Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Nguyễn Thị Thêm - TÔI LÀ DÂN NẪU

14 Tháng Ba 20154:19 CH(Xem: 20655)
Nguyễn Thị Thêm - TÔI LÀ DÂN NẪU


Tui là dân NẪU - NTT

Nau1

Trước hết tui xác nhận, dù tui nói tiếng Nam kỳ quốc rặc, nhưng tui cũng là dân Nẫu.

Trong  của trái tim người con dân Bình Định, tui không xấu hổ khi có người hỏi:
- Chị là dân Nẫu thiệt hả?
Ừa thì dân Nẫu có gì mà xấu. Bởi ba tui từ Bình Định vào Nam lập nghiệp từ nhỏ.

Khi có người thắc mắc tại sao lại gọi là "Dân Nẫu" tiếng lóng để chỉ người miền Phú Yên Bình Định.

Trong một bài tui không biết tác giả đã viết như thế này (xin trích):

 Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan có bổn phận đưa lưu dân nghèo không sản nghiệp khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả (tỉnh Phú yên bây giờ). Sau 33 năm khai phá vùng đất mới, hình thành làng mạc, năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1629, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên. Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa, dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như Phường, Nậu, Man. 

Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu Nậu. 
Ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm... 
 Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chu (1697-1738) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi, chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như “Thuộc”, “Nậu” bị xóa bỏ. 
Khái niệm thành tố chung cấp hành chính “Nậu” được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba. 
 Từ “Nậu” không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ: 

 Ví dụ: 

 - Mất chồng như nậu mất trâu
  Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm. 

 - Tiếc công anh đào ao thả cá
   Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu. 

 - Ai về nhắn với nậu nguồn
   Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên. 

     Từ chữ “Nậu” ban đầu, phương ngữ Phú Yên-Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi. Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: “ổng”, “bả”. Anh ấy, chị ấy được thay bằng: “ảnh”, “chỉ”. 
 Và thế là “Nậu” được thay bằng “Nẫu''. 
 Nẫu đã đi vào ca dao Bình Định, Phú Yên khá mượt mà, chân chất: 
 Ai nề sông núi Phú Yên 
 Cho nẫu nhắn gởi nỗi niềm nhớ quê 

 Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam) với “mô, tề, răng, rứa, chừ”, vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Bình Định - Quảng Ngãi) được đổi thành “đâu, kia, sao, vậy, giờ”. 
 Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Bình Định - Phú Yên) không phân biệt rạch ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt, bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Bình Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên), các âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi. 
 Riêng đồng bằng Tuy Hòa, khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã. Bởi vậy, “Nẩu” hay được phát âm là “Nẫu”. 
 Đồng bằng Tuy Hòa trù phú, nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ “Nẩu” theo phát âm quen miệng thành chữ “Nẫu”. 

Nói nôm na, tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng Bình Định và Phú Yên có nghĩa là họ, hay người ta, vì là "đại từ nhân xưng" nó nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều (Hết trích).

Cho nên dù muốn dù không tui cũng là "Dân Nẫu" dù tui chưa một lần về quê nội. Quê nội tui nghèo lắm đó là làng An Nhơn tỉnh Bình Định. Người dân đa phần làm ruộng và làm bánh tráng đa, nấu rượu hay làm nón. Loại nón Gò Găng đặc biệt của người Bình Định. Cái gốc gác quê hương bây giờ còn sót lại là gia đình chú của tui. Bởi chú không chịu vào Nam lập nghiệp. Chú ở lại lo hương quả, phần mộ tổ tiên và hương khói nhà từ đường.

Chú tui bây giờ đã 90 tuổi và vẫn còn sống.Tui còn nhớ về chú. Chú thiệt lùn. Mà kỳ nghen, người Bình Định thường là lùn lùn chứ không cao. Có lẽ vì gần núi hay phong thổ nơi ấy khiến người dân Bình Định không cao lớn, to con như người ta.
Chú Sáu tui lùn, nói năng chơn chất, âm điệu quê mùa và khó nghe. Nhưng chú đi bộ giỏi lắm. Đố thanh niên đi lại chú. Có lẽ quê nội tui đồi núi nhiều ít có xe cộ. Phương tiện di chuyển là đi bộ nên chú tui đi thật nhanh. Ở quê nhà chú nấu rượu và tráng bánh đa. Bây giờ nghe đâu con chú vẫn còn làm nghề cha truyền con nối này. Nhưng tân tiến hơn vì có máy móc không làm thủ công như chú ngày xưa.

Kỷ niệm khiến tui nhớ về chú nhiều nhất là lúc tui còn bé lắm. Thuở ấy kế bên cạnh nhà tui là nhà "Cậu Ruẫn" Ai là người sống lâu năm ở Bình Sơn thì mới biết. Nhà cậu bán tạp hóa, nhưng ban đêm cậu mở lớp dạy thêm. Học trò không phân biệt lớp mấy, cậu cũng nhận. Thù lao chẳng có gì đáng kể vì ai có gì thì nộp cái đó. Gạo, mước mắm hay đôi khi một ký thịt heo cậu cũng vui vẻ. Có những người gửi con học mà không đóng gì hết cậu cũng xí xóa. Miễn là mấy đứa nhỏ chịu học là cậu vui. Cậu thường giúp Cha và ông trùm lo việc nhà thờ. Tụi tui là học sinh của cậu nên tham gia vào toán rước kiệu mỗi khi lễ trọng. Nhóm chúng tui là nhóm mặc đồng phục đánh trắc nhịp nhàng đi sau kiệu rước.

Hôm đó Cậu cho làm toán chạy. Liên tiếp mấy bài tui về nhất. Một bài viết chính tả tui cũng đứng đầu về không bị lỗi. Cậu thưởng cho tui quyển "Thế Giới Tự Do" và một cuốn sách truyện tựa đề "Mài dao dạy vợ".

Tui mừng lắm. Hí hửng về khoe với ba ,má tui. Năm đó chú Sáu tui vào thăm, lúc chú về hai quyển sách đó không cánh mà bay. Tui tìm khắp nơi không có. Ba tui mới cho biết chú đã xin ba tui đem về cho con chú. Tui giận và ghét chú lắm. Tui khóc không chịu ăn cơm luôn, ba tui hứa mua cho tui quyển sách khác, nhưng tui không chịu. Đầu óc trẻ thơ tui đâm ra giận luôn mấy chú người Bình Định ba tui đang cưu mang để tìm việc làm.

Kỷ niệm đó hằn in trong tôi vì sau đó Cậu Ruẫn đã bị phe bên kia về thủ tiêu kèm theo bản án. Trường học đóng cửa và các chú người cùng quê không còn làm kẹo kéo vào trường bán cho học trò tụi tui. Mợ Ruẫn và các con sau đó đùm túm nhau bỏ làng quê đi đâu không biết.

Mỗi lần vào Nam, chú Sáu tui đem vào những đặc sản quê hương là bánh tráng đa, bánh in và bánh cốm thơm mùi gừng rất ngon. Đặc biệt nhất là nón lá Gò Găng cho má tui và rượu do chính chú nấu để ba tui đãi khách. Có một lần trời mưa, tui đội cái nón Gò Găng đi học. Nhóm bạn chọc tui là "Bà già trầu" làm tui quê quá trời. Bởi nón Gò Găng thô hơn nón Huế. Vành rộng và bên trong rất nhiều nan tre đan nhau rất đẹp và dày. Do đó nó khá nặng lại nhiều màu mè, bên ngoài lại bọc một lớp vành bằng nylon cho khỏi ướt. Tui chút xíu, đội cái nón to đùng lại nặng nề không thấy mặt mày ở đâu nên tụi bạn chọc cũng đúng. Từ đó tui không bao giờ đội cái nón lá quê hương đó nữa.

nonla
Nón lá gò Găng


Chú Sáu tui rất sợ ba tui. Sau này đã có cháu nội, nhưng khi vô thăm gia đình tui, suốt thời gian ở lại chú không dám uống rượu. Dù con cháu mời chú cũng lắc đầu. Chú nói:
- Thôi! chú sợ anh Hai la .

Bởi ở quê nội tôi anh hai rất có uy với em vì quyền huynh thế phụ. Nghe đâu lúc ba tui trong Nam, chú Năm thay mặt ba dạy dỗ chú Sáu nhiều trận cũng ly kỳ lắm.

Chú Năm tui cũng lùn và đương nhiên ba tui cũng không cao. Nhờ trời, lai bên ngoại nên tụi tui giò cẳng cũng kha khá không đến nỗi nào.
 Chú Năm tui rất giỏi chữ Hán và đánh võ thật tài.
Hồi chú mới vô Nam, chú mở lò dạy võ Bình Định tại nhà ba tui. Buổi chiều một nhóm thanh niên ra sân múa quyền, tấn, thủ. Gậy gộc múa lia chia vui lắm. Chú đa tài, biết làm nhiều thứ để sinh nhai nên sau này chú Năm tui rất khá.

Chú Năm được ba tui gửi tiền về đài thọ cho ăn học nên chú giỏi tiếng Hán và cũng rất bảo thủ. Trong nhà chú vẽ một bức tranh thật lớn. Trong đó ngoài hình vẽ, chú viết vào những câu chữ Hán, chữ Nôm lẫn chữ Quốc Ngữ. Đại loại:

- Huynh đệ như thủ túc, phu thê như y phục.

- Trai thời trung, hiếu làm đầu.

Gái thời tiết hạnh là câu trao mình.

- Nam vô tửu như kỳ vô phong. vân... vân...

Có một lần hai vợ chồng tui tới thăm, chú và chồng tui cãi nhau kịch liệt về những tư tưởng quá hủ lậu này. Rốt cuộc hai ông đều xỉn, gục tại chỗ.

Ngày má tui theo lệnh chồng về quê Bình Định rước bà nội tui vô Nam. Má dụ em tui:
- Con ở nhà giỏi nghen! Má ra quê đón bà nội vô. Bà nội răng còn tốt lắm. Nội vô sẽ xước mía cho con ăn. Khỏi cần dùng dao róc mía.
Thế là má tui ra đi, tụi tui hai chị em ở nhà chờ nội về với hình ảnh thật đẹp, nội ngồi xước mía hai chị em ăn đã đời luôn.

Bà nội tui xuống xe. Một bà già lùn lùn, mặc bộ đồ đen, choàng một khăn sọc nâu  đen cột chéo trên đầu. Một mắt bị che bởi một mãnh khăn chéo hình tam giác. Nội vô nhà kêu hai đứa và cười.
Hai chị em tui dội ngược. Hai hàm răng nội đen thùi lại dính cổ trầu đo đỏ thấy ớn. Thằng em tui chạy trốn sau lưng tui thập thò nhìn nội. Còn tui khoanh tay "Thưa nội mới dô" rồi chạy tuốt ra sau hè.
Đó là lần đầu tiên tui tiếp xúc với nội, một người Bình Định chính gốc và nói toàn giọng Nẫu khó nghe.
Bởi ba tui vô Nam lâu nên nói giọng đã pha tiếng Sài gòn. Âm điệu và từ dùng đã thay đổi nhiều.
Nghe nói nội tui là con quan, từ nhỏ được cưng chiều, răng nội nhuộm từ hồi còn con gái. Mỗi năm đều dùng thuốc để làm bóng và giữ răng đen, chắc. Cả đời nội chưa hề ra khỏi quê làng nên nội nói chuyện giọng rất cứng và dùng những từ địa phương rất lạ.
Tui nhớ một lần kêu tui đi lấy cái đòn cho nội ngồi, tui vô vác cây đòn gánh của má tui ra. Nội nói:
- Không phải. Cái đòn ngồi.
Thì ra nội muốn cái ghế đẫu thấp. Mỗi khi làm gì sai nội nói "Đừng làm dẫy". Mỗi khi nội ngạc nhiên nội nói "Dẫy na" hay "Úy châu cha quơi". Nội dùng từ "nẫu" để ám chỉ người khác. Làm điều gì nội vừa lòng nội nói ''được rầu'' (được rồi) hay ''cái đầu gấu nậu đau từ hầu tấu'' (Cái đầu gối nội đau từ hồi tối). Ban đầu nghe tui không hiểu, lâu dần thấy thân thiết, quen thuộc. Vắng nội tui lại nhớ cái âm điệu quê mùa, thô kệch mà thân thiết biết bao nhiêu. 

Nội nghe má  kể chị em tui ước có nội vô xước mía cho ăn. Nội sai ba ra vườn chặt mía rồi kêu Út vô để ăn mía. Nội xước mía ngon lành rồi đưa cho Út. Út cầm miếng mía có dính cỗ trầu rồi đứng im. Em không dám quăng đi, mà cũng chẳng dám bỏ vào miệng.  Nhìn hàm răng đen thùi, nhìn cái khăn chéo đen che nửa bên mắt, nhìn toàn thân nội kỳ kỳ, lạ lùng dễ sợ. Cuối cùng em bật khóc. Cả nhà vỡ lẽ ra. Má ôm em vào lòng dỗ dành. Từ đó chị em tui không còn mơ nội xước mía cho mình ăn nữa. 
Khi má tui ra quê chồng đón nội vào Nam. Má kể về quê chồng như sau:
Làng quê nghèo lắm. Má phải làm mâm cơm cúng gia tiên và chào hỏi họ hàng bên chồng. Má đi chợ mua thức ăn. Chợ xa lắm mà chỉ có đi bộ mà thôi. Má gánh một gánh tiền Hồ, lội qua mấy cánh đồng men đường núi. Tiền xài như giấy rác, một gánh tiền mua một gánh thức ăn đem về.
Má đem nội vào Nam, đi bệnh viện mỗ mắt và phụng dưỡng nội cho đến cuối đời. Nội mất thọ 94 tuổi, lúc đó má tui gần 70.

 Tôi chưa về quê nội lần nào vì thời buổi chiến tranh, tui lấy chồng xa rồi bao nhiêu biến cố xảy ra, tui trở thành người bỏ quên quê cha đất tổ.
Mỗi khi có ai nói về dân Nẫu tui lại cười cười vì mình cũng là dân nẫu. Một quê hương không xa mấy mà chẳng được một lần về. Nơi đó, người dân hiền lành, chân chất, cục mịch nhưng thẳng ngay và trực tính. Giọng nói của ba tui hay các chú đều chậm rãi, từ từ nhưng nhấn mạnh những gì quan trọng. Nó toát ra một cái gì chính chắn và uy nghiêm. Cho nên, dù ba tui không nói nhiều, nhưng khi ông chỉ cái ghế bảo "Ngồi xuống" là tụi tui khiếp vía thấy mình có lỗi và ân hận đã làm ông phiền lòng.
Đôi khi người ta dùng từ "Người Nẫu" có ngầm ý chê bai. Nhưng đó chỉ là phân biệt vùng, miền kỳ thị lẫn nhau. Người Bình Định hiền lành, thiệt thà không điêu ngoa hay xảo ngữ, cho nên hay bị người miền khác lừa.
Có câu thiên hạ hay ví von:

Quảng Nam hay cãi,
Quảng Ngãi hay lo,
Bình Định co ro.
Thừa Thiên ăn hết.

đã nói lên cái tính thiệt thà, chơn chất tiện tặn của người xứ nẫu quê tui.

Ba tui là người Nẫu. Một người cha hiền lành, cần cù và trung thực. Tôi hãnh diện về cha tui. Hãnh diện khi trong người mình cũng có gốc gác người nẫu. 
Tui không đủ ngôn từ để nói về Dân Nẫu của tui. Tui xin mượn đoạn kết của bài viết mà tui không biết tác giả để kết thúc bài viết này. Cám ơn tác giả đã cho tui tìm về quê nội và thương vô cùng xứ Nẫu của tui.
(xin trích.)
 Hồi nhỏ, mỗi lần tôi làm điều gì không đúng, ông nội tôi thường nói: “đửng làm dẫy, nẫu cừ” (đừng làm vậy, người ta cười), nhưng cũng có khi ông nội cho tôi thoải mái, muốn làm gì thì làm, kể cả vấn thuốc rê của ổng ra sân ngồi hút phì phà như người lớn, vì: “nẫu cừ thì kệ nẫu cừ, nẫu cừ lạnh bụng, hở mừ cái răng”. Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cộc cằn, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, tình cảm nhưng hơi thô kệch… 

 Dân Nẫu đi đến đâu cũng là “dân nhà quê”, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc “nẫu” của mình. Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc. Nẫu không dịu dàng, lịch lãm như người xứ Huế. Nẫu cũng chẳng rộng rãi, vô tư như người Nam. Nẫu là Nẫu. “Nẫu dzẫy” (nậu vậy), Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”. Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt thòi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống chết với bạn... (hết trích).
 
Cho nên bạn hãy yên tâm khi kết bạn với người nẫu. Họ thiệt thà, chơn chất nhưng tốt bụng. Họ sẽ là những người bạn đáng tin cậy.
Hãy tin tui đi. Vì tui cũng là "người nẫu"
 
Nguyễn thị Thêm.
 
21 Tháng Mười 2010(Xem: 124921)
Một năm thoáng chốc trôi qua Nhớ anh em cảm xót xa trong lòng Dòng thơ rưng rức não nùng Từng đêm nước mắt lưng tròng lại rơi
21 Tháng Mười 2010(Xem: 57979)
một nhóm cựu học sinh Ngô Quyền đã góp mặt trong Dạ Tiệc Gây Quỹ 2010 của cựu học trường Trung học Saint Paul, vào chiều chủ nhật 26 tháng 9 năm 2010, tại nhà hàng Diamond Seafood Palace
20 Tháng Mười 2010(Xem: 123942)
Lá vàng rụng cánh đầu tiên Mùa Thu thức dậy nửa đêm tháng Mười Mây còn đang mãi rong chơi Gọi nhau về nhuộm sắc trời vàng êm
17 Tháng Mười 2010(Xem: 51911)
Từ những tình cảm đầy ấp tình người bên cạnh Thầy Cô, gia đình Ngô Quyền đã có buổi họp mặt chiều thứ sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010 với anh chị Nguyễn Quý Hy, khóa 7 đến từ Việt Nam.
16 Tháng Mười 2010(Xem: 120689)
trăng không còn huyền thoại chú cuội xưa đã già chỉ còn ta ngắc ngoải mắt mỏi chờ xa xa bán dạ... đêm nay say ta chờ suốt kiếp này vàng hoa thu một đoá tình nẩy mầm đâu đây
14 Tháng Mười 2010(Xem: 34714)
Thúng này rau non xanh Thúng kia hoa rực rỡ Đường làng đầy nắng hanh Bé theo bà đi chợ. Lúa vẫy tay chào gió Bé vẫy nón chào tre Bay lả dăm cánh cò Khuất dần sau lối rẽ.
14 Tháng Mười 2010(Xem: 110260)
Hôm nay mùa Thu sang Lá xanh đang chuyển vàng Mây Trời chiều tím ngắt Con nhìn mẹ võ vàng
12 Tháng Mười 2010(Xem: 132077)
Nắng thu buồn ngắm lá vàng Cung thương xa vắng lẫn làn mưa bay Giot sầu còn đọng mi ai Nghe như trong gió vương hoài thở than
10 Tháng Mười 2010(Xem: 46576)
Thu Về đây Theo ngọn gió heo may Sầu lay Khung trời xám mây bay Vàng phai Vùng xa xưa nẻo ấy
10 Tháng Mười 2010(Xem: 47693)
Có tiếng gió thu buồn hắt hiu trong đêm âm thầm Có tiếng hát tan hồn viễn du với bao niềm nhớ
09 Tháng Mười 2010(Xem: 32960)
Áo em xưa ấy trắng tinh Dài bay theo gió cho vành nón nghiêng Đạp xe lên dốc Ngô Quyền Giọt mồ hôi đẫm thắm duyên má hồng
09 Tháng Mười 2010(Xem: 41682)
Bây giờ là mùa thu sương mù giăng giăng trên làn tóc rối. Em ngồi nhìn xa xôi bâng khuâng rồi thầm nhớ ai
09 Tháng Mười 2010(Xem: 124530)
anh bỏ rơi nỗi buồn bên bờ hồ một buổi chiều georgia không nắng em lượm về làm quà chớm thu còn anh hoài vo tròn mộng trắng
08 Tháng Mười 2010(Xem: 216282)
Đêm thu trầm lắng Đang phủ vây khắp trời Đêm quạnh vắng Mong manh giọt sương rơi
08 Tháng Mười 2010(Xem: 68046)
Thu vào đây rồi, trong suốt mắt thủy tinh Nghe mát rượi bình trà xanh sủi bọt Một chút Thu thôi, đã gọi đàn chim hót Ngàn Thu chảy về, chắc nước lọc tràn ly!
08 Tháng Mười 2010(Xem: 117630)
Một chiều cuối Thu năm 1965, tôi đang học Đệ Tam B trường Trung Học Ngô Quyền được tin T. lấy chồng. Lòng buồn da diết!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 119765)
Lang thang... đồi vắng... một mình... Mưa Thu hay tiếng thì thầm gọi nhau Lá vàng theo gió về đâu??? Cho ta gửi chút nỗi sầu về ai...
05 Tháng Mười 2010(Xem: 116306)
WEB NHÀ Ngô Quyền hân hoan đón nhận những sáng tác với Chủ Đề THU của quý Thầy Cô và Anh Chị Em...
05 Tháng Mười 2010(Xem: 129635)
Thuyền đi theo con nước Sóng về vỗ bờ xa Mây đi làm chiều nhớ Gió về sông chan hòa .
04 Tháng Mười 2010(Xem: 40081)
Mời các chs NQ (nhất là các anh chị khóa 11, đã mang phù hiệu NQ từ năm 1966 đến năm 1973) cùng trở về Ngô Quyền xưa như chúng ta chưa từng có trên dưới bốn mươi năm ngăn cách mình với thời mới lớn
29 Tháng Chín 2010(Xem: 53720)
Thơ Tưởng Dung - Phổ Nhạc Đào Lê Văn - Hòa Âm Hoàng Anh- Ca Sĩ Tịnh Uyên.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 115302)
Mến tặng Tuấn, một người bạn ở cùng dãy phố Nhất.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 108205)
Giọt nắng vàng rớt xuống Trên giàn mướp lung linh Hoa vàng cười sung sướng Đón ánh sáng bình minh.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 119700)
Là một trong những học sinh xuất sắc của trường Ngô Quyền, Phạm văn Xuân cùng các bạn của lớp B2 như Hồ Chí Tường, Đỗ Thái Hùng đã là niềm tự hào của các cựu học sinh khóa 7.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 125435)
Tôi bẻ cong nỗi nhớ thành vòng tròn Chia mỗi đứa một cung tròn phân nửa Mỗi bên có Thầy Cô, bạn bè trang lứa Có cánh phượng hồng lẫn tiếng ve ngân
20 Tháng Chín 2010(Xem: 110774)
Thêm một sinh nhật buồn Lệ ướt mưa sầu tuôn Tìm về phương trời cũ Có người mãi vấn vương
15 Tháng Chín 2010(Xem: 41030)
nhưng trong lòng tôi cái hình ảnh người thầy giáo tất tả dắt chiếc xe đạp cũ, không thắng, không vành che sên đi băng qua đường, đầu cúi thấp… vẫn còn nguyên vẹn trong tôi như một dấu ấn.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 100635)
Lâu lắm rồi không về lại Biên Hòa Nghe hương bưởi ngạt ngào trong nắng sớm Có dễ hơn ba mươi năm biền biệt Kẻ ở người đi rồi chẳng khác không quen.