Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS Trần Minh Đức - Hồi Ký Của Một Người Yêu Biên Hòa: Cuộc Đời Đi Dạy Và Đi Học, Đi Làm.

04 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 46741)
GS Trần Minh Đức - Hồi Ký Của Một Người Yêu Biên Hòa: Cuộc Đời Đi Dạy Và Đi Học, Đi Làm.

 

 

HỒI KÝ CỦA MỘT NGƯỜI YÊU BIÊN HÒA:

 

CUỘC ĐỜI ĐI DẠY, VÀ ĐI HỌC, ĐI LÀM.

 

3_2thay_tranminhduc-content

L.S. Trần Minh Đức

 

Lời giới thiệu:

 

Luật sư Trần Minh Đức là một trong 4 vị Giáo Sư đầu tiên khai giảng Trung Học Ngô Quyền, Biên Hòa, vào năm 1956. Sau khi đi Pháp để soạn luận án Tiến Sĩ Văn Chương vào năm 1960, và tốt nghiệp Viện Khoa Học Chính Trị của Đại Học Paris, ông đã được mời sang Hoa Kỳ làm việc cho Cơ Quan Thông Tin Mỹ. Sau đó, ông tiếp tục học lấy bằng Tiến Sĩ Luật Khoa Hoa Kỳ (Juris Doctor) và đậu vào Luật Sư Đoàn Tòa Thượng Thẩm thủ đô Washington. Sau khi hồi hưu tại đài Tiếng nói Hoa Kỳ, ông nhận làm Cố Vấn Pháp Luật cho một công ty lớn của Hoa Kỳ là Industrial Associates International, và sau 2 năm, được đề bạt lên chức Phó Chủ Tịch của công ty. Công ty này hoạt động tại Trung Quốc và Singapore về việc xây cất các hạ tầng kiến trúc như cầu đường, xa lộ, chung cư....

Về mặt sinh hoạt Cộng Đồng, ông từng giữ các chức vụ sau đây:

- Chủ Tịch Hội Sinh Viên Quốc Gia tại Pháp (1961)

- Chủ Tịch Hội Ái Hữu Việt Kiều tại Hoa Thạnh Đốn (1968)

- Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tại Hoa Kỳ (1980)

- Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Hoa Thạnh Đốn (1982)

 

 

 

Vào năm 1956, tôi mới là một sinh viên Đại Học Văn Khoa, ban Cử Nhân Giáo Khoa Pháp Văn, đậu được 3 chứng chỉ là Propédeutique de Lettres Francaises, Grammaire et Philologie Francaises, và Littérature Francaise, thì nảy ra ý định đi dạy học vì đã đậu được 3 chứng chỉ chính của bằng Cử Nhân.

Tôi nộp đơn tại Nha Học Chánh thuộc Bộ Quốc Gia Giáo dục, và được bổ làm Giáo Sư Đệ Nhứt cấp công nhựt, dạy môn Pháp Văn tại trường Trung Học Pétrus Ký, ở Sàigòn.

 

Trong lúc đó, tôi lại được ông Hồ Văn Tam, Hiệu Trưởng trường Nguyễn Du, Biên Hòa, cho biết rằng ông đang cần một giáo sư dạy Anh Văn cho trường Ngô Quyền vừa được phép khai giảng vào năm 1956. Ông cho biết sẽ biệt phái một số giáo viên Tiểu Học dạn dày kinh nghiệm qua Trung Học Ngô Quyền để dạy cấp Trung Học. Cái khó của ông là phải tìm một Giáo Sư Anh Văn, vì vào thời 1956, có rất ít Giáo Sư dạy Anh Văn, tương đối là một ngôn ngữ mới trong chương trình giảng dạy.

 

Điều này làm tôi suy nghĩ, vì tôi có gốc gác lâu đời tại Biên Hòa, từ thời ông Cố của tôi là Tri Huyện Trần văn Tứ, sinh quán tại đây. Người con trưởng của ông Cố tôi là ông Trần Văn Thông, gốc Biên Hòa, đi Pháp du học, sau về được bổ làm Tổng Đốc tỉnh Nam Định ở Bắc kỳ, có đến 3 dòng con, mà những người nổi tiếng nhất là Luật sư Trần Văn Chương, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Chính Phủ Việt Nam đầu tiên, là Chính Phủ Trần Ttrọng Kim. Người thứ hai là Bác Sĩ Trần Văn Đỗ từng nhiều lần tham chính, và từng là Bộ Trưởng Ngoại Giao vào lúc Hiệp định Genève năm 1954, mà ông phản đối, không ký. Người thứ 3 là Chánh Án Trần Văn Trí, Chánh Thẩm của Tòa Phá Án Việt nam.

 

Ba tôi là Bác sĩ Trần Văn Châu, làm việc tại nhà thương Chợ Rẫy, thành hôn với má tôi là cô giáo Phan Thị Nữ, người phụ nữ đầu tiên có bằng Diplôme, tại tỉnh nhà, và là bà con cô cậu với các ông Chương, Đỗ và Trí. Vì gốc gác cố cựu tại Biên Hòa, tôi lên Nha Học Chánh xin đổi sự vụ lệnh, về dạy Anh Văn tại Ngô Quyền, vì tôi có vốn liếng 6 năm học Anh Văn tại Lycée Yersin Đalat, và một năm luyện giọng Anh Văn tại tổ chức tiền thân của Hội Việt-Mỹ tại Saigòn.

 

Ba vị Giáo Viên già dặn kinh nghiệm được phái qua dạy Trung Học Ngô Quyền cũng là bậc chú bác, bậc Thầy của tôi. Thầy Đinh Văn Sái đã dạy tôi ở lớp Moyen 2 và Supérieur tại trường Tiểu Học Biên Hòa, lúc đó còn theo chương trình Pháp, học tiếng Pháp từ lớp chót (enfantin). Thầy đã thương yêu tôi, nên bỏ công trong 2 tháng nghỉ hè, luyện tôi thêm về Pháp Văn để thi tuyển vào Pétrus Ký. Tôi nhớ đã học với Thầy hàng ngày, nơi bộ ván để sau garage của ông Đỗ Cao Lụa, thân sinh ra bạn đồng học với tôi là anh Đỗ Cao Thanh.

 

Giáo Sư thứ 2 có bà con với tôi, tôi gọi là Dượng Hai. Đó là thầy Bùi Quang Huệ. Ở gần nhà Dượng Hai Huệ, trong một căn phố ở đường Hàng Dương, là thầy Phạm Văn Tiếng, thân phụ của 2 anh Sĩ quan Không quân Phạm Kim Ngôn và Phạm Kim Lân, bạn của tôi.

 

Như thế, tôi đã liên tiếp dạy 2 niên khóa tại Ngô Quyền, năm đầu tại trường Tiểu Học Nguyễn Du, năm sau dọn lại trường Nữ Công Gia Chánh. Vì đây là những ngày tôi bắt đầu cuộc đời Sư Phạm, nên cố gắng rất nhiều, dạy liên tục không hề nghỉ một phút. Tôi dùng sách Anh Văn của chương trình Pháp, (sixième et cinquième bleu) và luyện giọng Anh Văn theo đúng phương pháp mà tôi đã học được nơi tổ chức tiền thân của Hội Việt-Mỹ. Vì quá hăng hái, tôi dạy hơi nhanh, nên có lúc đã nghe thầy Sái phê bình: “ông Đức dạy cho học trò giỏi thôi, chứ học trò trung bình thì khó theo kịp.” (từ khi làm Giáo Sư, Thầy Sái đổi cách xưng hô với tôi, luôn gọi là ông Đức, chứ không phải là em Đức, như trước.) Tôi thành khẩn chấp nhận khuyết điểm, và từ đó, tôi dạy chậm lại, dành thì giờ giảng nghĩa rõ hơn, cho các học sinh trung bình theo kịp.

 

Tôi rất kính và thương yêu Thầy Sái, vì Thầy đã dạy tôi 2 năm ở lớp Nhì (cours Moyen 2) và lớp Nhất (cours Supérieur). Lúc đó, Thầy còn rất trẻ, chuyên thêm việc làm Moniteur cho chúng tôi luyện tập thể thao. Thầy có đi học khóa Moniteur ở Phan Thiết, cùng với thầy Miên. Hai Thầy chung phụ trách việc tập thể thao cho học sinh. Thầy Sái còn dạy cho chúng tôi hát một bài hát mà đến ngày nay, tôi còn nhớ mãi: ”Ngừng chèo lại đây, cô lái đò ơi, ngừng chèo lại đây giây phút ngừng bơi...” Tôi nhớ mãi đến ngày nay, khi Thầy đã ra người thiên cổ.

 

Một điều tôi còn nhớ nữa là Thầy rất tin cẩn tôi. Mỗi lần đọc Dictée Francaise, Thầy chấm điểm cho tôi trước tiên, cho biết những chỗ sai phạm, rồi Thầy cho tôi quyền chấm điểm các bạn học khác.

 

Khi còn trẻ, tôi rất ham chơi đá banh (bây giờ, họ gọi là bóng đá!) Tôi gia nhập Đội banh Tỉnh nhà, đội Biên Hùng. Thầy Sái cũng rất ham coi đá banh, tuần nào cũng có mặt tại khán đài. Tôi đá được vài lần, một bữa Thầy Sái vào trường nói với tôi: ”Ông Đức đừng đá banh nữa, làm Giáo Sư Ttrung Học rồi, mà còn đá banh, coi không được.” Tuy không đồng ý, tôi cũng theo ý kiến Thầy, đổi qua đá cho Hội Banh Cercle Sportif ở Sàigòn. Lúc còn trẻ, tôi ham vui, chơi với bạn bất kể là bình dân hay có học, và nơi nào trong tỉnh Biên Hòa cũng đều có tôi lui tới. Nhận lời khuyên bảo của Thầy Sái, tôi cũng ít đi chơi với bạn bè.

 

Dượng Hai Bùi Quang Huệ là người dễ tính, vui vẻ, hề hà, không bao giờ chỉ trích ai. Tôi nhớ Dượng Hai rất mê bài Tứ sắc, cứ lâu lâu gây sòng một lần. Bây giờ Dượng Hai, Cô Hai tôi cũng đã quá vãng, đời người coi vậy mà nhanh quá!

 

Thầy Phạm Văn Tiếng là một giáo viên mẫu mực, khoan hòa. Thầy là cha của 2 anh Phạm Kim Ngôn, đá banh chạy trung phong rất giỏi, cũng vào cỡ trung phong Trần Văn Ràng, chủ tiệm vàng của ông Sáu Kiêu, nay cũng đã mãn phần, và anh Phạm Kim Lân, bạn đồng lớp với tôi ở Pétrus Ký. Anh Lân hiện còn sống tại Việt Nam, dù có thể hưởng quy chế H.O. Lần nào về Việt Nam, tôi đều đến thăm anh, vì anh là người bạn học duy nhất còn lại ở Biên Hòa. Tôi nhớ khi tôi dời lên trường Lycée Yersin ở Đà Lạt, mỗi lần về Sàigòn, tôi và anh Lân đèo nhau chạy mobylette đến Hồ Con Rùa, đã rất khuya mà còn kể chuyện Tiêu Sơn tráng sĩ cho nhau nghe. Ôi! Thời bình sao mà êm đẹp quá!

 

Đến năm 1958, tôi đậu đủ các chứng chỉ cần thiết cho bằng Cử Nhân Giáo Khoa Pháp Văn, và được Nha Học Chánh cải ngạch làm Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp, dạy từ lớp đệ Tam trở lên. Tôi buộc lòng từ giã các học sinh và đồng nghiệp ở Ngô Quyền, vì vào năm đó, lớp cao nhất ở Ngô Quyền chỉ là lớp Đệ Ngũ. Tôi về Sàigòn, dạy trường Pétrus Ký và dạy thêm ở các trường Les Lauriers và Âu Lạc.

 

Tôi dạy ở Sàigòn được 2 năm, đến năm 1960, tôi được Phái Bộ Văn Hóa Pháp (Mission Culturelle Francaise) cho biết bang giao Việt-Pháp được cải thiện, và Tổng thống Ngô Đình Diệm không còn cấm chỉ việc du học tại Pháp nữa. Phái Bộ Văn Hóa cũng cho biết, tôi được học bổng của Phái bộ, đi Pháp để soạn luận án Tiến Sĩ Văn Chương tại Đại Học Sorbonne, trong chương trình đào tạo Giáo Sư Đại Học cho Việt nam. Thật là một tin mừng rất lớn, vì vào thời đó, không khí chính trị ở Sàigòn đã bắt đầu ngột ngạt, và tôi cảm thấy đường học vấn bị cản trở, không được tự do. Được du học tại Sorbonne là một giấc mơ rất lớn, đến với tôi trong sự bất ngờ.

 

Tôi lên phi cơ trong niềm phấn khởi hân hoan. Trường mới, không khí tự do thoải mái, sách vở Thư Viện Quốc Gia và Thư viện Sorbonne đầy đủ, Giáo Sư nổi tiếng thế giới, cảnh sinh viên sinh hoạt cũng rộn ràng vui tươi tại Quartier Latin.

 

Trong 5 năm sống tại Paris, ngoài phần chuẩn bị Dự Án Tiến Sĩ Văn Chương Pháp, tôi còn thử thi tuyển vào một trường lớn của Pháp (Grandes Ecoles) mà tôi đã từng nghe danh tiếng lâu nay, đó là Viện Khoa Học Chính trị Paris, nơi đào tạo các công chức cao cấp và giới lãnh đạo công nghiệp doanh thương của Pháp. Tôi chú trọng về ngành Luật và Bang Giao Quốc Tế, với hy vọng sẽ làm cho Bộ Ngoại Giao sau này.

 

Với sự sung sướng tràn ngập, tôi được tuyển đậu vào Viện Khoa Học Chính Trị, và chọn ban Bang Giao và Luật Quốc Tế của Viện.

 

Sau 3 năm học tập, với những vị Giáo Sư danh tiếng đương thời như Thanh Tra Tài Chính Giscard D'Estaing (sau này làm Tổng Thống Pháp) dạy môn tài chính, Giáo Sư Raymond Barre (sau này làm Thủ Tướng Pháp) dạy môn Economie Internationale, và Le Comte Jean Jacques de Bresson (Cố Vấn Pháp Lý của Tổng Thống De Gaulle) dạy Droit Internationnal, vân vân, tôi đã tốt nghiệp Viện Chính Trị Paris vào năm 1964.

 

Tôi liền được tuyển vào làm Bộ Thông Tin dưới quyền Bộ Trưởng Alain Peyrefitte, với điều kiện là trong 2 năm, phải vào quốc tịch Pháp. Tôi rất ngần ngại, hoang mang về việc này, vì không muốn bỏ quốc tịch Việt Nam.

 

Nhân dịp tham dự một cuộc tiếp tân tại Tòa Đại Sứ Mỹ ở Paris, tôi gặp vị Tham Vụ Báo Chí của Tòa Đại Sứ là ông Schneider. Sau khi chuyện vãn, ông mới hỏi tôi là người Việt Nam, sao lại làm cho chính phủ Pháp. Tôi thật tình nói rằng nay đã học xong, nhưng tình hình chính trị bên nhà bi quan quá, cứ đảo chính này đến đảo chính khác, nên tôi ngần ngại không muốn về lúc này. Ông có ý kiến, hay là tôi thử đi làm với người Mỹ, cho quen việc ứng xử với công việc làm của người Mỹ, mai sau về Việt nam hợp tác với người Mỹ thuận lợi hơn. Tôi nhận đề nghị của ông, và bắt đầu làm việc tại Trung tâm Văn Hóa Mỹ ở Paris.

 

Vài tháng sau, có cuộc thi tuyển làm Phóng viên đặc biệt của cơ quan Thông Tin Mỹ tại Paris. Tôi dự thi và được tuyển, vì tiếng Anh, dù lúc sau này không dạy, và chỉ lo học văn chương Pháp, tôi vẫn còn nắm rất vững. Làm chỉ được 6 tháng, tôi lại được Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ (USIA) tuyển dụng đưa sang Washington làm việc.

 

Đó là vào năm 1965. tôi được đưa vào Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, đặc trách phần Bình Luận Chính trị.

 

Rồi đến năm 1975 đã đến, với nhiều bất trắc xảy ra cho Miền Nam. Tôi gần như bị cô lập, xa rời Tổ Quốc thân yêu. Tôi chỉ còn niềm an ủi là vẫn được dùng Tiếng Việt dễ nói chuyện với thính giả bên nhà hằng ngày, biết rằng thính giả rất mong tin bên ngoài cho biết về tình hình Việt Nam và thế giới. Sau này, có những tù nhân cải tạo cho biết đã nhờ gia đình theo dõi những bài tường thuật của tôi trên Đài VOA, dưới bút hiệu Trần Quân. Họ đã quen tôi, qua giọng nói, lời bình luận, qua bút hiệu Trần Quân.

 

Một đóng góp đáng kể của tôi là trong vòng 3 năm, lúc có cuộc đàm phán giữa Thứ Trưởng Ngoại giao Funseth và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cho phép các tù nhân cải tạo được ra đi đến Hoa Kỳ định cư, để đổi chác lấy một vài quyền lợi cho Cộng Sản, tôi đã thường xuyên hướng những bài tường thuật, phỏng vấn về quê nhà, để tù nhân cải tạo và gia đình vững tâm mong đợi. Sau cùng đã có kết quả thuận lợi, mở đường cho các cựu tù nhân ra đi làm lại cuộc đời.

 

Từ đó đến sau này, không lúc nào tôi bỏ lơi việc học thêm. Có thì giờ, tôi ghi danh vào Ban Cao Học về Ngôn Ngữ của Đại Học Georgetown, để trau dồi thêm tiếng Anh. Và sau cùng, vì thấy môn Luật là một môn khá thịnh hành ở Hoa Kỳ, nhiều ngành cần đến, và lợi tức cũng cao, nên tôi đã thi tuyển vào ban học tối, học 4 năm thay vì là 3 năm, sau khi đi làm ban ngày về.

 

Tôi đậu Tiến Sĩ Luật (Juris Doctor), và thi đậu vào Luật Sư Đoàn Tòa Thượng Thẩm Thủ Đô Washington. Tôi hành nghề Luật Sư song song với việc làm cho Đài Tiếng Nói Hoa kỳ, cho đến hết hạn kỳ 32 năm, tôi mới hồi hưu ở Đài VOA, và chỉ hành nghề Luật thôi.

 

Bắt đầu từ năm 1996, tôi bắt đầu hợp tác, Cố Vấn Pháp Lý cho một công ty tạo tác Mỹ, xây dựng cầu đường và hạ tầng kiến trúc, cao ốc cho Trung Quốc, Singapor và cũng có dự kiến muốn vào Việt Nam. Tôi có dịp đi Á Châu, mỗi lần, tôi đều để thì giờ ghé thăm Việt Nam vài tuần.

 

Năm 1996 là lần đầu tôi về Việt Nam, 36 năm sau khi đi du học và lập nghiệp nơi xứ người. Nỗi đau đớn nhất trong đời, là tôi thấy quê hương nhỏ bé của tôi, tỉnh lỵ Biên Hòa, làng Bình Trước, đã thay hình đổi dạng. Cảnh cũ không còn nữa, mà người xưa nay đã vắng bóng. Những bà dì, ông cậu của tôi, những người thân thương đã quá vãng. Số đông là những người mới ở miền Trung, miền Bắc vào cư ngụ, tạo nên một không khí hỗn độn, xô bồ. Biên Hòa nay chỉ là một vùng phụ cận của Sàigòn, xây cất nhà cửa hỗn độn, nhà giầu mới, các cán bộ, cất lầu sơn xanh, sơn đỏ chóa mắt, người nghèo thì sống chui rúc trong những con hẻm tồi tàn. Những gia đình cố cựu ở Biên Hòa nay không còn nữa, từ ông Đốc Vĩnh, Thầy Ba Hiệp, Thầy Ba Tri, ông Đốc Chức, ông Thanh Tra Nga, Thầy Hai Lụa, ông Đốc Tam, và 3 người Thầy thân thương đồng nghiệp của tôi, đã ra đi vĩnh viễn.

 

Mỗi lần về Biên Hòa, tôi chỉ còn thăm anh bạn cố cựu Phạm Kim Lân, nay cũng còn sống với nghề dạy học và tóc đã bạc trắng rồi. Mỗi lần tôi đều nhờ em Trương Minh Sang, học lớp Đệ Thất của tôi, liên lạc với các em học sinh đầu tiên của tôi ở lớp Đệ Thất, và Đệ Lục Ngô Quyền, cùng hội họp, ăn uống tại nhà tôi, hay tại nhà hàng Quyết Thắng, hay Tam Hiệp (nay đã trở thành nhà hàng quốc doanh!)

Nhìn đa số các em, nay đều đã 64, 65 tuổi (chỉ thua tôi 5, 6 tuồi, vì lúc đi dạy, tôi còn rất trẻ) đầu bạc, sún răng, da ngăm đen, thân thể gầy còm, mà lòng tôi thấy buồn vô tận. Vào năm rồi, một học sinh giỏi của tôi, em Trần Thị Đức, có cho tôi biết em bị ung thư nặng, đến giai đoạn chót. Tôi còn dịp liên lạc với em bằng điện thoại, hàng ngày, trong 4 tháng cuối cùng, trước khi em mất. Đau đớn thay!

 

Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.

 

 

 

24 Tháng Mười 2020(Xem: 11333)
Căn nhà như chiếc áo rách toang Mưa tuôn, gió thổi sẽ tan hoang Tôi thân các cháu chờ người cứu Xin trời thương xót kiếp cơ hàn.
18 Tháng Mười 2020(Xem: 12036)
Khi xe lửa rời bến, tôi đứng ở cửa sổ để nhìn lại Huế một lần cuối thì khói xe lửa tạt vào mặt tôi và từ đó bụi khói vào mắt tôi làm tôi chảy nước mắt suốt một đoạn đường dài.
18 Tháng Mười 2020(Xem: 11532)
vẫn cằm vuông. vẻ cương nghị nét phong trần, theo thời gian, phủ dầy vai áo chiếc chemise carreaux thầy thường mặc như một chọn lựa dấn thân ngày tuổi trẻ cho tuổi trẻ lần cuối cùng tôi gặp lại thầy, đã quá tám năm...
18 Tháng Mười 2020(Xem: 12171)
Thế đành... dang dở... âu đành thế Thôi vậy... ngậm ngùi... cũng vậy thôi Bạn hỡi! Hãy quên đi bạn hỡi Đời vui như thuở mới vui đời!
10 Tháng Mười 2020(Xem: 10062)
Màu da ngâm ngâm hơi rám nắng, mũi không cao, mắt mí lót, mặt có những nốt tàn nhang li ti. Nụ cười cũng chẳng làm nghiêng nước nghiêng thành nhưng biểu cảm sự thành thực và thân thiện.
10 Tháng Mười 2020(Xem: 12482)
Thôi nhé! Nghìn thu em ngủ yên Nỗi đau chị không muốn khêu thêm Tiễn em bàn phiếm buồn rưng rức Những dòng chữ viết cũng ưu phiền.
09 Tháng Mười 2020(Xem: 12358)
Thôi thì trước mặt sông sâu Lá xuôi dòng nước biệt sầu thế gian Đẹp thay chiếc lá thu vàng Bềnh bồng trên nước thênh thang giữa trời...
04 Tháng Mười 2020(Xem: 11467)
Những giọt nước mắt của mùa thu yêu thương và hoài niệm. Rồi mọi thứ sẽ qua, rồi tôi cũng sẽ đi vào hư vô. Mọi vật đều vô thường. Hãy nghĩ như vậy để yên vui.
30 Tháng Chín 2020(Xem: 13100)
Dĩ vãng chợt về ta đứng lặng. Chuyện của ngày xưa, thu của Thu. Ta đến giữa mùa thu lá vàng. Ta đi màu sắc vẫn ngập tràn. Giữ mãi trong tim vàng, tím, đỏ Như giữ một thời đã sang trang.
30 Tháng Chín 2020(Xem: 12639)
Người đi vượt chốn ba đào Mùa thu ở lại ngắm sao nguyên cầu Thời gian cõi tạm bao lâu? Mùa thu ở lại ngậm sầu lá rơi! Mong người đến chốn đúng nơi Thành tâm chung sức giúp đời an yên
24 Tháng Chín 2020(Xem: 13803)
Trăng viễn xứ trở về trên bến đợi Lòng thuyền xưa rời bến đã lâu rồi Trăng viễn xứ mờ mờ trên bến cũ Lòng thuyền nào đã chứa nửa vầng trăng?!
24 Tháng Chín 2020(Xem: 12136)
Trăng Thu đủng đỉnh qua vườn Chén trà hỏi bánh người thương đâu rồi? Gió thu lùa vạt mây trôi Để trăng in đậm dáng người phương xa
19 Tháng Chín 2020(Xem: 11166)
Nguyện cầu cho sân si con người dịu lại, thấy được sự vô thường của cuộc sống. Nguyện cầu cho lửa mau tàn, cho người dân trở về nhà sinh sống bình an. Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.
19 Tháng Chín 2020(Xem: 12842)
Từ biệt Portland về Cali Hai nơi cháy lớn ở và đi Tàn tro mắt đỏ tôi xoa mãi. Tháng chín năm nay thật ai bi.
12 Tháng Chín 2020(Xem: 11919)
Viết vài dòng này để tạ tội với dì tôi đã một thời mù đôi mắt vì tình lụy và nhất là tạ tội với ông Nghị Nguyễn Bá Kỳ vì tôi đã hiểu lầm ông. Hắt hơi là tình hận chứ không phải muốn hù dọa, khoe danh.
05 Tháng Chín 2020(Xem: 14607)
..Mỗi người sống chết an bài? Tin buồn loan tới Anh Hoài đã đi Một tuần Vĩnh biệt chia ly Thanh Hoài, Tường Cát viết chi, nói gì? Sinh hữu hạn, tử vô kỳ? Bạn hiền thân ái sầu vì mất Anh.
05 Tháng Chín 2020(Xem: 11350)
Gió Thu nhè nhẹ vẫy tay chào Nàng Thu xinh đẹp đã bước vào Lá đỏ nghiêng mình soi dòng nước Trăng vàng lộng lẫy giữa ngàn sao
05 Tháng Chín 2020(Xem: 12131)
Xuân đi, Xuân tới bao lần, Nhớ mùa Xuân cũ tần ngần ngóng trông Đất Trời, Biển rộng mênh mông? Niềm vui, hy vọng sẽ không phai mờ.?
04 Tháng Chín 2020(Xem: 10943)
Bây giờ Tháng Chín Mùa Thu Trăng treo đỉnh núi vọng mù tóc bay Biển đời gió đọng mưa lay Cầu mong được phút giây này bình yên...
29 Tháng Tám 2020(Xem: 11074)
. Các Tăng Ni dù không được tập trung cầu nguyện như những mùa Vu Lan trước, nhưng năm nay bà Tâm tin tưởng Thầy, Sư Cô và các vị Sư sẽ trì chú tụng kinh nhiều hơn ở mỗi đêm.
27 Tháng Tám 2020(Xem: 12830)
Cám ơn cháu cho ta giác ngộ Một lạy thôi rực rỡ hào quang Cử chỉ khiêm cung bát ngát sen vàng Ta học Phật, học từ đứa bé.
26 Tháng Tám 2020(Xem: 12665)
Rất muốn ngắm biển đêm bằng đôi mắt Tìm những điều ẩn ý dưới hoang mang Và muốn thấy giữa vô cùng tịch mịch Trăng lạc đường vì gió mãi lang thang.
23 Tháng Tám 2020(Xem: 9325)
Buổi tưởng niệm kết thúc qua phần tri ơn của gia đình “Chúng con vô cùng tri ơn quý Thầy Cô và quý anh chị cựu học sinh Ngô Quyền đã mang đến cho ba chúng con một cuộc đời, một cuộc sống đầy ý nghĩa”.
22 Tháng Tám 2020(Xem: 8742)
Chiếc ghế trang trọng dành cho Thầy vẫn luôn nằm trong lòng mỗi người học sinh Ngô Quyền xa xứ. Chúng con xin hứa sẽ làm tốt để xứng đáng với sự dạy dỗ và thương yêu của Thầy.
22 Tháng Tám 2020(Xem: 13177)
Khủng khiếp ngoài trời lửa bốc nhanh Cali hỏa hoạn đã tung hoành Mây đen chế ngự vùng trời rộng Lửa cháy tràn lan khắp núi xanh
14 Tháng Tám 2020(Xem: 14004)
Ta đã mệt nhoài bao năm tháng Buông tay rủ sạch, ta rút lui. Ta nghe văng vẳng những hồi chuông. Tiếng mõ ngân nga vọng vô thường Khoan thai ta bước vào vô tận Một kiếp phù du chẳng vấn vương.
12 Tháng Tám 2020(Xem: 12566)
Tai nghe chim hót ngất ngây. Hồ Thu in bóng rừng cây muôn mầu. Vui lên xin chớ u sầu! Hẹn ngày tái ngộ bắt đầu thu sang ? Viễn du thế giới thênh thang . Ngày Xưa Thân Ái kiên gan đợi chờ...
09 Tháng Tám 2020(Xem: 11805)
Con tạ ơn Thầy Cô đã cho chúng con qua sông yên bình, cho chúng con có căn bản đạo đức và kiến thức làm người hữu dụng. Ở nơi xa không thể về đốt hương tưởng niệm. Con xin kính gửi đến Thầy cô tất cả lòng kính yêu trân trọng nhất.