Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Lê Anh Tuấn Và Nguyễn Kim Quang - Một Thời Để Nhớ.

03 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 73651)
Lê Anh Tuấn Và Nguyễn Kim Quang - Một Thời Để Nhớ.

 

 

 

Một Thời Để Nhớ

 

                         Lê Anh Tuấn và Nguyễn Kim Quan

 

 

            Tôi bắt đầu lên tỉnh học từ 1960. Ba mất sớm, nhà quá nghèo, anh chị em lại đông. Trong suốt thời gian đi học, tôi đã làm rất nhiều nghề để có tiền sinh sống, nổi bật nhất là nghề dạy kèm.

Lúc thầy Mai Kiến Phúc rầy rà đuổi tôi ra khỏi lớp, lý do không thuộc bài năm lớp 11, thầy có biết không, em đâu có được như các bạn, đi học về nhà là có cơm ăn, có thời giờ để học bài. Còn tôi, tan học, bụng lại đói, còn phải đi dạy tối khuya mới về, rồi lấy nồi nấu cơm ăn. Một số bạn trai A2, A1 có đến chỗ tôi ở, thấy nó chỉ là một mái che bằng thiếc độ 8m2, nắng thì nóng như lửa đốt, còn mưa thì ướt át như ở ngoài trời, xung quanh ván vách hư nát.

Bước đầu đi dạy không phải là dễ. Bạn tôi Lê Anh Tuấn xuống trường Minh Tân đứng trước cổng, em nào đi vào tôi cũng tự giới thiệu, mời mọc, chúng nghe xong rồi đi luôn…Ngày này qua ngày nọ, tôi hỏi thiệt có em nào bây giờ dám làm như chúng tôi không? Trời không phụ người nghèo, được 2 em Nguyễn Thị Thanh và Ngọc Bích nhận lời (cô Thanh hiện là Hiệu Trưởng và là thầy vỡ lòng con tôi, em Ngọc Bích có tiệm tạp hóa Hiệp Lợi). Khi đến nơi, hai em thấy chỗ tôi ở quá tầm thường, có lẽ vì lòng thương hại muốn giúp tôi hơn là đi học thêm.

Về phần tôi, phải học cấp tốc các sách Toán, Lý Hóa từ lớp đệ Thất trở lên, soạn cẩn thận, nhét vô bụng, phải giải hết các bài toán đính kèm, kẻo học trò nó hỏi mà không giải được thì mất uy tín. Về lớp học, nhờ anh Phạm Hùng sang giúp mua ván, đóng thành bàn dài và hai cái băng, thế là xong. Riêng tấm bảng, tôi lấy nước sơn, sơn luôn cả vách hè, trên đó tôi viết câu: “Không thi đỗ, không về xứ”. Mấy em đến học, chúng chọc quê tôi, viết trên bàn: “Không thi đỗ, không lấy chồng”. Còn em Đỗ Văn Bụng, quê Lái Thiêu, cũng viết một câu trên chỗ ngồi để lấy lòng người đẹp, “Không thi đỗ, không cưới em”. Về tư cách, phải có bản lãnh đứng đắn, đứng xìu xìu, ển ển, học trò nó xem thường. Tôi noi gương thầy Nguyễn Thất Hiệp, học trò không làm bài, cảnh cáo, và sẵn sàng chưởi thẳng tay. Chính nhờ cái khó đó, người này giới thiệu người kia, mời về nhà dạy con cái của họ.

Về học phí, lúc đó Minh Tân lấy 120 $, tôi lấy 100$, có em nghèo tôi không lấy. Có em cho nhiều hơn, nhận luôn. Được một thời gian ngắn, số em lên đến chín đứa, lớp học quá tải, anh Phan Thành Nam (tiệm mộc Phan Thành) bảo tôi đến nhà dạy cho 3 đứa em của anh (Lân, Long, Dũng). Tôi phải mời Lê Anh Tuấn dạy thêm giờ lớp ở ngoài hè… và tôi bắt đầu chạy show. Không biết ai mách thầy Nguyễn Thất Hiệp, tan học thầy hỏi tôi:

- “Bộ em dạy Toán Lý Hóa hả?”

-“Thưa thầy đói quá làm càng.” Tôi đáp lại.

Tưởng thầy rầy …không…thầy khuyến khích, ủng hộ, động viên. Thầy còn nói:

          -“Có gì khó khăn, cho thầy biết”, chúng tôi lên tinh thần.

         Có vong hồn bà T. T. Phạm Văn Bê (ông làm Quận Trấn Trưởng Long Khánh khóa 10 SQVB), tôi dạy 3 đứa con của bà (Mỹ Huệ, Hoàng Anh, Anh Tuấn). Bà trả tiền rất hậu, bà còn mời tôi ăn cơm với bà và 3 em trước khi về, lần nào cũng vậy. Rồi tiệm vàng Kim Châu (Minh, Kim Châu, và Hoàng), bà Chín Nga bán vải (Tuấn, Phụng), tiệm thuốc tây Hàm Nghi (Hân), cô giáo Mua (Phương Lan, Phương Mai), con chủ lò gạch (Thời), cô giáo Nghiêm và Nguyễn Thị Giàu (hiền thê tôi bây giờ), hai em (quên tên) con của thầy giáo Nhất và cô Hoàng, và một vài chỗ lâu quá không nhớ hết.

            Sắp đến ngày thi, phải ngừng dạy, nếu không: Anh rớt tú tài, anh đi trung sĩ…

            Sau kỳ thi đó, chúng tôi đỗ trong vinh quang: bác Phan Thành may cho bộ đồ veston, ông bà Kim Châu, bà Thiếu Tá, những nơi tôi dạy đều…tặng tiền và quà rất hậu.

Nhớ nhất là ông bà Kim Châu, bán vàng ở đầu chợ Biên Hòa, buổi cơm tối, có đầy đủ nhân viên, và 3 học trò, ông nâng ly chúc mừng, ông nói: “Thầy Quan nhà nghèo, vừa đi học, vừa đi dạy, còn đỗ tú tài , các con lấy đó làm gương (tôi không biết ông bà ở đâu để có dịp thăm viếng). Riêng anh Tuấn, mỗi lần có tiền học phí, tôi chia đôi với anh, anh chỉ lấy một ít thôi.

            Thừa thắng xông lên, tôi bắt đầu dạy thi tú tài (điếc không sợ súng). Ngũ long công chúa (Năm, Nhơn, Thu, Thuận, và Mùi), chúng tôi nói: “Thầy Phúc, thầy Hiệp dạy Toán Lý Hóa cho chúng anh như thế nào, chúng anh chỉ lại cho tụi em như vậy”. Lớp này có 3 người dạy, Anh Tuấn dạy hình học, anh Giang-Hưng dạy lượng giác, còn tôi bao chót (anh Giang Hưng người Hoa, bán hủ tiếu ở chợ Biên Hòa, sau đó anh qua Hong Kong, quí vị nào biết xin chỉ hộ, đa tạ.)

            Lớp dạy ở nhà ông giáo Trọng (Thuận, con ông Giáo, em Thu sau nầy là em dâu của anh Tuấn, em Ngô Mùi, tiệm Hòa Phát, sau khi chị đỗ tú tài, ba cho chị làm chủ tiệm vàng đường Lý Thường Kiệt). Mùa thi năm sau, 5 trò và 3 thầy đều đỗ. Công ơn này là do các thầy ở Ngô Quyền, chúng tôi được tiếng thơm lây.

            Nghề dạy kèm không phải để ăn tiền như tôi trình bày, cũng nhiều đắng cay, nhiều khi rớt nước mắt. Có những em chịu học, dù chậm hiểu cũng giúp cho mình hăng hái. Có những em lười biếng không chịu làm bài…nói 1, 2 lần không nghe, dạy lấy tiền mà con chủ nhà không biết gì mang tiếng, tôi xin nghỉ. Có những em học cho lấy lệ, tôi cũng không dạy, dù rất cần tiền. An ủi, có những em xuất sắc, Ngọc, em anh Xuân kỹ sư công chánh, Thu Hằng…tất cả còn ở trong tim tôi. Có những em, tôi đến nhà dạy mà vô lễ, tôi chưởi và tôi bỏ dạy (lành cho sạch, rách cho te tua luôn). Có những bài toán khó, các em phải cầu cứu cha giải hộ, chẳng hạn Mỹ Huệ, gọi phone xuống nhờ ba làm dùm.

            Còn một điều nữa tôi xin dặn cho thế hệ sau tôi. Khi chủ nhà mời dạy, xin yêu cầu có một tấm bảng, giữa thầy và trò phải có một khoảng cách, đừng bao giờ ngồi chung một bàn để đụng chạm, dễ sanh lòng tà tâm. Cũng có bao nhiêu anh đi dạy kèm thân bại danh liệt, nên cần lưu ý.

            Khi tôi vào đại học, thật là khổ sở. Lúc đầu sáng đi chiều về, dạy tại nhà anh Tuấn. Khuya 4 giờ, mẹ anh Tuấn thức dậy nấu cơm cho tôi ăn, rồi giở một gô mang theo ăn trưa, ngày này qua ngày nọ, làm sao trả được ân nghĩa này.

            Cô Dung bán chè trước rạp hát Biên Hùng, có đứa em tên Hạnh, học nơi tôi, cô Dung hàng tháng ngỏ ý giúp tôi tiền ăn học rồi sau này ra trường trả lại. Tôi cũng muốn nhận nhưng thấy cô Dung quá vất vả, bán từng ly chè, có bữa mưa gió bán không được, không đành, tôi xin nhớ trọn đời tấm lòng hào hiệp này.

            Trong lúc đó, Tuấn đã xuống học ở dưới Long Xuyên. Anh trở về thấy cái sinh hoạt của tôi quá bất tiện, mới tìm một phương khác giúp tôi. Lê Anh Tuấn đi hỏi vợ cho Nguyễn Kim Quan. Như tôi trình bày ở trên, cô giáo Nghiêm, cô đi học dự thính ở nhà em Thời, cô nói với Tuấn, bảo tôi đi hỏi cô em gái của chị, chị sẽ giúp tiền về Sài Gòn học và đừng về Biên Hòa nữa. Tôi lúc đầu không bằng lòng, Tuấn cắt nghĩa lợi hại, cuối cùng tôi nhận lời.

 

 

            Tôi và Tuấn xuống ngã ba Long Định đi Vĩnh Kim, tôi hẹn bà chị từ Cái Bè lên cho đúng phần lễ nghi. Nói có vong hồn Tuấn, anh lo đủ mọi thứ… Xuống tới nhà đằng gái ở Vĩnh Kim, nhà chị lót gạch tàu, nền cao tới ngực, thân nhân đằng gái đã tựu họp, vài ba chục người, tôi nói với Tuấn, “Lớn chuyện rồi”. Tuấn động viên, đừng lo, để tao đối đáp. Như quí vị cũng biết, tôi và Tuấn cũng muốn trông thấy giai nhân như thế nào… Nàng từ trong nhà bước ra, chị Nghiêm nói nàng kìa. Tôi và Tuấn chào, cô vợ tương lai hoảng hồn chạy cái vù, mất tiêu luôn…

            Sau khi về, chị Nghiêm hàng tháng cho tôi 500$, tôi xuống Sài Gòn, ở đại học xá Minh Mạnh do thầy Nguyễn Huy cấp… Ở được 5 tháng thì tới tuổi phải đi lính.

            Sau khi đi tù về, tôi có ghé thăm chị và người yêu quá bé nhỏ (lúc đó cô mới học lớp 7). Tuấn ơi là Tuấn.

            Nghề dạy kèm chưa chấm dứt, khi tôi vào trong quân đội năm 1972, chúng tôi đi chiến dịch ở quận Đức Dục Quảng Nam, lúc ký hiệp định Paris. Chủ Nhật dạy thêm học sinh ở trường trung học, dạy miễn phí, tập vở do ông Quận Trưởng cho. Đang dạy lớp 9, buổi học đầu tiên, ông Quận Trưởng, ông T.T. Triều vào lớp (1994 gặp lại ở San Jose). Các ông ngồi nghe, còn tôi ào ào trên bảng…như mới ngày nào. Tối đến, ông Quận Trưởng hỏi:

            -“Anh Quan, sao anh rành quá vậy?”

            -“Thưa Trung Tá, lúc còn đi học, tôi chuyên môn đi dạy kèm.”

            Đêm Noel 72, chúng tôi mừng Chúa Giáng Sinh tại quận Đức Dục, sáng 25 về Đà Nẵng dự thánh lễ và trực thăng đáp ở Hội An (Faifo), nơi đây chỉ có một đêm, nói sơ về cách học cho các em: Lài, Mai, Cúc, Trung, và Xuân ở tiệm bánh mì Tân Hương, đường Bạch Đằng đã để lại lòng tôi một kỷ niệm và nhiều thương nhớ.

            Mùa thi năm đó, theo lời cô Lài, nhờ sự động viên và khuyến khích của tôi, cô đã đỗ tú tài I và II. Sau này cô thường lên Đà Lạt, chúng tôi rất thương yêu nhau, nếu đừng có ngày ấy, chúng tôi chắc sẽ nên duyên:

            Biết chi một đêm, tha thiết chi một đêm, rồi xa nhau ngàn trùng.

            Chiếc trực thăng chở toán sinh viên chúng tôi rời quận Đức Dục. Lượn một vòng, rồi hai vòng…tất cả học trò, các thầy, cô Hiệu Trưởng Trịnh Thị Thu (người ở Đà Nẵng) rời khỏi lớp, ra sân trường tiễn chúng tôi. Chiếc phi cơ mất hút trên bầu trời xanh thẳm của mùa Xuân năm ấy…nhìn xuống những cái vẫy tay…biết bao giờ tôi trở lại quận Đức Dục thân yêu…âm thầm nhớ lại một bài thơ của em Trần Thị Ngọc An, lớp 9 viết tặng cho tôi ngày nào:

            Đây xứ Quảng quê tôi yêu dấu

            Có Thu sang soi bóng nước trong xanh

            Đèo Ải Vân non cao vút mây tầng…

            Tất cả là những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc đời đi dạy kèm của chúng tôi. Các hậu duệ nên suy nghĩ về nghề này.

 

                               Tennessee, những ngày của mùa Xuân năm Bính Tuất 2006

                                                           

 

 

09 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 55473)
Mình chia tay nhau chắc lần sau cùng Đã biết được gió đi không trở lại Cớ sao đêm đêm nhớ em anh vẫn thấy Em trở về trong mây xám mùa Đông!
04 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 54647)
Nhân dịp nghi lễ Tạ Ơn, BCH Hội AHNgô Quyền và BCH Hội AHBiên Hòa, California đã nhận lời mời của anh Nguyễn Quý Đoàn khoá 6 Ngô Quyền tham dự tiệc thân mật với gia đình ngày chủ nhựt 28 tháng 11 năm 2010.
03 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 105512)
Như hôm nay mưa thì lại nhớ đến những cơn bão rớt ở quê mình, mái nhà xưa và bến sông ngập đầy nắng gió.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 125611)
Luân thường gìn giữ cho nhau Xem như mình lại lỡ tàu nửa đêm Vẫn là anh... vẫn là em... Hãy đem dĩ vãng êm đềm chôn sâu.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 125406)
Sao phương nào tụ lại Theo gió ngàn lung lay Ngọn đông phong tê tái Chiếc lá cuối cùng bay.
01 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 124889)
Tuyết trắng bay bay lạnh buốt đời Nhớ người năm cũ lệ buồn rơi Tình thư còn đó người đâu nửa Người biết hay chăng đã một thời...
01 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 112004)
"Cô Ba ơi, con không nghĩ có một ngày con được về và đứng ở đây. Con vẫn còn nhớ mấy trái thị cô đã tặng cho con. Con xin cầu nguyện cho linh hồn của cô được yên vui ở cõi vĩnh hằng"
30 Tháng Mười Một 2010(Xem: 62709)
Cô Trần Thị Hương, nguyên giáo sư dạy môn Quốc văn ở Trung học Ngô Quyền từ năm 1966 đến năm 1973, đã đột ngột qua đời ngày 26 tháng 11 năm 2010 ở Santa Clara, California,
29 Tháng Mười Một 2010(Xem: 43379)
Cầu mong Cô ra đi an bình, thanh thản. Mỗi lần ra biển em sẽ nhớ đến Cô. Chắc là biển sẽ mang Cô về lại với quê nhà...
28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 121326)
Lễ Tạ Ơn, chính mùa đoàn tụ Con cháu khắp nơi dắt díu về Quây quần ấm cúng bên cha mẹ Kể chuyện tâm tình cho thỏa thuê…
28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 47567)
Mỗi khi chán đời, chờ hoài không thấy cơn buồn tan biến, nhìn mặt mình trong gương ủ rũ, thảm thương hơn chiếc lá nằm lay lắt bên bờ cỏ, chờ gió chiều thổi xuống dòng đường lắm xe, tôi thường ghé nghĩa địa tìm người chết.
27 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124341)
“Ngày xanh tóc hãy còn xanh Bóng chim qua cửa tóc đành điểm sương Ngày xanh tươi trẻ đến trường Giờ đây sao biết người thương nơi nào?!”
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124706)
Đi phương nào thì đường xưa vẫn nhớ Dốc Ngô Quyền ký ức nhớ đầy tim Không bạc lòng áo trắng hiền muôn thuở Nắng gió Biên Hòa vẫn còn đó thương yêu.
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 122641)
Thầy đứng lại để con bước tới Bóng hoàng hôn tỏa ánh nhân từ Ấm lòng con tình thầy vời vợi Tuổi học trò chẳng chút ưu tư .
12 Tháng Mười Một 2010(Xem: 119914)
Có phải xa mười năm mà anh nhớ Sàigon Hay nhìn một chút nắng lên mà thương về bên ấy?
05 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124600)
Bây giờ mây đang bay vào cô tịch Vẫn nhớ nao lòng sông lạnh chiều xa Ở đó có hàng sa kê thật tuyệt Và một người đàn mãi khúc tình ca.
04 Tháng Mười Một 2010(Xem: 64183)
Ly cà phê buổi sáng Nhìn đời trôi theo ngày cùng tháng Bao tiếc nuối cũng đành Còn bên ta ngàn nỗi muộn màng
02 Tháng Mười Một 2010(Xem: 134822)
Mẹ đã thay cha buổi sớm chiều Dạy con cao cả một chữ YÊU Dạy con hiếu đạo tròn ân nghĩa Cơm cha, áo Mẹ buổi kinh chiều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 48656)
Thầy Cô ơi! Bạn ơi! Giờ ở nơi đâu Có lượm được chút nào công thức Toán? Đời không cộng thêm vui, đời trừ đi hy vọng Hạnh phúc chẳng nhân lên, buồn khổ lại chia đều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 116823)
Huỳnh văn Huê vào đệ thất Ngô Quyền năm 1963, đệ nhất B1 năm 1970, học cùng với Ng.x.Quang, Ph.t.Thừa, Tr.h.Phúc, Tô.a.Dũng và nhiều bạn khác nữa…
31 Tháng Mười 2010(Xem: 118411)
Vết thương nào rướm máu Vết cắn nào in sâu Cho muôn đời muôn kiếp Ta vẫn là của nhau
30 Tháng Mười 2010(Xem: 115889)
Hoa hướng dương cần nắng Để đong đưa sắc vàng Xòe hết cánh xinh tươi Mặt tròn xoe duyên dáng.
29 Tháng Mười 2010(Xem: 124226)
Thu đến rồi tàn, thu lại sang Ngoài kia sắc lá đỏ, cam, vàng Gió thu vi vút se se lạnh Muôn thuở tình thu, nhớ mênh mang...
27 Tháng Mười 2010(Xem: 281078)
... để thấy mùa Thu năm nay khởi sắc, lãng mạn và nồng ấm hơn bao giờ hết với đất trời vàng ươm màu áo mới và lòng người như vương vấn chút heo may... Xin bấm vào tựa bài muốn đọc:
23 Tháng Mười 2010(Xem: 112208)
Phải chi từ biệt là quên hết Không còn ray rứt phút thương đau Phải chi chia cắt mà tình chết Mình chẳng nhớ nhau đến bạc đầu.
23 Tháng Mười 2010(Xem: 57723)
Sao rơi hay đom đóm? Chớp tắt suốt đường quê Bìm bịp kêu thắc thỏm Đêm bỗng dài lê thê. Đom đóm hay sao rơi? Chập chờn theo cánh gió Hương hoa khế bồi hồi