Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Lê Anh Tuấn Và Nguyễn Kim Quang - Một Thời Để Nhớ.

03 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 73989)
Lê Anh Tuấn Và Nguyễn Kim Quang - Một Thời Để Nhớ.

 

 

 

Một Thời Để Nhớ

 

                         Lê Anh Tuấn và Nguyễn Kim Quan

 

 

            Tôi bắt đầu lên tỉnh học từ 1960. Ba mất sớm, nhà quá nghèo, anh chị em lại đông. Trong suốt thời gian đi học, tôi đã làm rất nhiều nghề để có tiền sinh sống, nổi bật nhất là nghề dạy kèm.

Lúc thầy Mai Kiến Phúc rầy rà đuổi tôi ra khỏi lớp, lý do không thuộc bài năm lớp 11, thầy có biết không, em đâu có được như các bạn, đi học về nhà là có cơm ăn, có thời giờ để học bài. Còn tôi, tan học, bụng lại đói, còn phải đi dạy tối khuya mới về, rồi lấy nồi nấu cơm ăn. Một số bạn trai A2, A1 có đến chỗ tôi ở, thấy nó chỉ là một mái che bằng thiếc độ 8m2, nắng thì nóng như lửa đốt, còn mưa thì ướt át như ở ngoài trời, xung quanh ván vách hư nát.

Bước đầu đi dạy không phải là dễ. Bạn tôi Lê Anh Tuấn xuống trường Minh Tân đứng trước cổng, em nào đi vào tôi cũng tự giới thiệu, mời mọc, chúng nghe xong rồi đi luôn…Ngày này qua ngày nọ, tôi hỏi thiệt có em nào bây giờ dám làm như chúng tôi không? Trời không phụ người nghèo, được 2 em Nguyễn Thị Thanh và Ngọc Bích nhận lời (cô Thanh hiện là Hiệu Trưởng và là thầy vỡ lòng con tôi, em Ngọc Bích có tiệm tạp hóa Hiệp Lợi). Khi đến nơi, hai em thấy chỗ tôi ở quá tầm thường, có lẽ vì lòng thương hại muốn giúp tôi hơn là đi học thêm.

Về phần tôi, phải học cấp tốc các sách Toán, Lý Hóa từ lớp đệ Thất trở lên, soạn cẩn thận, nhét vô bụng, phải giải hết các bài toán đính kèm, kẻo học trò nó hỏi mà không giải được thì mất uy tín. Về lớp học, nhờ anh Phạm Hùng sang giúp mua ván, đóng thành bàn dài và hai cái băng, thế là xong. Riêng tấm bảng, tôi lấy nước sơn, sơn luôn cả vách hè, trên đó tôi viết câu: “Không thi đỗ, không về xứ”. Mấy em đến học, chúng chọc quê tôi, viết trên bàn: “Không thi đỗ, không lấy chồng”. Còn em Đỗ Văn Bụng, quê Lái Thiêu, cũng viết một câu trên chỗ ngồi để lấy lòng người đẹp, “Không thi đỗ, không cưới em”. Về tư cách, phải có bản lãnh đứng đắn, đứng xìu xìu, ển ển, học trò nó xem thường. Tôi noi gương thầy Nguyễn Thất Hiệp, học trò không làm bài, cảnh cáo, và sẵn sàng chưởi thẳng tay. Chính nhờ cái khó đó, người này giới thiệu người kia, mời về nhà dạy con cái của họ.

Về học phí, lúc đó Minh Tân lấy 120 $, tôi lấy 100$, có em nghèo tôi không lấy. Có em cho nhiều hơn, nhận luôn. Được một thời gian ngắn, số em lên đến chín đứa, lớp học quá tải, anh Phan Thành Nam (tiệm mộc Phan Thành) bảo tôi đến nhà dạy cho 3 đứa em của anh (Lân, Long, Dũng). Tôi phải mời Lê Anh Tuấn dạy thêm giờ lớp ở ngoài hè… và tôi bắt đầu chạy show. Không biết ai mách thầy Nguyễn Thất Hiệp, tan học thầy hỏi tôi:

- “Bộ em dạy Toán Lý Hóa hả?”

-“Thưa thầy đói quá làm càng.” Tôi đáp lại.

Tưởng thầy rầy …không…thầy khuyến khích, ủng hộ, động viên. Thầy còn nói:

          -“Có gì khó khăn, cho thầy biết”, chúng tôi lên tinh thần.

         Có vong hồn bà T. T. Phạm Văn Bê (ông làm Quận Trấn Trưởng Long Khánh khóa 10 SQVB), tôi dạy 3 đứa con của bà (Mỹ Huệ, Hoàng Anh, Anh Tuấn). Bà trả tiền rất hậu, bà còn mời tôi ăn cơm với bà và 3 em trước khi về, lần nào cũng vậy. Rồi tiệm vàng Kim Châu (Minh, Kim Châu, và Hoàng), bà Chín Nga bán vải (Tuấn, Phụng), tiệm thuốc tây Hàm Nghi (Hân), cô giáo Mua (Phương Lan, Phương Mai), con chủ lò gạch (Thời), cô giáo Nghiêm và Nguyễn Thị Giàu (hiền thê tôi bây giờ), hai em (quên tên) con của thầy giáo Nhất và cô Hoàng, và một vài chỗ lâu quá không nhớ hết.

            Sắp đến ngày thi, phải ngừng dạy, nếu không: Anh rớt tú tài, anh đi trung sĩ…

            Sau kỳ thi đó, chúng tôi đỗ trong vinh quang: bác Phan Thành may cho bộ đồ veston, ông bà Kim Châu, bà Thiếu Tá, những nơi tôi dạy đều…tặng tiền và quà rất hậu.

Nhớ nhất là ông bà Kim Châu, bán vàng ở đầu chợ Biên Hòa, buổi cơm tối, có đầy đủ nhân viên, và 3 học trò, ông nâng ly chúc mừng, ông nói: “Thầy Quan nhà nghèo, vừa đi học, vừa đi dạy, còn đỗ tú tài , các con lấy đó làm gương (tôi không biết ông bà ở đâu để có dịp thăm viếng). Riêng anh Tuấn, mỗi lần có tiền học phí, tôi chia đôi với anh, anh chỉ lấy một ít thôi.

            Thừa thắng xông lên, tôi bắt đầu dạy thi tú tài (điếc không sợ súng). Ngũ long công chúa (Năm, Nhơn, Thu, Thuận, và Mùi), chúng tôi nói: “Thầy Phúc, thầy Hiệp dạy Toán Lý Hóa cho chúng anh như thế nào, chúng anh chỉ lại cho tụi em như vậy”. Lớp này có 3 người dạy, Anh Tuấn dạy hình học, anh Giang-Hưng dạy lượng giác, còn tôi bao chót (anh Giang Hưng người Hoa, bán hủ tiếu ở chợ Biên Hòa, sau đó anh qua Hong Kong, quí vị nào biết xin chỉ hộ, đa tạ.)

            Lớp dạy ở nhà ông giáo Trọng (Thuận, con ông Giáo, em Thu sau nầy là em dâu của anh Tuấn, em Ngô Mùi, tiệm Hòa Phát, sau khi chị đỗ tú tài, ba cho chị làm chủ tiệm vàng đường Lý Thường Kiệt). Mùa thi năm sau, 5 trò và 3 thầy đều đỗ. Công ơn này là do các thầy ở Ngô Quyền, chúng tôi được tiếng thơm lây.

            Nghề dạy kèm không phải để ăn tiền như tôi trình bày, cũng nhiều đắng cay, nhiều khi rớt nước mắt. Có những em chịu học, dù chậm hiểu cũng giúp cho mình hăng hái. Có những em lười biếng không chịu làm bài…nói 1, 2 lần không nghe, dạy lấy tiền mà con chủ nhà không biết gì mang tiếng, tôi xin nghỉ. Có những em học cho lấy lệ, tôi cũng không dạy, dù rất cần tiền. An ủi, có những em xuất sắc, Ngọc, em anh Xuân kỹ sư công chánh, Thu Hằng…tất cả còn ở trong tim tôi. Có những em, tôi đến nhà dạy mà vô lễ, tôi chưởi và tôi bỏ dạy (lành cho sạch, rách cho te tua luôn). Có những bài toán khó, các em phải cầu cứu cha giải hộ, chẳng hạn Mỹ Huệ, gọi phone xuống nhờ ba làm dùm.

            Còn một điều nữa tôi xin dặn cho thế hệ sau tôi. Khi chủ nhà mời dạy, xin yêu cầu có một tấm bảng, giữa thầy và trò phải có một khoảng cách, đừng bao giờ ngồi chung một bàn để đụng chạm, dễ sanh lòng tà tâm. Cũng có bao nhiêu anh đi dạy kèm thân bại danh liệt, nên cần lưu ý.

            Khi tôi vào đại học, thật là khổ sở. Lúc đầu sáng đi chiều về, dạy tại nhà anh Tuấn. Khuya 4 giờ, mẹ anh Tuấn thức dậy nấu cơm cho tôi ăn, rồi giở một gô mang theo ăn trưa, ngày này qua ngày nọ, làm sao trả được ân nghĩa này.

            Cô Dung bán chè trước rạp hát Biên Hùng, có đứa em tên Hạnh, học nơi tôi, cô Dung hàng tháng ngỏ ý giúp tôi tiền ăn học rồi sau này ra trường trả lại. Tôi cũng muốn nhận nhưng thấy cô Dung quá vất vả, bán từng ly chè, có bữa mưa gió bán không được, không đành, tôi xin nhớ trọn đời tấm lòng hào hiệp này.

            Trong lúc đó, Tuấn đã xuống học ở dưới Long Xuyên. Anh trở về thấy cái sinh hoạt của tôi quá bất tiện, mới tìm một phương khác giúp tôi. Lê Anh Tuấn đi hỏi vợ cho Nguyễn Kim Quan. Như tôi trình bày ở trên, cô giáo Nghiêm, cô đi học dự thính ở nhà em Thời, cô nói với Tuấn, bảo tôi đi hỏi cô em gái của chị, chị sẽ giúp tiền về Sài Gòn học và đừng về Biên Hòa nữa. Tôi lúc đầu không bằng lòng, Tuấn cắt nghĩa lợi hại, cuối cùng tôi nhận lời.

 

 

            Tôi và Tuấn xuống ngã ba Long Định đi Vĩnh Kim, tôi hẹn bà chị từ Cái Bè lên cho đúng phần lễ nghi. Nói có vong hồn Tuấn, anh lo đủ mọi thứ… Xuống tới nhà đằng gái ở Vĩnh Kim, nhà chị lót gạch tàu, nền cao tới ngực, thân nhân đằng gái đã tựu họp, vài ba chục người, tôi nói với Tuấn, “Lớn chuyện rồi”. Tuấn động viên, đừng lo, để tao đối đáp. Như quí vị cũng biết, tôi và Tuấn cũng muốn trông thấy giai nhân như thế nào… Nàng từ trong nhà bước ra, chị Nghiêm nói nàng kìa. Tôi và Tuấn chào, cô vợ tương lai hoảng hồn chạy cái vù, mất tiêu luôn…

            Sau khi về, chị Nghiêm hàng tháng cho tôi 500$, tôi xuống Sài Gòn, ở đại học xá Minh Mạnh do thầy Nguyễn Huy cấp… Ở được 5 tháng thì tới tuổi phải đi lính.

            Sau khi đi tù về, tôi có ghé thăm chị và người yêu quá bé nhỏ (lúc đó cô mới học lớp 7). Tuấn ơi là Tuấn.

            Nghề dạy kèm chưa chấm dứt, khi tôi vào trong quân đội năm 1972, chúng tôi đi chiến dịch ở quận Đức Dục Quảng Nam, lúc ký hiệp định Paris. Chủ Nhật dạy thêm học sinh ở trường trung học, dạy miễn phí, tập vở do ông Quận Trưởng cho. Đang dạy lớp 9, buổi học đầu tiên, ông Quận Trưởng, ông T.T. Triều vào lớp (1994 gặp lại ở San Jose). Các ông ngồi nghe, còn tôi ào ào trên bảng…như mới ngày nào. Tối đến, ông Quận Trưởng hỏi:

            -“Anh Quan, sao anh rành quá vậy?”

            -“Thưa Trung Tá, lúc còn đi học, tôi chuyên môn đi dạy kèm.”

            Đêm Noel 72, chúng tôi mừng Chúa Giáng Sinh tại quận Đức Dục, sáng 25 về Đà Nẵng dự thánh lễ và trực thăng đáp ở Hội An (Faifo), nơi đây chỉ có một đêm, nói sơ về cách học cho các em: Lài, Mai, Cúc, Trung, và Xuân ở tiệm bánh mì Tân Hương, đường Bạch Đằng đã để lại lòng tôi một kỷ niệm và nhiều thương nhớ.

            Mùa thi năm đó, theo lời cô Lài, nhờ sự động viên và khuyến khích của tôi, cô đã đỗ tú tài I và II. Sau này cô thường lên Đà Lạt, chúng tôi rất thương yêu nhau, nếu đừng có ngày ấy, chúng tôi chắc sẽ nên duyên:

            Biết chi một đêm, tha thiết chi một đêm, rồi xa nhau ngàn trùng.

            Chiếc trực thăng chở toán sinh viên chúng tôi rời quận Đức Dục. Lượn một vòng, rồi hai vòng…tất cả học trò, các thầy, cô Hiệu Trưởng Trịnh Thị Thu (người ở Đà Nẵng) rời khỏi lớp, ra sân trường tiễn chúng tôi. Chiếc phi cơ mất hút trên bầu trời xanh thẳm của mùa Xuân năm ấy…nhìn xuống những cái vẫy tay…biết bao giờ tôi trở lại quận Đức Dục thân yêu…âm thầm nhớ lại một bài thơ của em Trần Thị Ngọc An, lớp 9 viết tặng cho tôi ngày nào:

            Đây xứ Quảng quê tôi yêu dấu

            Có Thu sang soi bóng nước trong xanh

            Đèo Ải Vân non cao vút mây tầng…

            Tất cả là những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc đời đi dạy kèm của chúng tôi. Các hậu duệ nên suy nghĩ về nghề này.

 

                               Tennessee, những ngày của mùa Xuân năm Bính Tuất 2006

                                                           

 

 

17 Tháng Năm 2010(Xem: 54278)
Thơ: Võ Thị Tuyết Nhạc: LmST Hòa âm: Cao Ngọc Dung Ca sĩ: Tâm Thư
15 Tháng Năm 2010(Xem: 76164)
Gặp nhau siết mạnh tay một chút Thiêng liêng tình bạn đã lên ngôi Giá như chưa hết bao nuớc mắt Chắc ngàn giọt lệ vội tuôn rơi
14 Tháng Năm 2010(Xem: 82979)
26 năm nghiệt ngã Kết thúc cuộc tình buồn Em trở thành nước lã Anh trở thành người dưng!
13 Tháng Năm 2010(Xem: 86549)
Lục bình theo con nước Vui nở tím triền sông. Đồng lúa xanh mênh mông Cò vui bòn tôm cá
13 Tháng Năm 2010(Xem: 81176)
Bờ giếng khơi lan cỏ Mặt nước trong ngời ngời Chứa trăm làn mây nhỏ Vầng nhật nguyệt chơi vơi.
07 Tháng Năm 2010(Xem: 139997)
Mẹ là đề tài xưa cũ nhưng không bao giờ lỗi thời trong Thơ Văn; nhờ thế mà hôm nay, nhân Ngày Lễ Mẹ 9/5/2010, chúng ta có dịp giới thiệu trên Trang Web Nhà những bài viết ngắn qua lời văn chân thật, những vần thơ giản dị mà tràn ngập hình ảnh, hồi ức, kỷ niệm thân thương về Mẹ . Xin bấm các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
07 Tháng Năm 2010(Xem: 61871)
Tháng Năm Lễ Mẹ, mẹ ơi! Con không về được xin Người thứ tha Thêm mùa Lễ Mẹ xa nhà Nhớ lòng biển cả mẹ già dấu yêu!
07 Tháng Năm 2010(Xem: 91111)
Ngày nay, má tựa như ngọn đèn dầu trước gió, nếu một mai ngọn đèn tắt đi, e rằng cuộc đời còn lại của tôi sẽ mang nhiều ân hận và tiếc nuối. Ân hận vì không có những giây phút kề cận bên má lúc tuổi già, tiếc nuối vì không còn được một lần ăn lại món thịt nọng kho, cá trê chiên dầm nước mắm mỡ hành và nghe giọng nói của má với “ Hương vị ngọt ngào”.
06 Tháng Năm 2010(Xem: 75091)
Giờ muốn khóc, tự nhiên con thèm khóc Như lăn vòng khỏi võng, khóc hụt hơi Ước chi Má một bên bồng con dậy Khóc một đêm rồi xa Má muôn đời!
06 Tháng Năm 2010(Xem: 80297)
Chúng ta hãy cài một hoa hồng cho những ai còn Mẹ! và một đóa bạch hồng cho những ai mất mẹ. Dù Mẹ còn hay mất, chúng ta cũng phải nên nhớ cho rằng, tất cả ai sống trên đời nầy, thân thể nầy cũng chỉ là một phần tách rời từ thân thể Mẹ mà ra.
06 Tháng Năm 2010(Xem: 65482)
Để con lạnh Mẹ sợ ghê Chiều Đông mưa gió não nề lạnh căm Mẹ ôm con chặt trong lòng Lời ru Mẹ hát, ấm vòng tay êm
30 Tháng Tư 2010(Xem: 79635)
tháng tư về, một thoáng bâng khuâng chút nắng tan, chợt nồng mắt đỏ ai trả lời em điều chưa bày tỏ rằng một thời ta đã yêu nhau?
29 Tháng Tư 2010(Xem: 79777)
Vòng eo áo nhỏ mồ côi Chờ vòng eo thật của người mình thương Lao xao gió bụi mười phương Những hàng khuy bấm giận hờn bung ra
28 Tháng Tư 2010(Xem: 82391)
Xa sông Đồng Nai rồi thấy nhớ Bìm bịp kêu con nước lớn ròng Một bên bồi phù sa màu mỡ Bờ bên kia sóng cuộn thành dòng.
25 Tháng Tư 2010(Xem: 93648)
Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người.
17 Tháng Tư 2010(Xem: 76123)
Vẫn em, áo, với tóc thề, Nghìn xa vẫn một tình quê đậm đà. Đã đành xa vẫn còn xa, Áo em vẫn nét mượt mà Việt Nam!
17 Tháng Tư 2010(Xem: 75737)
Xưa mình đi học về Qua đường đê quanh co Tím màu hoa mắc cỡ Đồng xanh trắng cánh cò.
16 Tháng Tư 2010(Xem: 77046)
Khắc khoải niềm tâm sự Sầu trọn kiếp chưa nguôi Biết ai người tri kỷ Chia xẻ những ngậm ngùi?
15 Tháng Tư 2010(Xem: 59681)
Kể lại để cùng nhớ Cau trầu nhai với vôi Thành màu son đỏ ối Thắm tình nghĩa thiêng liêng.
12 Tháng Tư 2010(Xem: 73432)
Ru em khúc tình sầu Anh quên lời ca cuối Bên ngoài trời mưa vộ i Em hãy ngủ cho ngoan
07 Tháng Tư 2010(Xem: 73113)
Đẹp như màu áo em Nữ sinh trường Ngô Quyền Đạp xe theo Quốc Lộ Che chiếc nón nghiêng nghiêng
06 Tháng Tư 2010(Xem: 83743)
Ngày đầu bước vào ngưỡng cửa Trung học của tôi không được đẹp và dễ thương như các nhà văn đã miêu tả. Tuy nhiên nó vẫn cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.
05 Tháng Tư 2010(Xem: 75069)
Mỗi một mùa gió lộng Mươi bài hát phiêu du Cò xưa gầy bay trắng Rừng lá phủ sương mù .
05 Tháng Tư 2010(Xem: 71953)
Tình em là biển cả Tình anh là mây trôi Hai nẽo đời khác lạ Đành gọi cố nhân thôi!
05 Tháng Tư 2010(Xem: 73876)
Thêm mùa hoa bưởi tháng ba Lòng tôi nhớ đến Biên Hòa ngày qua Bao mùa hoa bưởi xa nhà Nhớ về quê cũ hương hoa thơm nồng
04 Tháng Tư 2010(Xem: 61775)
Mồ hôi chan vào đất Cho dâu lá xanh rờn Trải dài xa tít tắp Dáng mẹ càng gầy hơn.
04 Tháng Tư 2010(Xem: 70926)
bất ngờ phố cổ chiều vàng nắng xao xuyến lòng ai chợt bâng khuâng tôi đã gặp em từ lâu lắm, hay mới hôm nào giữa phố xuân?