như loài hoa dại Mọc trên đá khô cằn Vẫn vươn mình lớn dậy Thơm ngát cùng gian nan.
17 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 12409)
Thương người, nhớ nước nhớ non. Nay nơi đất mới, tuyết còn đang rơi... Đông,Tây xa cách đôi nơi Đôi dòng gửi Bạn người ơi thấu tình?
13 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 10670)
Bài hát Giáng Sinh thật hay đó không phải được phát lên ở Mỹ hay Âu Châu lạnh lẽo giữa mùa đông tuyết giá. Mà được phát ra tại quê hương tôi giữa nhiệt độ nóng nực 112 độ F Sài Gòn.
12 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 11455)
Và cuối cùng tôi yêu Trái tim nhỏ mỹ miều Xin em đừng ngừng đập. Để tôi hoài được yêu.
28 Tháng Mười Một 2020(Xem: 12414)
Xin cúi đầu tri ân Tiên Tổ Những Anh Hùng Liệt Nữ Việt Nam Mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan Xương máu thành phù sa bồi đắp.
28 Tháng Mười Một 2020(Xem: 11653)
Cám ơn với tất cả lòng trân trọng cuộc đời này, hạnh phúc này. Kính chúc những người tôi yêu thương thật nhiều sức khỏe, an lành và hạnh phúc.
27 Tháng Mười Một 2020(Xem: 13725)
Mưa rơi trên lá vàng thu Tiếng mưa như tiếng mẹ ru thuở nào Giọt thánh thót, giọt nghẹn ngào Tràn dâng nỗi nhớ, lời ca dao buồn
21 Tháng Mười Một 2020(Xem: 10397)
Mong rằng nhà giáo sẽ được tôn vinh thật sự, chứ không phải tạo ra để tặng hoa và liên hoan. Hãy tôn trọng những Thầy Cô đứng đắn đứng trên bục giảng và cũng nên thẳng thắn nhìn vào nền giáo dục để xây dựng, củng cố văn hóa Việt Nam..
21 Tháng Mười Một 2020(Xem: 12976)
Nguyện cầu Trời, Phật, ơn trên...? Làm cho thế giới trở nên An Lành.. Cản ngăn kẻ ác tung hoành. Giúp người yêu nước hoàn thành ước mơ.
21 Tháng Mười Một 2020(Xem: 13917)
Một nén hương lòng tiễn đưa nhau Tử sinh tái hợp có gì đâu Cánh hoa phiền muộn giờ khép lại Phiến lá sầu chìm giữa mưa ngâu.
15 Tháng Mười Một 2020(Xem: 11148)
Vì đại dịch COVID-19, chừng như nhân loại đang phải có một thời gian ngủ đông như loài gấu trắng ở Bắc cực. Hy vọng đây là lần “ngủ đông” duy nhất của loài người trong thế kỷ 21.
15 Tháng Mười Một 2020(Xem: 12747)
đêm tàn lạnh giấc mơ hoa tiếng mưa ngày cũ xót xa nỗi niềm hàng cây trút lá ưu phiền tiễn thu lặng lẽ, đầy thềm gió mưa....
14 Tháng Mười Một 2020(Xem: 10885)
Lá bàng ở sân xoay vòng rồi rơi xuống. Đời mụ cũng như chiếc lá vàng còn nằm ở trên cây sẽ rụng bất cứ khi nào. Tại sao mụ phải sợ.
14 Tháng Mười Một 2020(Xem: 12919)
Từ ấy đông Biên Hòa trở lạnh Trăm năm sông vẫn mịt mờ sương Lối quen sao đường về lạc hướng Người ơi người quanh quất buồn tênh.
14 Tháng Mười Một 2020(Xem: 13171)
Năm nay bầu bán thật là buồn Virus giờ này chẳng chịu buông Xã hội hô hào binh với chống Gia đình tranh chấp ghét và thương
08 Tháng Mười Một 2020(Xem: 10434)
Anthony và chủ các nhà hàng khác vẫn cầu nguyện và hy vọng ở một mùa xuân năm tới khí hậu ấm lên, và sẽ có thuốc ngừa đại dịch. Người ta có nghị lực tranh đấu để tồn tại nhờ hy vọng ở một ngày mai tươi sáng hơn. Sau cơn mưa trời lại sáng...
07 Tháng Mười Một 2020(Xem: 11382)
Những thứ này xa lắc rồi. Mấy ai còn nhớ đâu, nhưng có khi lại thấy chúng gần, thật gần… tưởng chừng như mới đâu đây thôi, như hôm nay tôi ngồi viết bài này. Chạm tay vào dĩ vãng, sao thấy ngậm ngùi quá!
01 Tháng Mười Một 2020(Xem: 11159)
Tin hay không tin có ma tùy bạn. Nhưng xin các bạn đừng ghét ma vì họ rất tội nghiệp. Các bạn đừng chọc phá hay làm bạn với ma quỷ. Hãy để ma sống yên bình với thế giới của riêng họ.
01 Tháng Mười Một 2020(Xem: 11724)
Hóa mã... cô cười vui tợn nhỉ? Thành ngưu... cậu nhảy thích ghê mà! Bù cho thuở nọ... ta còn bé Chỉ chộ hình ma đã khóc òa!
01 Tháng Mười Một 2020(Xem: 13344)
Đêm Halloween đốt hương em thủ thỉ Ma năm nay không xin kẹo "Trick or Treat Ba ngày tới bầu Tổng Thống định kỳ Mà kết quả sao lần này đáng sợ.
24 Tháng Mười 2020(Xem: 10600)
Tên thanh niên không thèm ngoái đầu nhìn lại, nó ôm con gà ngồi ở yên sau. Chiếc xe rồ máy lao ra khỏi cổng. Chị Mận đứng yên như trời trồng miệng lẩm bẩm: - Không biết sáng giờ nó ăn uống gì chưa?