Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Lê Văn Đông - Hoài Cảm.

24 Tháng Giêng 200912:00 SA(Xem: 75257)
Lê Văn Đông - Hoài Cảm.

 

 

Hoài Cảm

 

                                       LÊ-VĂN-ĐÔNG

                                            (Niên khóa 1957-1966)

 

Sau buổi họp mặt các CHS Ngô Quyền Hải Ngoại kỳ V vào 2 ngày 29-30/5/2004 tại thành phố San Jose miền Bắc California, về nhà rảnh rỗi giở tờ Kỷ Yếu NQ ra xem, trong lòng chợt dâng lên nhiều cảm xúc.

Trước hết, xin có lời khâm phục và cảm ơn Ban Chấp Hành và Ban Biên Tập với tinh thần “Ăn cơm nhà, vác ngà voi”, đã không quản thì giờ công sức gởi đến thầy cô bạn bè NQ cũ một “tuyệt tác” để đời. TẬP SAN KỶ YẾU NGÔ QUYỀN 2004, qua tuyển tập này, chúng ta đã có được khoảnh khắc thả hồn về dĩ vãng, nhớ lại một thời thư sinh áo trắng học trò xưa. Qua những hình ảnh, các bài viết của thầy cô bạn bè, chúng ta đang thấy lại từng khuôn mặt, dáng hình, tính cách của các ân sư, đưa chúng ta trở về con đường phát triển của mái trường xưa. Qua đó, câu nói “Cơm Cha-Áo Mẹ-Công Thầy” càng mang ý nghĩa sâu đậm hơn!

 

Trường được thành lập năm 1957, trải qua hai địa điểm “ăn nhờ ở đậu” để cuối cùng “an cư lập nghiệp” trên con dốc Huỳnh Của (gọi theo tên quán cháo lòng nem nướng ngon có tiếng ở đây), nằm cạnh Quốc Lộ 1 trên đường xuôi ra miền Trung. Tôi có vinh hạnh được đi học tại trường từ 1959 đến 1966. Sau khi thi xong bằng Tú Tài ÌI, khoảng thời gian ở đây đã khắc ghi trong tôi rất nhiều kỷ niệm buồn vui lẫn lộn.

 

Bốn năm đầu tiên bậc Đệ I cấp (từ đệ Thất đến đệ Tứ tức là từ lớp 6 đến lớp 9) chúng tôi học với các thầy: thầy Tiếng (Pháp Văn), thầy Huệ (Việt Văn), thầy Vinh (Sử Địa), thầy Sái (Toán, Vật Lý) là các giáo viên từ trường tiểu học Nguyễn Du đưa sang, vì trường mới thành lập còn thiếu giáo sư. Hiệu trưởng lúc này là ông Thanh Tra Giáo Dục Phan Văn Nga, sau là ông Đốc Học Hồ Văn Tam. Cũng có thêm những giờ học Nhạc (thầy Tỵ), Vẽ (thầy Mẫn) hoặc các giờ học Nữ Công Gia Chánh cho các nữ sinh. Các lớp đệ nhất cấp này nam nữ sinh học riêng, chia ra một tuần gồm 3 buổi sáng và 3 buổi chiều. Bốn năm đệ I cấp trôi qua êm ả nhẹ nhàng, các môn học không quá khó, chỉ nhằm mục đích khơi rộng những kiến thức đã thu thập ở bậc Tiểu Học. Lớp có khoảng 40 đến 50 học sinh, có 1 bạn làm trưởng lớp. Hai bạn tôi nhớ nhất trong các năm học này là Phan Văn Mau, viết chữ rất đẹp, thường lên bảng chép bài cho thầy, và Huỳnh Quan Danh, hiền lành học giỏi, làm trưởng lớp (Danh là anh của bác sĩ Huỳnh Quan Minh ở San Jose). Ngoài ra, tôi còn nhớ một số khuôn mặt thời này như: Trần Kim Đôn, Thái Tấn Phước, Nguyễn Văn Hoàng, Đào Duy Minh, Trần Quốc Bửu, Tô Hồng Dũng v.v…

 

Thi xong trung học đệ I cấp, học tiếp đệ II cấp (từ đệ Tam đến đệ Nhất). Trường bây giờ đã dời về địa điểm mới, khang trang rộng rãi, có sân chơi, nhà để xe đạp, phòng thí nghiệm cho các giờ Hóa Học, Vật Lý. Thầy cô cũng lần lượt được bổ nhiệm về nhiều hơn, phần đông đều trẻ trung, sinh động. Lớp tôi học, môn Anh Văn (sinh ngữ chính) với các thầy Phan Thanh Hoài, Đào Mạnh Đạt, và cô Nguyễn Thị Thu. Môn Toán với các thầy Nguyễn Sơn, Nguyễn Thất Hiệp, Nguyễn Bát Tuấn (hiện ở Úc). Môn Việt Văn với các thầy Phạm Đức Bảo (Hiệu Trưởng), Thân Trọng Hưng, cô Vương Chân Phương (ái nữ của cụ Vương Hồng Sểnh). Môn Pháp Văn với cô Nguyễn Thị Luông, Trần Liên Chi (phu nhân thầy Nguyễn Xuân Hoàng). Môn Vạn Vật với thầy Lê Tiến Đạt (với “nick name” là Đạt Phật Bà vì thầy rất đẹp trai và hiền lành), cô Tiên Quý Huê (chị của bạn Tiên Nguyên cùng lớp). Môn Sử Địa học với các thầy Dương Hòa Huân, Hà Tường Cát. Môn Vật Lý với thầy Thân Trọng Bình (thầy vào với tác phong rất chững chạc, luôn đeo cravatte đàng hoàng nhưng đến khi giảng bài, thầy đem hết tâm huyết say sưa với bài giảng, đến nỗi sau khi kết thúc buổi học … tay áo xắn cao, quần áo dính đầy bui phấn!). Đến môn Hóa là môn tôi sợ nhất vì quá rắc rối với các phương trình Hóa Học khó nhớ, thì lại là giờ tôi mong đợi nhất vì gặp lại thầy Hoàng Quý Nam, một sư phụ rất đẹp trai ăn mặc “đúng mốt” (xin được vô phép nhắc lại một sự việc vui vui là hồi đó, lũ học trò chúng tôi thường “cáp đôi” thầy Nam với cô Đặng Thị Trí vì hai vị trông rất xứng đôi).

 

            Chúng tôi còn học môn Triết với thầy Tâm, là một giáo sư còn rất trẻ; môn nhạc với thầy Lê Hoàng Long (tác giả bản “Gợi Giấc Mơ Xưa”).  Môn Công Dân Giáo Dục với cô Đinh Thị Hòa và hai thầy Phạm Gia Hưng, Hoàng Phùng Võ (đặc biệt môn này được xếp giờ từ 12 giờ đến 1 giờ trưa là giờ đã đói bụng mệt mỏi, nên chúng tôi thường cúp cua môn này. Biết tẩy lũ quỷ nên cứ đến giờ này là thầy Hiệu Trưởng hay cô Giám Thị Múi hoặc Cô Giàu thường đến lớp để điểm danh, nhờ đó mới duy trì được sĩ số của lớp học).

 

            Về phần bạn bè, qua năm đệ II cấp này, chúng tôi đã chững chạc vì đã ra vẻ thanh niên tuy vẫn còn những suy nghĩ, hành động, lời nói mang đậm bản sắc “thứ ba học trò!” Lúc này, theo đà tăng trưởng của chiến tranh, quân đội Mỹ đã đến Việt Nam và đặt căn cứ ở khắp nơi. Lối sống Mỹ cũng dần xâm nhập vào cuộc sống của lớp trẻ, mà điển hình là chiếc quần JEAN (còn gọi là quần Bò!). Lũ chúng tôi rất mê được mặc loại quần này, nhưng kỷ luật nhà trường rất nghiêm khắc, chỉ được mặc áo sơ mi trắng, quần ka ki xanh với phù hiệu trường trên ngực áo. Hôm nào “mốt” quá, muốn lấy le với bạn bè, liền mặc đại đi vào trường, là gặp ngay thầy Giám Thị hoặc thầy Hiệu Trưởng đã chờ sẵn, thế là đành tiu nghỉu quay về nhà thay lại chiếc quần ka ki truyền thống, chưa kể vào lớp trễ lại còn bị phạt cấm túc!

 

            Bạn cùng lớp với tôi ở các lớp đệ II cấp còn ghi nhớ có: Lê Xuân Hàm (mất năm 2002 ở San Jose), Nguyễn Văn Dũng (mất ở Việt Nam trước 1975), Trần Thành Ba, Lê Văn Cồn (đá banh rất khá mà chúng tôi đặt nick name là Cồn Lê, Cồn Lừa!) cùng Lê Văn Nhóm, Lê Đức Việt, Nguyễn Văn Tấn, Nguyễn Văn Lư, Nguyễn Văn Định, Nguyễn Hữu Dụng. Cũng phải kể đến các bạn Bắc Kỳ Hố Nai như: Nguyễn Văn Tần, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Văn Đĩnh …đã dạy cho tôi nếm mùi thịt cầy từ dạo ấy. Cũng cần nhắc tới ban đại diện trường vẫn do Huỳnh Quan Danh đứng đầu, sau là Hồ Văn Bền, ban văn nghệ có 2 tay đàn Tây Ban Cầm là Nguyễn Trung Tâm, Nguyễn Đình Nguyên (ở San Diego) và các ca sĩ học trò: Trang Liên, Kim Liên, Jacque Liên … cùng tay solo nam Nguyễn Mạnh Xoa rất xuất sắc khi hát đơn nam trong hợp ca trong dịp phát thưởng Hè 1963 tổ chức tại rạp Biên Hùng.

 

            Năm lớp đệ Nhị, nữ và nam sinh bắt đầu học chung. Tôi chọn ban A nên trong lớp nữ sinh chiếm đa số. Bạn gái cùng lớp tôi còn nhớ: Bùi Thị Hảo (dược sĩ ở San Jose), Bùi Thị Duyên, Lê Thị Mỹ (con ông Hội Trưởng hội Phụ Huynh Học Sinh Lê Văn Nhơn), Dương Thị Bê, Phạm Thị Lớn (con ông Quận Trưởng quận Châu Thành Phan Văn Đời), Trần Thị Oanh (nha sĩ ở LA), Lâm Hồng Hoa, Liên Nữ Dung, Lê Thị Phượng, Trương Thị Yến, Huỳnh Ngọc Ánh (con ông chủ nhà sách Huỳnh Hiệp), Huỳnh Ngọc Mai (xướng ngôn viên đài truyền hình QLVNCH). Đặc biệt nhớ đến chị Thanh (bị người yêu bắn chết mà tác giả Trần Kim Vy có nhắc đến trong Kỷ Yếu NQ 2004). Thời gian này, tỉnh Biên Hòa chưa tổ chức kỳ thi tú tài nên chúng tôi phải “khăn gói quả mướp, lều chỏng: xuống thi ở Sài Gòn.

           

            Thắm thoát đã 50 năm kỷ niệm ngày thành lập mái trường NGÔ QUYẾN thân yêu. Qua bài viết này, xin được gợi đến quý thầy cô lòng biết ơn chân thành cùng những tình cảm với bạn bè cùng lớp năm xưa, hẹn gặp gỡ dịp HỘI NGỘ TRÙNG PHÙNG giữa năm 2006 này.

 

                                                San Jose, mùa Xuân 2006

                                                           

 

17 Tháng Năm 2010(Xem: 54166)
Thơ: Võ Thị Tuyết Nhạc: LmST Hòa âm: Cao Ngọc Dung Ca sĩ: Tâm Thư
15 Tháng Năm 2010(Xem: 75969)
Gặp nhau siết mạnh tay một chút Thiêng liêng tình bạn đã lên ngôi Giá như chưa hết bao nuớc mắt Chắc ngàn giọt lệ vội tuôn rơi
14 Tháng Năm 2010(Xem: 82603)
26 năm nghiệt ngã Kết thúc cuộc tình buồn Em trở thành nước lã Anh trở thành người dưng!
13 Tháng Năm 2010(Xem: 86331)
Lục bình theo con nước Vui nở tím triền sông. Đồng lúa xanh mênh mông Cò vui bòn tôm cá
13 Tháng Năm 2010(Xem: 80993)
Bờ giếng khơi lan cỏ Mặt nước trong ngời ngời Chứa trăm làn mây nhỏ Vầng nhật nguyệt chơi vơi.
07 Tháng Năm 2010(Xem: 139614)
Mẹ là đề tài xưa cũ nhưng không bao giờ lỗi thời trong Thơ Văn; nhờ thế mà hôm nay, nhân Ngày Lễ Mẹ 9/5/2010, chúng ta có dịp giới thiệu trên Trang Web Nhà những bài viết ngắn qua lời văn chân thật, những vần thơ giản dị mà tràn ngập hình ảnh, hồi ức, kỷ niệm thân thương về Mẹ . Xin bấm các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
07 Tháng Năm 2010(Xem: 61639)
Tháng Năm Lễ Mẹ, mẹ ơi! Con không về được xin Người thứ tha Thêm mùa Lễ Mẹ xa nhà Nhớ lòng biển cả mẹ già dấu yêu!
07 Tháng Năm 2010(Xem: 90998)
Ngày nay, má tựa như ngọn đèn dầu trước gió, nếu một mai ngọn đèn tắt đi, e rằng cuộc đời còn lại của tôi sẽ mang nhiều ân hận và tiếc nuối. Ân hận vì không có những giây phút kề cận bên má lúc tuổi già, tiếc nuối vì không còn được một lần ăn lại món thịt nọng kho, cá trê chiên dầm nước mắm mỡ hành và nghe giọng nói của má với “ Hương vị ngọt ngào”.
06 Tháng Năm 2010(Xem: 74761)
Giờ muốn khóc, tự nhiên con thèm khóc Như lăn vòng khỏi võng, khóc hụt hơi Ước chi Má một bên bồng con dậy Khóc một đêm rồi xa Má muôn đời!
06 Tháng Năm 2010(Xem: 80195)
Chúng ta hãy cài một hoa hồng cho những ai còn Mẹ! và một đóa bạch hồng cho những ai mất mẹ. Dù Mẹ còn hay mất, chúng ta cũng phải nên nhớ cho rằng, tất cả ai sống trên đời nầy, thân thể nầy cũng chỉ là một phần tách rời từ thân thể Mẹ mà ra.
06 Tháng Năm 2010(Xem: 65148)
Để con lạnh Mẹ sợ ghê Chiều Đông mưa gió não nề lạnh căm Mẹ ôm con chặt trong lòng Lời ru Mẹ hát, ấm vòng tay êm
30 Tháng Tư 2010(Xem: 79242)
tháng tư về, một thoáng bâng khuâng chút nắng tan, chợt nồng mắt đỏ ai trả lời em điều chưa bày tỏ rằng một thời ta đã yêu nhau?
29 Tháng Tư 2010(Xem: 79363)
Vòng eo áo nhỏ mồ côi Chờ vòng eo thật của người mình thương Lao xao gió bụi mười phương Những hàng khuy bấm giận hờn bung ra
28 Tháng Tư 2010(Xem: 82201)
Xa sông Đồng Nai rồi thấy nhớ Bìm bịp kêu con nước lớn ròng Một bên bồi phù sa màu mỡ Bờ bên kia sóng cuộn thành dòng.
25 Tháng Tư 2010(Xem: 93548)
Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người.
17 Tháng Tư 2010(Xem: 75747)
Vẫn em, áo, với tóc thề, Nghìn xa vẫn một tình quê đậm đà. Đã đành xa vẫn còn xa, Áo em vẫn nét mượt mà Việt Nam!
17 Tháng Tư 2010(Xem: 75351)
Xưa mình đi học về Qua đường đê quanh co Tím màu hoa mắc cỡ Đồng xanh trắng cánh cò.
16 Tháng Tư 2010(Xem: 76681)
Khắc khoải niềm tâm sự Sầu trọn kiếp chưa nguôi Biết ai người tri kỷ Chia xẻ những ngậm ngùi?
15 Tháng Tư 2010(Xem: 59334)
Kể lại để cùng nhớ Cau trầu nhai với vôi Thành màu son đỏ ối Thắm tình nghĩa thiêng liêng.
12 Tháng Tư 2010(Xem: 73042)
Ru em khúc tình sầu Anh quên lời ca cuối Bên ngoài trời mưa vộ i Em hãy ngủ cho ngoan
07 Tháng Tư 2010(Xem: 72701)
Đẹp như màu áo em Nữ sinh trường Ngô Quyền Đạp xe theo Quốc Lộ Che chiếc nón nghiêng nghiêng
06 Tháng Tư 2010(Xem: 83606)
Ngày đầu bước vào ngưỡng cửa Trung học của tôi không được đẹp và dễ thương như các nhà văn đã miêu tả. Tuy nhiên nó vẫn cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.
05 Tháng Tư 2010(Xem: 74696)
Mỗi một mùa gió lộng Mươi bài hát phiêu du Cò xưa gầy bay trắng Rừng lá phủ sương mù .
05 Tháng Tư 2010(Xem: 71671)
Tình em là biển cả Tình anh là mây trôi Hai nẽo đời khác lạ Đành gọi cố nhân thôi!
05 Tháng Tư 2010(Xem: 73505)
Thêm mùa hoa bưởi tháng ba Lòng tôi nhớ đến Biên Hòa ngày qua Bao mùa hoa bưởi xa nhà Nhớ về quê cũ hương hoa thơm nồng
04 Tháng Tư 2010(Xem: 61394)
Mồ hôi chan vào đất Cho dâu lá xanh rờn Trải dài xa tít tắp Dáng mẹ càng gầy hơn.
04 Tháng Tư 2010(Xem: 70555)
bất ngờ phố cổ chiều vàng nắng xao xuyến lòng ai chợt bâng khuâng tôi đã gặp em từ lâu lắm, hay mới hôm nào giữa phố xuân?