Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Trần Minh Tâm - Nghiệp Báo.

29 Tháng Giêng 200912:00 SA(Xem: 38217)
Trần Minh Tâm - Nghiệp Báo.

 

                                     NGHIỆP BÁO!

                                                 

                                                    Trần Minh Tâm

                                                              (1962-1969)

 

     Ngồi trước màn ảnh monitor đọc lướt qua những bản tin trong trang nhà Ngô-quyền.org mà lòng tôi bỗng nhiên xao xuyến lạ. Giờ đây Trần Kim Vy, người bạn phối ngẫu bấy lâu nay hiện vắng mặt trong tòa soạn, vì trong thời điểm này có lẽ nàng đang viếng một cảnh chùa trên ngọn núi nào đó bên Trung Quốc. Hơn một tháng qua, tôi sống thui thủi, bù đầu vì chuyện làm báo, địa ốc, lo việc chăm sóc bà mẹ già, để ý đến sức khoẻ của nhạc phụ... vì đã “uống thuốc liều” khuyến khích Kim Vy rũ bỏ công ăn việc làm và gánh nặng gia đình, thực hiện một chuyến hành hương thứ nhì dài sáu tuần lễ cùng các bạn đạo qua Ấn Độ, Nepal và Trung Quốc. Mỗi ngày nhìn qua văn phòng của nàng, trông thấy bàn giấy vắng chủ, bộ computer thinh lặng khiến tôi không khỏi vương nỗi nhớ nhung. Có thể nói rằng từ ngày vợ chồng chúng tôi rời xa thành phố Biên Hòa thân yêu vào năm 1975 để tị nạn bên Mỹ đến nay, đây là khoảng thời gian dài nhất hai vợ chồng phải xa vắng nhau lâu thế. Đây là giai đoạn thử lửa của vợ chồng tôi để dọn đường cho những ngày còn lại trong đời sống lứa đôi, tuy gần mà xa trong tình chồng vợ hầu chuẩn bị cho cuộc sống cuối đời nặng về tâm linh hơn, cùng nhau hướng thượng để trả bớt cái nghiệp, Nghiệp Làm Báo, Nghiệp Viết Văn mà cả hai vợ chồng vô tình chọn chung từ thuở còn mài đũng quần dưới mái trường trung học Ngô Quyền Biên Hòa.

 

       Hồi tưởng lại chuyện xưa, thắm thoát vợ chồng chúng tôi đã kết hôn với nhau được 33 năm, chưa kể đến 6 năm dài yêu nhau, tìm hiểu nhau trước đó. Đây có thể nói là một cuộc tình “sweet heart” giữa hai cựu học sinh trung học chung trường, giữa một cậu học sinh Đệ Tam và cô học trò lớp đệ Ngũ. Số là hai đứa chúng tôi đã tình cờ quen nhau qua mối tình văn nghệ, báo chí. Chàng là Trưởng Ban Báo Chí toàn trường, nàng là Trưởng Khối Học Tập, Văn Nghệ Báo Chí lớp. Ông Tơ Bà Nguyệt đã dẫn lối đưa đường cho Thầy Đoàn Viết Biên, giáo sư Cố Vấn Báo Chí chọn một lượt 3 bài: tùy bút, truyện ngắn lẫn thơ của trò Võ Kim Huê, bút hiệu Thi Lệ Kiều để đăng vào Giai Phẩm Xuân 1967 của trường và giao cho trò Trần Minh Tâm là trưởng ban báo chí lo phần đánh máy, layout, in ấn. Khi đọc qua những tác phẩm cùng một tuồng chữ thật đẹp thật bay bướm của trò Võ Kim Huê (Thi Lệ Kiều), tôi và một số bạn bè như Diệp Cẩm Thu, Mai Quỳnh Lâm, Trầm Vĩnh Châu, Phạm Sơn Danh, Nguyễn Ngọc Xuân... (trong nhóm 13) đã không thể tránh khỏi sự tò mò lần dò đến lớp của nàng để tìm xem ai là tác giả của cả ba bài được chọn này. Và cuộc tình gần bốn mươi năm nay của chúng tôi đã bắt đầu từ đấy, khởi sự bằng việc kết nghĩa anh em văn nghệ, sau đó là lần tỏ tình, trao nhau nụ hôn đầu vào ngày 15 tháng 3 năm 67 tại góc cầu thang dãy lầu hai. Cuộc tình này đem lại biết bao nhiêu kỷ niệm khó quên, kể cả việc trò Võ Kim Huê vì bị tiếng sét ái tình lần đầu tiên mà đâm ra biếng học, trong suốt cuộc đời đi học từ nhỏ đến khi ra trường, nàng luôn đứng trong số ba trò đầu lớp lãnh thưởng cuối năm (kể cả lần lãnh giải Tổng Thống), nhưng năm đó nàng bị sụt xuống hạng Năm, không được lãnh thưởng khiến nhạc phụ tôi buồn không ít. Tuy nhiên, để vun bồi cho cái nghiệp vừa mới nhú mầm, trong những năm yêu nhau trong trường cũng như lúc tôi đang phục vụ trong quân chủng Hải Quân trước khi cưới nhau, tình yêu của chúng tôi đã được kết chặt bởi các cuốn nhật ký được trao đổi thường xuyên, bằng những lá thư tình thật dài, mà lá thư dài nhất khoảng hai mươi tám trang, tôi đã viết trọn một đêm trong lúc đang lênh đênh trên chiến hạm tuần dương ngoài biển khơi. Khi nhắc đến các cuốn nhật ký, đến những lá thư tình, tôi không bao giờ quên được cô Võ Thu Thủy, giáo sư Công Dân của tôi (giáo sư Anh Văn của nàng), người đã khuyến khích chúng tôi tập viết nhật ký vào năm học lớp đệ Lục, cô Bạch Thị Bê, cô Đặng Thị Trí, cô Phạm Thị Nhã Ý... là những giáo sư Việt Văn đã mở mang trí óc tôi trong nghiệp dĩ văn chương, báo chí Việt ngữ. Riêng giáo sư Đoàn Viết Biên lại là vị thầy đã hướng dẫn tôi cách làm báo, cách làm thầy cò cho những quyển Giai Phẩm Xuân của trường mà tôi đã tích cực phụ thầy một tay từ năm đệ Tứ đến năm đệ Nhất. Tuy là dân học trò trường tỉnh, nhưng nhờ vụ làm báo Xuân mà tôi đã có dịp lang thang xuống Sài Gòn, liên lạc với các nhà in để in báo, đem chuông đi đánh xứ người, bán báo Xuân cho học sinh các trường trung học bạn như Gia Long, Petrus Ký, Chu Văn An, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt v.v... Trong những quyển giai phẩm Xuân sau này, các bài của Thi Lệ Kiều hoặc Võ Kim Huê đều được các giáo sư cố vấn tuyển đăng, khiến nàng và tôi thêm phấn khởi trong việc sáng tác. Âu cũng là cái nghiệp mà tôi và nàng đã vô tình chọn từ ngày còn nhỏ, dưới mái trường xưa.

 

     Cuối năm 1969 tôi ra trường rồi gia nhập Hải Quân, trong khi Kim Huê còn tiếp tục mài giũa sách đèn cùng bạn bè và sau đó nàng đã thi vào Trường Sư Phạm Sài Gòn để thực hiện ước mơ làm cô giáo. Tôi có trở lại thăm trường vào khoảng giữa năm 1971, để đón người yêu đi học về và đã gặp Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo đang đứng trước cánh cửa văn phòng Giám Thị. Thầy Bảo rất vui khi thấy lại trò Tâm, nay đã là một sĩ quan Hải Quân dạn dày sương gió trong bộ quân phục tiểu lễ màu trắng. Lúc chuyện trò thăm hỏi học trò cũ về cuộc đời quân ngũ, Thầy đã không quên thách trò kéo tay ngay trên cánh cửa “swing door” xem ai thắng ai thua, một môn chơi thể thao mà lúc nào thầy Hiệu Trưởng cũng thắng cuộc, dù rằng học trò cũ của thầy hằng ngày đã từng hít đất hàng trăm cái trong quân trường! Lần đó cũng là lần cuối tôi trở lại thăm trường xưa vì lúc sau này, mức độ chiến tranh càng ngày càng gia tăng đã khiến tôi phải nhập vào cuộc sống của người lính chiến thời loạn, thường xuyên xa gia đình, xa người yêu. Tôi đã không còn cơ hội để viết văn, làm thơ như thời đi học, trong khi đó thì Kim Huê được may mắn hơn, vẫn còn cơ hội để tiếp tục sáng tác những tùy bút, thơ văn cho báo Xuân Ngô Quyền, báo Sư Phạm hoặc một vài tờ báo ở Sài Gòn.

 

      Vào giữa tháng Tư năm 1975, trong lúc tin tức chiến sự Miền Trung càng lúc càng bi đát, chiếc Hộ Tống hạm Đống Đa HQ 07 của tôi sau khi rút lui từ Huế vào Cam Ranh (trên đường rút lui, tàu tôi vớt được người bạn cùng nhóm 13 là Ngô Đình Dũng) rồi xuôi về Nam tuần tiễu trong vùng biển Bình Tuy, Rừng Sát, lại nhận được lệnh chuẩn bị trực chỉ Trường Sa để bảo vệ quần đảo này đang bị tàu chiến Trung Cộng bao vây. Tôi được hạm trưởng cho về phép ngắn hạn ba ngày để thăm gia đình và thi hành một vài công tác khẩn cho đơn vị. Tôi rất mừng vì có thể đây là cơ hội cuối cùng gặp mặt gia đình và người vợ trẻ đang mang thai đứa con đầu lòng, trước khi đơn vị lên đường tử chiến cùng một lực lượng Hải Quân hùng hậu của địch quân, với hỏa lực tối tân gấp ba bốn lần so với các chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Ba ngày phép ngắn ngủi này thật đầy kỷ niệm, đầy những hình ảnh khó quên của một thành phố Biên Hòa đang lo âu sợ hãi trước viễn ảnh Cộng quân sắp tràn về từ Long Khánh.  Dù rất muốn ở lại với đại gia đình hai, với người vợ trẻ trong những giờ phút cuối quan trọng này, nhưng bổn phận và trách nhiệm của một quân nhân thời loạn đã khiến tôi quyết định trở lại đơn vị để cùng chiến đấu với anh em đồng đội. Và cũng không ngờ vào giờ chót, Kim Huê lại nhất định đòi đi theo ra Vũng Tàu để tiễn đưa chồng xuống tàu ra đảo Trường Sa, vì có lẽ trong thâm tâm nàng đã có phần lo sợ cho một cuộc chia tay có thể trở thành vĩnh viễn của người chinh phụ trẻ, tuổi vừa tròn 23 đang trong thời kỳ thai nghén đứa con đầu lòng. Trưa ngày 25 tháng 4, trên đường rời Biên Hòa đi Vũng Tàu, chúng tôi đã đi ngang trường Ngô Quyền, nhìn cổng trường đóng kín, chúng tôi có nhắc nhở lại những kỷ niệm khó quên hồi mới quen nhau, mà không ngờ đấy là lần cuối cùng hai đứa nhìn thấy mái trường thân yêu nơi chứa đựng bao nhiêu hình ảnh đẹp của cuộc tình tuổi học trò.       

            Vận nước đẩy đưa, vợ chồng tôi đã rời Việt Nam sang Mỹ một cách bất đắc dĩ, chẳng một dự mưu, toan tính vào những ngày cuối tháng Tư năm Ất Mão, 1975. Kim Huê cứ tưởng rằng nàng chỉ đi ra Vũng Tàu tiễn đưa chồng “bước chân xuống tàu, nước mắt như mưa”, cầu nguyện Trời Phật cho chồng trở về bình yên, sau đó nàng sẽ trở về Biên Hòa lo cho gia đình hai bên “chạy giặc, trốn pháo kích”. Không ngờ chiến tranh lan quá nhanh, Vũng Tàu trở thành một thành phố bỏ ngỏ, đường về bị cắt, nàng không thể nào trở lại Biên Hòa mà phải chạy giặc theo chồng “tạm trú” trên HQ 802 rồi sau đó qua HQ 07 của tôi, trở thành người đàn bà duy nhất sống trên tàu chiến! Vài ngày sau đó, khi đã trải qua những cơn sóng to, bão lớn, khóc cho vận nước đổi thay, những trận nôn mửa lã người vì bị thai hành, say sóng, Kim Huê đã cùng chồng và cả thủy thủ đoàn khóc cho đất nước, cho thân phận long đong vô tổ quốc của đoàn người trên tàu khi nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh qua hệ thống truyền tin. Kể từ đó chúng tôi đã trở nên những người tị nạn bất đắc dĩ, lênh đênh trên biển, đi theo sau đoàn tàu của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, tiến về quần đảo Phi Luật Tân để xin tị nạn chính trị. Và cũng kể từ đó, vợ chồng chúng tôi đi đâu cũng có đôi có bạn; cùng nhau chia đắng xẻ bùi. Đời sống lứa đôi cũng có khi vui khi buồn, nhưng nhờ những thông cảm, những hiểu biết tâm can của nhau, nhờ những năm dài yêu nhau trước khi cưới nhau nên qua ánh mắt, qua tiếng cười, chúng tôi đã cố gắng vượt qua sự khó khăn trong cuộc sống hôn nhân.

 

       Mười ba năm đầu tiên sống trên đất Mỹ, mang hai cháu trai trôi dạt qua ba tiểu bang từ Bắc chí Nam, thay đổi tám, chín công việc; rốt cuộc cả hai vợ chồng đều gạt bỏ tất cả những nghề nghiệp tạm nhưng khá vững vàng trên đất mới, đồng tâm hiệp ý chọn nghề làm báo, viết văn, làm thơ là Nghề, là Nghiệp chính từ đây. Năm 1988, Võ Kim Huê với bút hiệu Trần Kim Vy, sau khi phát hành tác phẩm đầu tiên “Lỡ Một Chuyến Đi”; với sự hỗ trợ của chồng, văn thi hữu và hơn 3,000 độc giả mua sách trong kỳ phát hành sách lần đầu, nàng đã dấn thân vào nghề làm báo. Trần Kim Vy trở thành chủ nhiệm của bán nguyệt san Đẹp, sau đó tờ báo được sự yêu mến của độc giả đã trở thành tuần san phát hành mỗi thứ Sáu tại thành phố Houston, Texas. Chủ bút Trần Minh Tâm luôn đứng sau lưng nàng hỗ trợ, phụ giúp nàng trong việc điều hành tờ báo, giúp tờ báo sống được hơn 18 năm qua. Trong những số báo đầu tiên mới phát hành, cũng nhờ sự giúp đỡ hết lòng của Nguyễn Liễu, người bạn học nối khố từ thời niên thiếu trong nhóm 13 và hai anh bạn Tạ Quốc Quang, Nguyễn Văn Thọ, cùng với nhà văn Nguyễn Vạn Lý mà tờ báo mới đến tay độc giả đúng hạn kỳ. Cũng nhờ làm báo mà sau này trò Võ Kim Huê rất may mắn được các thầy Doãn Quốc Sỹ, Phạm Kim Thư từng dạy nàng ở trường Sư phạm Sài Gòn thường xuyên cộng tác trên báo Đẹp giúp cho nội dung tờ báo thêm khởi sắc.

 

      Giờ đây ngồi trong tòa soạn, giật mình không ngờ chúng tôi lại sống bằng nghề nầy, hay nói đúng hơn, lại đang chìm trong Nghiệp Báo này. Cũng may là dù đã trải qua nhiều trận bút chiến, nhiều cuộc tranh luận dữ dội trên mặt báo với đồng nghiệp, chúng tôi đã không sử dụng phương tiện truyền thông sẵn có, với vũ khí bén nhọn của tờ báo trong tay để hạ độc thủ, hoặc tạo danh vọng, thỏa mãn tự ái riêng tư cho mình. Ngược lại, ngoài nhiệm vụ truyền thông đại chúng, vợ chồng chúng tôi đã cố gắng dùng tờ báo làm phương tiện phát triển những công tác thiện nguyện, xã hội, tôn giáo, phục vụ cộng đồng... đóng góp vào sự phát triển văn hóa, chính trị, xã hội của cộng đồng người Việt Tị nạn tại hải ngoại (chúng tôi có lập được một cơ quan thiện nguyện lấy tên là Đẹp Charity Fund, nhằm phục vụ, trợ giúp các cơ sở thiện nguyện - không phân biệt tôn giáo -  bên nhà và tại địa phương). Vào những năm gần đây lại có dịp tâm sự, bàn chuyện tu hành chuẩn bị cho “kiếp sau” cùng đôi uyên ương Tuấn Tô-Hiền Nguyễn trong nhóm bạn cũ, (Nguyễn Thị Hiền lại là đồng nghiệp dạy học trường Nguyễn Du cùng với Võ Kim Huê, Hiền lên xe hoa về với Tô Anh Tuấn cùng một ngày cưới với vợ chồng tôi và Hiền lại là em gái của Nguyễn Thanh Tùng trong nhóm 13 - trường Ngô Quyền và thành phố Biên Hòa nhỏ thật!) nên những việc “hướng thiện” trong nghề nghiệp càng gia tăng.

       Trong một thể chế dân chủ, truyền thông nắm giữ một vai trò rất quan trọng, đứng vào hàng thứ Tư sau Tam đầu chế. Nhưng nếu những ai thực thi quyền hạn thứ Tư này mà không ý thức được những hậu quả không tốt do quyền lực này tạo ra, nhất là đối với những người làm báo “tắt” như chúng tôi thì “Nghiệp Quả” khó lường! Chúng tôi vẫn nhớ đến câu nói của một văn hào Mỹ rằng “Ngòi bút còn nguy hiểm hơn lưỡi gươm”, giờ đây qua phím chữ của máy điện toán, những bài viết còn nguy hiểm gấp vạn lần. Một cá nhân lỡ thốt câu nói “ác” sẽ làm nhiều người nghe đau khổ, nhưng một bài viết trên mặt báo, trên mạng lưới thông tin toàn cầu Internet, trên trang nhà Depweekly.com, v.v... nếu người viết không tự chế sẽ gây phiền muộn cho hàng chục, hàng trăm ngàn người đọc... mà “hậu quả” tai hại ra sao, thực khó nghĩ bàn. Và cũng vì thường xuyên suy nghĩ về chuyện Nghiệp Quả mà vợ chồng chúng tôi dẫu biết rằng vẫn đam mê nghề báo, nhưng vẫn mong muốn có một ngày nào đó sẽ rũ gánh ra đi, không còn bị vướng bận vào vòng hỉ, nộ, ái, ố, tham, giận, sân, si... để kiếp sau khỏi gánh nhiều tội lỗi. Ôi cũng là Nghiệp Duyên, Nghiệp Báo!

Thôi thì:

   “Đã mang lấy Nghiệp vào thân

 Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa!” (ND).

 

 

09 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 55134)
Mình chia tay nhau chắc lần sau cùng Đã biết được gió đi không trở lại Cớ sao đêm đêm nhớ em anh vẫn thấy Em trở về trong mây xám mùa Đông!
04 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 54258)
Nhân dịp nghi lễ Tạ Ơn, BCH Hội AHNgô Quyền và BCH Hội AHBiên Hòa, California đã nhận lời mời của anh Nguyễn Quý Đoàn khoá 6 Ngô Quyền tham dự tiệc thân mật với gia đình ngày chủ nhựt 28 tháng 11 năm 2010.
03 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 105196)
Như hôm nay mưa thì lại nhớ đến những cơn bão rớt ở quê mình, mái nhà xưa và bến sông ngập đầy nắng gió.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 125134)
Luân thường gìn giữ cho nhau Xem như mình lại lỡ tàu nửa đêm Vẫn là anh... vẫn là em... Hãy đem dĩ vãng êm đềm chôn sâu.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 124914)
Sao phương nào tụ lại Theo gió ngàn lung lay Ngọn đông phong tê tái Chiếc lá cuối cùng bay.
01 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 124467)
Tuyết trắng bay bay lạnh buốt đời Nhớ người năm cũ lệ buồn rơi Tình thư còn đó người đâu nửa Người biết hay chăng đã một thời...
01 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 111573)
"Cô Ba ơi, con không nghĩ có một ngày con được về và đứng ở đây. Con vẫn còn nhớ mấy trái thị cô đã tặng cho con. Con xin cầu nguyện cho linh hồn của cô được yên vui ở cõi vĩnh hằng"
30 Tháng Mười Một 2010(Xem: 62424)
Cô Trần Thị Hương, nguyên giáo sư dạy môn Quốc văn ở Trung học Ngô Quyền từ năm 1966 đến năm 1973, đã đột ngột qua đời ngày 26 tháng 11 năm 2010 ở Santa Clara, California,
29 Tháng Mười Một 2010(Xem: 43018)
Cầu mong Cô ra đi an bình, thanh thản. Mỗi lần ra biển em sẽ nhớ đến Cô. Chắc là biển sẽ mang Cô về lại với quê nhà...
28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 120865)
Lễ Tạ Ơn, chính mùa đoàn tụ Con cháu khắp nơi dắt díu về Quây quần ấm cúng bên cha mẹ Kể chuyện tâm tình cho thỏa thuê…
28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 47207)
Mỗi khi chán đời, chờ hoài không thấy cơn buồn tan biến, nhìn mặt mình trong gương ủ rũ, thảm thương hơn chiếc lá nằm lay lắt bên bờ cỏ, chờ gió chiều thổi xuống dòng đường lắm xe, tôi thường ghé nghĩa địa tìm người chết.
27 Tháng Mười Một 2010(Xem: 123952)
“Ngày xanh tóc hãy còn xanh Bóng chim qua cửa tóc đành điểm sương Ngày xanh tươi trẻ đến trường Giờ đây sao biết người thương nơi nào?!”
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124139)
Đi phương nào thì đường xưa vẫn nhớ Dốc Ngô Quyền ký ức nhớ đầy tim Không bạc lòng áo trắng hiền muôn thuở Nắng gió Biên Hòa vẫn còn đó thương yêu.
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 122181)
Thầy đứng lại để con bước tới Bóng hoàng hôn tỏa ánh nhân từ Ấm lòng con tình thầy vời vợi Tuổi học trò chẳng chút ưu tư .
12 Tháng Mười Một 2010(Xem: 119327)
Có phải xa mười năm mà anh nhớ Sàigon Hay nhìn một chút nắng lên mà thương về bên ấy?
05 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124150)
Bây giờ mây đang bay vào cô tịch Vẫn nhớ nao lòng sông lạnh chiều xa Ở đó có hàng sa kê thật tuyệt Và một người đàn mãi khúc tình ca.
04 Tháng Mười Một 2010(Xem: 63791)
Ly cà phê buổi sáng Nhìn đời trôi theo ngày cùng tháng Bao tiếc nuối cũng đành Còn bên ta ngàn nỗi muộn màng
02 Tháng Mười Một 2010(Xem: 134170)
Mẹ đã thay cha buổi sớm chiều Dạy con cao cả một chữ YÊU Dạy con hiếu đạo tròn ân nghĩa Cơm cha, áo Mẹ buổi kinh chiều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 48312)
Thầy Cô ơi! Bạn ơi! Giờ ở nơi đâu Có lượm được chút nào công thức Toán? Đời không cộng thêm vui, đời trừ đi hy vọng Hạnh phúc chẳng nhân lên, buồn khổ lại chia đều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 116293)
Huỳnh văn Huê vào đệ thất Ngô Quyền năm 1963, đệ nhất B1 năm 1970, học cùng với Ng.x.Quang, Ph.t.Thừa, Tr.h.Phúc, Tô.a.Dũng và nhiều bạn khác nữa…
31 Tháng Mười 2010(Xem: 117784)
Vết thương nào rướm máu Vết cắn nào in sâu Cho muôn đời muôn kiếp Ta vẫn là của nhau
30 Tháng Mười 2010(Xem: 115282)
Hoa hướng dương cần nắng Để đong đưa sắc vàng Xòe hết cánh xinh tươi Mặt tròn xoe duyên dáng.
29 Tháng Mười 2010(Xem: 123607)
Thu đến rồi tàn, thu lại sang Ngoài kia sắc lá đỏ, cam, vàng Gió thu vi vút se se lạnh Muôn thuở tình thu, nhớ mênh mang...
27 Tháng Mười 2010(Xem: 280283)
... để thấy mùa Thu năm nay khởi sắc, lãng mạn và nồng ấm hơn bao giờ hết với đất trời vàng ươm màu áo mới và lòng người như vương vấn chút heo may... Xin bấm vào tựa bài muốn đọc:
23 Tháng Mười 2010(Xem: 111602)
Phải chi từ biệt là quên hết Không còn ray rứt phút thương đau Phải chi chia cắt mà tình chết Mình chẳng nhớ nhau đến bạc đầu.
23 Tháng Mười 2010(Xem: 57353)
Sao rơi hay đom đóm? Chớp tắt suốt đường quê Bìm bịp kêu thắc thỏm Đêm bỗng dài lê thê. Đom đóm hay sao rơi? Chập chờn theo cánh gió Hương hoa khế bồi hồi